“TÔI DÃ ĐỐI MẶT VỚI ĐIỀU MÀ PRIMO LEVI GỌI LÀ VÙNG XÁM”, MỘT CUỘC ĐỐI THOẠI VỚI LEILA GUERRIERO
![]() |
© Magdalena Siedlecki |
Độc giả tiếng Tây Ban Nha đã làm cho quyển sách L’appel (Tiếng gọi) của Leila Guerriero trở thành sách bán chạy nhất trên phạm vi quốc tế.
Trong nhiều tháng, tác giả đã phỏng vấn nhân vật của cuốn tiểu thuyết của bà: Silvia Labayru, người sống sót từ chế độ độc tài Argentina. Những lời chứng gây phiền toái và phức tạp của bà ấy về một câu chuyện sục sôi trong ký ức của Argentina tạo thành chất liệu của một tác phẩm dài nhiều chương dạng truyện kể phi hư cấu.
Để cố gắng hiểu công trình này, một sự kết hợp giữa thể loại báo chí và văn học trước khi tác phẩm bằng tiếng Pháp được phát hành vào mùa hè này, chúng tôi đã tìm gặp bà.
Tác giả: Paula Klein
Trong L’appel. Histoire d’une femme argentine (Tiếng gọi. Chuyện của một phụ nữ Argentina) (Nhà xuất bản Rivages, sẽ phát hành ngày 20 tháng tám 2025) – một trong những quyển sách bằng tiếng Tây Ban Nha được bán nhiều nhất năm ngoái, nhà văn nữ kiêm nhà báo Leila Guerriero dựng nên một chân dung nhiều mặt của cuộc đời của Silvia Labayru, người sống sót từ chế độ độc tài gần đây của Argentina.
Vào tháng 12 năm 1976, Labayru được 20 tuổi và đang có thai 5 tháng đã bị bắt cóc và bị giam giữ trong trong nhà tù và là nơi tra tấn lớn nhất của Argentina: Trường cơ khí hải quân (ESMA - Escuela Superior de Mecánica de la Armada) ở Buenos Aires. Vera, con gái của bà ra đời trong thời gian bà bị giam giữ.
Labayru đặc biệt được biết đến vì đã bị các quân nhân Argentina sử dụng như là một yếu tố quan trọng của sự thâm nhập của họ vào nhà thờ Santa Cruz, nơi tập trung các gia đình của các nạn nhân bị mất tích dưới chế độ độc tài.
Năm 1977, một quân nhân và là gián điệp Argentina Alfredo Astiz – có biệt danh là “Thiên thần tóc vàng của cái chết”, ông ta là một trong những người tác chiến chính của chiến dịch ESMA và cuối cùng sau một quá trình pháp lý dài và phức tạp đã bị kết tội tù chung thân vì tội ác đối với nhân loại – đã thâm nhập được vào các buổi họp này bằng cách làm cho mọi người tưởng rằng em/anh của ông ta đã mất tích.
Ông ta đi cùng Silvia Labayru lúc đó là tù nhân của ông. Nhờ chiến dịch này, Astiz đã bắt giữ và bắt cóc nhiều thành viên của các nhóm này – trong đó có nữ tu người Pháp Léonie Duquet.
Labayru đã được ra tù vào tháng 6 năm 1978. Sau đó bà sống lưu vong ở Madrid, nơi những người bạn chiến đấu của bà đã kết tội bà là phản bội và phủ lên bà một tấm màn nghi ngờ. Năm 2014, bà đã khởi xướng vụ kiện đầu tiên về các tội ác bạo lực tình dục đã xảy ra tại trung tâm ESMA, vụ án đã kết thúc năm 2021 với việc buộc tội hai cựu lãnh đạo quân nhân.
Leila Guerriero tái hiện câu chuyện này trong một quyển sách phức tạp, tinh vi và nhiều tình tiết, đưa ra ánh sáng lịch sử của Argentina những năm 1970 và những vùng xám của phong trào kháng chiến montonero[1].
Chúng tôi trở lại với hiện tượng văn học lớn gần đây bằng ngôn ngữ Tây Ban Nha với nữ tác giả của tác phẩm.
![]() |
Bản dịch tiếng Pháp sẽ được Rivages xuất bản vào tháng 8 năm 2025. |
Điều gì đã thúc đẩy bà kể câu chuyện này: câu chuyện của một phụ nữ nhưng cũng là một câu chuyện về bạo lực trong những năm 1970 tại Argentina?
Khi tôi đọc phóng sự của Mariane Carbajal, đồng nghiệp của tôi trên báo Página/12 mà nhiếp ảnh gia Dani Yako gửi cho tôi, tôi đã xem một bảng tóm tắt kinh khủng tất cả những gì mà những người bị quân nhân của chế độ độc tài ở Argentine bắt cóc đã phải chịu đựng.
Lúc đầu, Silvia Labayru bị bắt cóc khi bà ấy có thai 5 tháng, người ta đã để bà ấy sinh con ở nơi giam giữ, bà bị cưỡng bức lao động, phải đóng vai em gái của Astix trong cuộc thâm nhập khủng khiếp vào nhà thờ Santa Cruz tháng 12 năm 1977[2].
Cuộc thâm nhập này đã là một trong những khoảnh khắc đen tối nhất của chế độ độc tài quân phiệt.
Bà có thể kể lại giai đoạn này không?
Nhà thờ Santa Cruz được đặc biệt biết đến vì sự dấn thân của nhà thờ cho quyền con người trong thời kỳ của chế độ khủng bố Nhà nước ở Argentina.
Trong năm 1977, quân nhân Alfredo Astiz – người tác nghiệp ở Trường cơ khí hải quân (ESMA) – thâm nhập vào các buổi họp của gia đình những người bị bắt giam và mất tích được tổ chức trong nhà thờ. Ông ta tham dự những buổi họp này dưới cái tên Gustavo Niño, được tháp tùng bởi những tù nhân của trung tâm ESMA – trong đó có nhân vật chính của quyển sách, Silvia Labayru.
Từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 12 năm 1977, hải quân Argentina đã tiến hành một loạt các vụ bắt cóc các thành viên của nhóm này. Sự mất tích của các nữ tu đã gây ra một cuộc tranh luận quốc tế quan trọng: ba Mẹ (nữ tu) của Plaza de Mayo cũng đã mất tích.
Lịch sử đã bắt đầu hé lộ đủ loại ánh sáng và mâu thuẫn, từ tất cả các hướng: bất kỳ một nhà báo nào cũng có thể đã hiểu là họ có trong tay một điều gì đó rất quan trọng.
LEILA GUERRIERO
Điều gì xảy ra sau khi Silvia Labayru được phóng thích?
Sau đó là cuộc phiêu lưu của đời lưu vong, gặp gỡ ở Tây Ban Nha một số các bạn chiến đấu cũ lưu vong của phong trào Montoneros, họ có những nghi ngờ đối với bà cũng như đối với những người sống sót. Một bóng ma nghi ngờ đè nặng lên bà. Cái câu này: “chắc là bà ta đã làm một điều gì đó” đến từ những người đã từng cùng quan điểm với bà về mặt ý thức hệ, và ở đây được áp dụng cho một người sống sót đã trải qua những khoảnh khắc khủng khiếp, vượt ra ngoài những phê phán của bà đối với hành động của phong trào Montoneros.
Theo bà, có lẽ tất cả những điều đó làm cho bà ấy trở thành một nạn nhân đặc biệt?
Đúng như vậy. Trong cuộc phỏng vấn Carbajal mà tôi đã đọc, bà ấy đã thể hiện là một phụ nữ rất mạnh mẽ, rất quyết tâm, với những lời lẽ cách xa diễn ngôn quen thuộc về phong trào chiến đấu của thời kỳ đó. Trong lúc vẫn tiếp tục căm ghét và nguyền rủa các quân nhân, bà ấy phê phán chính tổ chức kháng chiến của mình. Tất cả những điều đó đã làm tôi rất ngạc nhiên.
Ngoài ra còn có việc con gái của bà ấy đã được giao trả cho ông bà của nó và không bị các quân nhân bắt cóc.
Và trọng tâm của câu chuyện này là vấn đề cưỡng hiếp, và Silvia cùng với hai phụ nữ khác là ba phụ nữ đầu tiên tố cáo những kẻ đàn áp và cưỡng hiếp họ.
Bà ấy thực sự là một trường hợp rất đặc biệt. Và khi tôi bắt đầu nói chuyện với bà ấy, cũng xuất hiện câu chuyện tình yêu với Hugo Dvoskin, người bạn đời của bà hiện nay cũng là một tình yêu lớn thời trẻ, - cuộc phân ly bi thảm mà họ đã trải qua, với những lá thư và điện tín không bao giờ đến. Lịch sử đã bắt đầu hé lộ đủ loại ánh sáng và mâu thuẫn, từ tất cả các hướng: bất kỳ một nhà báo nào có lẽ cũng đã hiểu mình có trong tay một điều gì đó rất quan trọng.
Ở đầu quyển sách, chính Labayru đã nói lên ý tưởng là bà ấy có một giọng “lạnh” khi bà ấy nói về những gì bà ấy đã trải qua. Nhưng bà lại nói rằng đó là một giọng “bị gây mê”, làm như chỉ khi tách khỏi những cảm giác của mình thì bà ấy mới có thể nhắc đến một số sang chấn. Bà đã tìm được một khoảng cách tốt trong việc thực hiện đôi lúc tế nhị cuộc phỏng vấn và trong những câu hỏi của bà như thế nào?
Tôi không khó khăn lắm để đạt được một khoảng cách tốt, nhưng quan điểm chủ quan của Silvia đối với những gì đã xảy ra cho bà ấy đã giúp tôi rất nhiều.
Tôi chưa bao giờ thấy bà ấy là một phụ nữ lạnh lùng, tôi luôn thấy bà ấy thật mạnh mẽ.
Có thể một số người phê phán bà ấy vì bà không run rẩy và khóc lóc ở từng lời nói, nhưng tôi không có định kiến đó. Có lẽ tôi cũng không có định kiến nếu bà tỏ ra hoàn toàn bị xúc động: tôi đã có thể thấy điều khác, nhưng điều đó cũng có thể làm tôi quan tâm không kém.
Silvia là một phụ nữ rất nhân từ, rất gần gũi với bạn bè, rất lo lắng cho các con, các cháu của bà. Có lẽ những phê phán đến từ thực tế là bà không tương ứng với hình mẫu người mẹ, người bà truyền thống… Bà đã luôn luôn là một người rất tin chắc vào những ý tưởng của mình, cho dù bà rất tự phê phán đối với những ý tưởng chính trị của mình vào thời kỳ đó. Tôi đã tìm được khoảng cách một cách không khó khăn, vì tôi cũng không tìm những gì mà bà đã phê phán nhiều.
Một hôm, chúng tôi đã đi đến hiện trường, ở ESMA. Ở đó có một người nhiếp ảnh đã chụp hình cận mặt bà ấy, như thể để nói rằng: nếu bà ta không nhỏ một giọt nước mắt nào, có nghĩa là bà ta không cảm thấy gì cả. Tôi thì rất xa cái logic đó. Với tư cách là nhà báo, chúng tôi thấy điều đang có, và khởi đi từ đó, chúng tôi đi tới theo một hướng hàm ý là người kia mở lòng, tâm sự.
Nếu tôi tìm nước mắt, thì tôi nghĩ rằng có thể bà ấy sẽ không tiếp tôi – và bà ấy có lý.
Tuy nhiên, để mô tả những cảm xúc mà bà khơi dậy nơi một số người mà bà phỏng vấn, bà tự mô tả mình như là “một vi khuẩn gây xáo trộn”. Tại sao?
Chúng ta là một loại vi khuẩn gây phiền hà một cách nào đó.
Ngay khi tôi giải thích một cách chính xác cho một người nào điều mà tôi làm – tôi không nói dối người ta, tôi không nói cho họ biết điều tôi sắp viết, mà là tôi sắp viết về điều gì – và người đó chấp nhận, tôi không cảm thấy có lỗi khi đặt nhưng câu hỏi khuấy động những sự việc của quá khứ.
Trong câu chuyện này, một vài người như người chồng đầu tiên của bà ấy, Alberto Lennie, chưa bao giờ nói với một nhà báo. Osvaldo Natucci, một trong những bạn đời cũ của bà ấy, rằng điều đó đã gây ra cho ông ta “một trận động đất về tiểu sử”. Giữa Silvia và Dani Yako, có một lúc, tại một trong những cuộc đối thoại cuối cùng, bà ấy nói: ”Tại sao chúng ta chưa bao giờ nói về những gì đã xảy ra cho chúng ta?”, Dani bắt đầu nói và bà ấy bỏ đi ra ngoài. Quả là rất khó khăn.
Nếu tôi tìm nước mắt, thì tôi nghĩ rằng có thể bà ấy đã không tiếp tôi – và bà ấy có lý.
LEILA GUERRIERO
Trong Les naufragés et les rescapés (Những người bị đắm tàu và những người sống sót), Primo Levi viết rằng những người sống sót qua những thảm hoạ lịch sử lớn – như la Shoah (nạn diệt chủng 6 triệu dân Do Thái bởi chế độ Đức Quốc Xã) – không hẳn là những người tốt nhất, và ông triển khai khái niệm “vùng xám” để suy nghĩ về những điều mơ hồ về mặt đạo đức của những người đã thoát nạn và còn sống. “Vùng xám” này giữ vị trí gì trong tác phẩm L’appel?
Ta cũng viết để biết ta muốn viết cái gì.
Và tất nhiên, tôi đã đối mặt với điều mà Primo Levi gọi là “vùng xám”. Trong câu chuyện của Silvia và trong câu chuyện của những người sống sót khác, có một điều gì đó không phải là điều tôi đã thấy hay đã đọc trong một số sách rất đặc trưng về câu chuyện những người sống sót, đặc biệt là những phụ nữ. Khi tôi biên soạn quyển sách, tôi đã rất ấn tượng với một phim tài liệu về những phụ nữ ở ESMA được kể một cách rời rạc: phong trào tranh đấu, sự bắt bớ, giam giữ ở ESMA, v.v. Tôi đã rất ấn tượng với thực trạng là vào lúc được trả tự do, hầu hết những phụ nữ sống sót đã kể một cách chính xác cùng một sự việc: sự tiếp đón đầy nghi ngờ, thậm chí thù địch, ngay cả từ nhưng người thân của họ.
Sự nghi ngờ tập trung vào một câu hỏi: “Chị/Em đã làm gì để đổi lấy việc được trả tự do?”. Đó là điều đã xảy đến với Silvia.
Có phải đó chính là “vùng xám” mà bà đã gặp phải?
Vâng, “vùng xám” đã làm tôi bối rối rất nhiều. Làm thế nào mà một người đã sống qua một hoàn cảnh vô cùng nghiệt ngã, một khi được thoát ra, lại có thể không được tiếp đón với một sự đồng cảm nhất định?
Sự lắng nghe, thấu hiểu phải đi trước mọi phán xét.
Nhưng cũng cần hiểu logic của cuộc chiến đấu thời đó.
Tôi đã rất quan tâm đến mâu thuẫn này, thậm chí là sự tàn ác này, vốn đã gây cho Silvia nhiều đau khổ – và cho những phụ nữ khác – đến độ bà ấy phải học tâm lý học mà đã không thể hành nghề; đến độ bà đã quyết định có một mối quan hệ với một người đàn ông Tây Ban Nha, hoàn toàn xa lánh cộng đồng Argentina, thay đổi hoàn toàn môi trường xã hội mà bà thuộc về và bắt đầu một cuộc sống bên lề. Bà chỉ duy trì – cho đến ngày nay – một nhóm bạn Argentina rất gắn bó vững chắc.
Trong một bài viết của bà trong Zona de obras, bà định nghĩa thể loại báo chí kể chuyện như là “một cách kể chuyện” xuất phát từ một “tính chủ thể lương thiện”. Tuy nhiên, quyển sách dường như xác nhận rằng ngay cả những ký ức lương thiện cũng tạo ra những phiên bản mâu thuẫn nhau. Liệu ta có thể đo lường sự lương thiện của một nhân chứng? Liệu ta có thể nói: “thế này” là một phiên bản đúng?
Vấn đề là nên biết có cần xác định có tồn tại một phiên bản “đúng” không.
Tôi nghĩ đó không phải là vai trò của tôi với tư cách là một nhà báo.
Hình như là trong quyển sách, khi đối chiếu những phiên bản khác nhau này, nhà báo có được những công cụ để xét đoán phiên bản nào là đáng chấp nhận nhất.
Nhưng ký ức của con người cũng thay đổi, không ổn định.
Thường có những cách nhìn khác nhau đối với cùng một sự việc: điều mà bạn có thể làm với tư cách là một nhà báo, đó là so sánh hai phiên bản. Nhưng tôi không nghĩ rằng cần phải tự đặt mình vào vị trí phán xét. Quyển sách có ý định nêu ra, theo một cách nào đó, rằng 40 năm sau các biến cố, có những ký ức, những chứng cứ đã bị thất lạc, và người ta kể câu chuyện trong khả năng của họ, để khỏi phải chịu một sang chấn tâm lý quá nặng nề.
Vị trí của tôi là vị trí của người lắng nghe.
Dù sao đi nữa, những mâu thuẫn này cho biết nhiều về những con người. Các mâu thuẫn này nói về những suy yếu của trí nhớ, những lời nói dối, những toan tính của những con người này muốn che giấu một điều gì đó để sự việc có vẻ tốt hơn, hùng tráng hơn, can đảm hơn hay ít đau lòng hơn.
Tôi đã đối mặt với điều mà Primo Levi gọi là “vùng xám”.
LEILA GUERRIERO
Nếu ta làm các việc với một cách kể chuyện khéo léo nhất định, sự va chạm giữa các yếu tố cho phép ta có một ý tưởng khá rõ ràng về một phiên bản có vẻ đáng tán thành nhất hay đáng tin cậy nhất. Nhưng không bao giờ là dứt khoát, vì tôi nghĩ rằng chính cuộc sống vận hành như vậy. Các sự việc được chia sẻ phần nào. Có một ít cái này và một ít cái kia.
Trong quyển sách của bà, quang cảnh và chủ đề của những “tiếng gọi” hiện diện rất rõ ràng: cuộc gọi từ ESMA mà các quân nhân gửi đến người cha của Labayru và theo bà ấy, cuối cùng tiếng gọi ấy đã cứu bà, tiếng gọi của phong trào chiến đấu, của tình mẫu tử, của tình yêu ở tuổi 65. Bà có thể nói về những “tiếng gọi” đã đánh dấu cuộc đời của bà ấy?
Silvia Labayru bị giam giữ ở ESMA khi những người bắt cóc bà đã quyết định liên lạc với cha bà là Jorge Labayru, ông là một cựu quân nhân và ông nghĩ rằng cuộc gọi đến từ những người thuộc lực lượng Montoneros. Tuyệt vọng, ông đã trả lời: “Montoneros, đồ đê tiện, chúng mày chịu trách nhiệm tinh thần về cái chết của con gái tao! Đến đây đi, tao sẽ giết chúng mày, Montoneros, đồ chết tiệt!”. Nhưng lời nói này đã có tính chất quyết định đối với số phận của con gái của ông.
Câu chuyện cuộc gọi của người cha đã xuất hiện trong buổi phỏng vấn đã diễn ra tại nhà tôi. Tôi cảm thấy phải đưa bà ấy thoát khỏi thế giới của bà một chút, khỏi cõi riêng của bà, và điều đó đã rất tuyệt vời. Hôm đó – sau nhiều tháng chúng tôi đã thảo luận cùng nhau – bà ấy đã kể cho tôi nghe cuộc gọi của cha bà. Bà nói họ (hai cha con – ND) đã tiếp tục kỷ niệm ngày đó như một ngày kỷ niệm. Trong suốt cuộc đời của họ, bất kể họ ở nơi đâu, họ đều chia nhau một chiếc bánh.
Đó như là một dạng lễ kỷ niệm ngày sinh hoặc tái sinh cho cả hai.
Khi nào thì bà biết chính tiếng gọi sẽ là tiêu đề?
Tôi không bao giờ nghĩ đến tiêu đề các quyển sách trong khi tôi viết chúng. Tiêu đề xuất hiện khi tôi gần kết thúc.
Chúng tôi đã vui đùa nhiều với Silvia về vấn đề này. Bà ấy hỏi tôi quyển sách sẽ mang tên gì. Tôi trả lời là tôi chưa biết tiêu đề sẽ là gì và bà ấy rất ngạc nhiên về điều này. Bà rất lấy làm thích thú. Thế là, để chọc ghẹo bà, tôi đã nói rằng tôi đang nghĩ tới một tiêu đề như “Người đàn bà tan nát” - vốn là trái ngược với nội dung quyển sách. Chúng tôi đã cười nhiều về việc này.
Một hôm, khi quyển sách đã gần xong và chúng tôi đi ra ngoài, sau một thời gian dài ở trong nhà, để đi một vòng bằng xe hơi với người bạn đời của tôi, cuộc nói chuyện đã chuyển sang tiêu đề cho quyển sách. Bỗng nhiên xuất hiện trong trí tôi: Người đàn bà được gọi. Nhưng tôi không thích ý tưởng “người đàn bà”. Tôi không muốn là một cái gì đó nhất quyết như vậy. Tôi đã bắt đầu suy nghĩ và tự nhủ rằng: đó là một người đàn bà được nhiều điều khác nhau kêu gọi trong suốt cuộc đời.
Người đàn bà ấy nhận tiếng gọi của sứ mệnh, của phong trào chiến đấu, của người cha – tiếng gọi mà bà tôn vinh là đã cứu mạng bà, của tâm lý học, của tình mẫu tử, của Hugo, của tình yêu.
Đã có rất nhiều tiếng gọi. Đương nhiên đó là tiêu đề.
Vào một lúc nhất định, Martin Gras, người sống sót từ ESMA, trả lời bà qua thư điện tử và nói với bà rằng không có người nào tốt hơn Silvia để “kể/ diễn giải” câu chuyện của bà ấy. Lúc đó bà đã nhấn mạnh rằng ngữ nghĩa có thể gây ra những tàn phá trong cuộc đời của một người. Bà đã làm việc như thế nào với những biến đổi về ngôn ngữ quan trọng như thế?
Bằng cách nêu bật những biến đổi này để người ta để ý đến chúng. Tôi đã thấy câu trả lời của Gras với “kể, diễn giải” rất có ý nghĩa. Lẽ ra ông ấy có thể nói với tôi rằng: “Nếu bà đã liên lạc với bà ấy, thì tốt hơn hết là quý vị nên tiếp tục thảo luận giữa quý vị”, hoặc ”tôi không có gì để thêm vào những điều mà bà sẽ thảo luận với Silvia” - hoặc một điều gì khác.
Tôi thấy điều đó rất thuyết phục: có vẻ không nói gì hết, thực ra ông ta đã nói ra nhiều điều…
Điều mà tôi đã làm trong trường hợp đó là nhấn mạnh, nêu bật lên để độc giả phải để ý đến. Bởi vì đôi lúc ta viết điều gì đó, không bắt buộc phải được hiểu như vậy. Tôi muốn là ý định này cần được hiện rõ.
Đã có rất nhiều tiếng gọi trong cuộc đời của Silvia. Đương nhiên đó là tiêu đề.
LEILA GUERRIERO
Từ đó mới có việc dùng chữ in nghiêng và lặp lại một số câu: đó có phải là một cách xoá tính trung lập của tiếng nói của bà trong văn bản?
Thực vậy, tôi nghĩ có những điều đáng để làm nổi bật.
Là những điều gì?
Chẳng hạn tôi nghĩ tới những câu trả lời mơ hồ hoặc phản ứng của Silvia đối với ý tưởng “hội chứng Stockholm[*]” mà bà hoàn toàn không thừa nhận. Bà phản ứng rất mạnh với một số câu hay thành ngữ như thế - ngay cả khi chúng được phát biểu bởi những người bạn thân của bà.
Đôi khi, tất cả đều không được để ý. Ví dụ, có câu này của người bạn đời cũ của bà, Osvaldo Natucci, ông ấy hỏi: “Tuổi già của bà ấy có ổn không?”.
Đó là một câu nói yêu thương, của một người bỗng nhiên đối mặt với một câu chuyện rất cũ và người ấy không chờ đợi nó xuất hiện trở lại.
Cuộc thảo luận về giả thuyết “hội chứng Stockholm” này đã nảy sinh như thế nào, mà một số người thân quy cho bà ấy?
Dưới mắt của Silvia Labayru hội chứng Stockholm thể hiện tất cả những gì không phải là bà.
Chủ đề này đã được đề cập đến ngay từ buổi nói chuyện qua điện thoại đầu tiên của chúng tôi, ngay cả trước buổi phỏng vấn không chính thức đầu tiên trên bao lơn của nhà bà ấy. Tôi nghĩ là tôi đã đề cập đến khái niệm này khi nói rằng: “tất nhiên, người ta dán cho bà cái nhãn hội chứng Stockholm”, và Silvia đã nổi giận. Không phải đối với tôi mà là đối với khái niệm này.
Đó là điều đã theo đuổi bà ấy trong suốt cuộc đời, làm bà bực bội, làm bà nổi giận đến cực điểm.
Có thể đối với những người biết bà, đó là một cách tiện lợi và dễ dàng để xếp loại một điều gì đó rất phức tạp, thậm chí là không thể hiểu được. Từ đó, mỗi lần “hội chứng Stockholm” được đề cập, là rất có vấn đề.
Một trong những chủ đề trọng tâm của quyển sách là việc “thu phục” những người chiến đấu lật đổ chính quyền từ một “sự hợp tác” nào đó với các quân nhân. Trong quyển sách, bà đề cập đến chủ đề “kẻ phản bội và anh hùng” và bà dẫn ra những chuyên gia trong số đó là Ana Longoni hay Pilar Calveiro, họ nói về những chuyện kể của những người sống sót như là một yếu tố “gây phiền hà”. Câu chuyện của Silvia Labayru cho chúng ta biết điều gì về chủ đề quá rắc rối này?
Khi tôi đọc từ ngữ “phản bội” liên quan đến một trong những sự kiện này, tôi sởn da gà, vì tôi thành thật nghĩ rằng trong những hoàn cảnh như thế này – mà tôi đã may mắn không trải qua – không thể phán xét những hành động của một con người.
Rõ ràng là Silvia đã bị ép buộc, cũng như bao nhiêu người khác, bà ấy là một dạng nô lệ, một đối tượng tính dục thức dậy mỗi ngày và nghĩ rằng ngày đó người ta có thể giết bà, đặt bà lên một chiếc máy bay và quăng bà xuống sông La Plata.
Tôi nghĩ rằng ai chưa sống qua cảnh này thì không thể có một ý nghĩ gì về mức độ khủng bố, từ bờ vực của sự sinh tồn mà sự khủng bố này đặt bạn vào đó.
Ta không thể hình dung ra những chiến lược sinh tồn được hình thành giữa những người tù ở một nơi như vậy.
Đối với tôi, điều mạo hiểm nhất của tôi trong câu chuyện này chính là làm việc với những tình tiết tế nhị này.
Rõ ràng là Silvia đã bị ép buộc, cũng như bao nhiêu người khác, bà ấy là một dạng nô lệ, một đối tượng tính dục thức dậy mỗi ngày và nghĩ rằng ngày đó người ta có thể giết bà, đặt bà lên một chiếc máy bay và quăng bà xuống sông La Plata.
LEILA GUERRIERO
Tại sao bà nghĩ rằng Silvia Labayru chấp nhận tâm sự với bà như vậy?
Tôi thuộc về một thế hệ hoàn toàn khác với thế hệ của bà ấy.
Bà ấy không nhìn tôi như một người đầy định kiến hoặc quan tâm đến ý nghĩ cứu vãn ý thức hệ của chính bản thân mình. Tôi không nhất thiết nghĩ như bà ấy về nhiều chủ đề nhưng điều quan trọng duy nhất là kể lại câu chuyện của bà ấy.
Ngược lại, những gì đã được viết về bà ấy trước đây cũng đã hỗ trợ theo một cách nào đó. Một số quyển sách đã làm cho Silvia vô cùng tức giận – ít nhiều là đúng, tôi cho là như vậy. Tất nhiên, khi tôi đi vào lĩnh vực này, tôi đã cố gắng đồng hành cùng bà ấy, để cho bà một không gian, không can thiệp vào theo cách làm cho bà ấy cảm thấy bị phán xét hay khiến bà ấy khép lòng lại.
Trong L’appel, bà gợi ra ý có tồn tại ở Argentina một “cấp bậc của đau đớn”. Ý ngầm bên dưới là nhiều người chọn không nghe một số chuyện kể của các nạn nhân. Bà có cảm nhận sự khước từ này trong quá trình tìm tòi của bà không?
Những người mà tôi đã không thể nói chuyện là Martin Gras và một số thành viên của tổ chức những Bà mẹ của quảng trường tháng Năm. Thực vậy, logic nội tại của quyển sách là đạt được duy nhất những lời chứng của những người trực tiếp liên quan đến câu chuyện của Silvia chứ không phải những người đã bị giam giữ, mất tích hay đã viết về chủ đề này mà không trực tiếp biết bà ấy, không có bất kỳ mối dây liên lạc nào với bà ấy.
Điều này đã loại trừ một số lớn những người rất nổi tiếng, đã có nhiều kinh nghiệm hoặc xuất thân từ môi trường đại học chẳng hạn, họ cũng đã suy nghĩ rất nhiều về vấn đề này. Tôi không muốn lấy ý kiến không liên quan với cá nhân Silvia, dù tốt hay xấu.
Chuyện kể của Silvia, liên hệ với cái cấp bậc của sự đau đớn là rất tàn nhẫn.
Sự tưởng tượng này chung quanh gương mặt của người sống sót - hoặc của người phụ nữ sống sót trong trường hợp này – luôn luôn được gợi ra. Lời chứng được lặp lại vô cùng nhiều và cuối cùng có phần thất lạc trong bóng tối của sự lặp lại.
Bà giải thích điều này như thế nào?
Một số lời chứng, như của Silvia, gây nhiều phiền toái.
Có lẽ chúng ta sẵn sàng chấp nhận hơn lời chứng từ một người không có những lời nói có tính chất phê phán như vậy, dễ gắn kết hơn vào yêu sách tuyệt đối của phong trào chiến đấu trong những năm ấy, và không có phát biểu có vẻ là mâu thuẫn hoặc thậm chí là nguy hiểm – trong nghĩa là họ có thể đưa ra những lập luận thiên về cánh hữu.
Silvia, tuyệt đối không phải là một phụ nữ cánh hữu và tự nhận là khinh miệt và căm ghét các quân nhân, nhưng lại có một quan điểm phê phán.
Tôi nghĩ rằng điều đó làm cho một số lời chứng của những người sống sót trở nên dễ chấp nhận hơn và ít nguy hiểm hơn đối với một thành phần nhất định của xã hội.
Do đó, theo tôi, khi một phụ nữ sống sót có phần tách rời diễn ngôn thông thường, thì có lẽ điều quan trọng là đặt lại lời chứng của họ trong bối cảnh liên quan. Nếu làm khác đi, người này có thể bị xem là một dạng hối cải đi theo cánh hữu, mà đây không phải là trường hợp.
Vả lại, ngày nay không có một người nào trong số họ hoạt động hỗ trợ cho cái mà chính phủ Javier Milei gọi là “ký ức đầy đủ” - đặc biệt là ký ức này không chấp nhận con số chính thức những người mất tích dưới chế độ độc tài[**].
Không, hoàn toàn không phải như vậy. Những người sống sót này hoàn toàn không đồng ý với diễn ngôn của Milei hay của bà Villarroel, phó tổng thống của ông.
Nhưng không đồng ý không có nghĩa là họ không thể phê phán một số điều mà họ đã trải qua.
Câu chuyện này nói lên điều gì và nhiều câu chuyện khác mà bà đã thu thập qua nhiều cuộc phỏng vấn khác nhau về những hạn chế của câu chuyện anh hùng của phong trào chiến đấu Montonero?
Không phải tất cả mọi người đều không đồng ý với những ý tưởng của Silvia. Một nhóm người, mà tôi đã phỏng vấn, cũng nghĩ như bà ấy nhưng tôi không nghĩ đó là đa số.
Mặt khác, rất khó mà xem rằng tất cả những gì xảy đến cho bạn, tất cả những gì bạn và các bạn chiến đấu đã chịu đựng – cái chết, kinh hoàng, tra tấn – là đã xảy ra nhân danh một mục đích không chính đáng. Tồn tại hai khía cạnh.
Những câu chuyện bất đồng chính kiến này là rất khó chịu về rất nhiều mặt: trong hoạt động của các cơ quan bảo vệ quyền con người cũng như của chính những người bạn chiến đấu. Nhưng trong số những người mà tôi đã phỏng vấn có những người đã rất tin tưởng, họ tin – và tiếp tục tin – vào những ý tưởng được bảo vệ vào thời đó. Một số đã thực hiện những hành động vô cùng mạo hiểm và cao quý.
Bà ấy kể với tôi rằng họ đã buộc bà phải ở lại trong quán rượu le Comet cùng với các thành viên của gia đình bà. Rằng người ta đã hẹn bà và nói với bà rằng họ sẽ bắt cóc bà lần nữa, rằng bà phải để bị bắt cóc, tham gia vào việc dàn cảnh này.
LEILA GUERRIERO
Bà đã đề cập với Labayru câu chuyện Alfredo Astiz thâm nhập vào nhà thờ Santa Cruz như thế nào, nơi bà ấy bị buộc đóng vai em gái của ông ta - điều làm cho bà ấy bị những người lưu vong Argentina xem là “kẻ phản bội”.
Đó là chủ đề khó đề cập đến nhất.
Khi tôi chạm đến chủ đề này, chúng tôi đã tiến xa trong các cuộc đối thoại với Silvia. Tất nhiên tôi đã biết câu chuyện, nhưng ngày tôi quyết định đặt câu hỏi với bà ấy, tôi đã điểm lại trong đầu tôi cho đến từng chi tiết nhỏ, như tên của quán rươu – những thứ có thể biến mất…
Silvia đã rất khó khăn khi nói về vấn đề này. Tôi nghĩ là trong một buổi phỏng vấn tôi đã thực hiện ở nhà bà ấy.
Thậm chí nói với bà ấy về bắt cóc, tra tấn, Vera chào đời hay các vụ cưỡng hiếp còn dễ dàng hơn nhiều khi nói về riêng chủ đề này.
Bà ấy đã chưa bao giờ lẩn tránh một điều gì. Bà luôn luôn sẵn lòng nói về tất cả. Bà đã kể với tôi rằng họ đã buộc bà ở lại trong quán rượu le Comet với các thành viên của gia đình bà. Rằng người ta đã hẹn bà và nói với bà rằng họ sẽ bắt cóc bà lần nữa, rằng bà phải để bị bắt cóc, tham gia vào việc dàn cảnh này.
Thật là kinh khủng khi ở đó và biết điều gì sắp xảy ra, mà hoàn toàn không thể làm được gì. Phải làm gì trong hoàn cảnh này. Nếu họ giết bạn, nếu họ giết tất cả, gia đình bạn, tất cả mọi người? Đó là một tình huống không thể tưởng tượng được, không có một lối thoát nào, thậm chí không một cử chỉ, một nháy mắt, không có một điều gì là khả dĩ.
Vào lúc đó, tôi nhận ra bà ấy đã cảm thấy một nỗi lo lắng sâu sắc khi nhớ lại.
Phản ứng của Norma Burgos ra sao, là một phụ nữ sống sót khác từ ESMA, mà theo lời chứng của Silvia, bà này có lẽ đã tháp tùng Astiz trong lúc đầu thâm nhập vào nhà thờ Santa Cruz?
Đối với tôi, nói chuyện với Norma Burgos đã là rất quan trọng.
Tôi đã nghĩ là không làm được, nhưng bà ấy đã trả lời tôi ngay. Và như ta có thể đọc trong quyển sách, chính bà ấy đã đề cập đến chủ đề này.
Tất nhiên, chuyện kể của Burgos khác với Silvia.
Khi tôi đã có hai phiên bản của mẫu chuyện này rồi, tôi đã liên hệ với Lidia Vieyra, một phụ nữ sống sót khác từ ESMA mà tôi đã phỏng vấn trước đây, và tôi đã so sánh chuyện kể của Silvia và Lidia với chuyện kể của Burgos. Theo Silvia, chính Silvia đã nghe Norma gợi ý rằng chính Silvia nên tháp tùng Astiz – vì bà ấy tóc vàng, mắt xanh, như Astiz. Sẽ đáng tin hơn nếu Silvia đóng vai em gái Astiz. Tôi đã liên hệ với Norma vào giai đoạn cuộc điều tra đã tiến khá xa. Tôi cảm thấy rằng tôi phải tự tin lắm, tạm gọi là được trang bị tốt trước khi nói chuyện với Norma. Câu chuyện của bà ấy cũng rất kinh khủng, với cái chết của con gái bà.
Bà có ngạc nhiên với sự đón chào dành cho quyển sách và sách đã nhanh chóng trở thành một quyển sách bán chạy nhất (best-seller) tại Tây Ban Nha. Bà có chờ đợi điều này không?
Tôi đã rất ngạc nhiên. Tôi không mong chờ gì đối với những quyển sách khi chúng được phát hành. Tôi luôn nghĩ vậy là đã xong và sách phải đi theo con đường của chúng. Tôi đã viết ra quyển sách, với những sai lầm hoặc thành công, điều đó không quan trọng.
Quyển sách được phát hành trước tiên tại Tây Ban Nha, vào tháng 1 năm 2024. Ba ngày sau khi phát hành, sách đã hết.
Điều đó đã làm tôi rất ngạc nhiên vì đó là một quyển sách dày và đã không kịp có thời gian công bố những phê bình…
Sau đó, nhà xuất bản đã bắt đầu viết cho tôi hàng tuần để thông tin rằng sách sắp được tái bản. Phần lớn các phê bình cũng rất tích cực. Rồi dần dần, những bình luận bắt đầu xuất hiện. Tôi không có mạng xã hội, vậy là tôi nhận những bình luận qua thư điện tử. Và nói chung, đó là những bình luận lý thú – bao gồm cả những người chiến đấu trẻ hoặc con của những người chiến đấu.
Người dịch: Thái Thị Ngọc Dư
Nguồn: “‘J’ai été confrontée à ce que Primo Levi appelle la zone grise’, une conversation avec Leila Guerriro”, Le grand continent, 13.7.2025.
Chú
thích: [1]
Montoneros là một phong trào du kích cánh tả Argentina xuất hiện trong những năm 1970. Phong trào này đóng một vai trò quan trọng trong câu chuyện này. [2]
Chiến dịch kết thúc với 12 nạn nhân, trong đó có ba bà của hiệp hội các Bà mẹ của quảng trường Tháng Năm và hai nữ tu người Pháp. [*]
Hội chứng Stockholm mô tả một tình trạng tâm lý mà một người, thường là con tin hay nạn nhân của bạo lực, phát triển những cảm nhận tích cực, thậm chí là yêu mến, đối với người đã tấn công hay bắt cóc mình. Hiện tượng nghịch lý này được biểu hiện bằng một sự đồng cảm và đồng nhất hoá với quan điểm của kẻ tấn công, có thể đi đến chỗ bênh vực kẻ tấn công. [ND - Theo Google] [**]
Con số chính thức do các tổ chức nhân quyền đưa ra là 30.000 người mất tích, Javier Milei nói rằng chỉ có 8.753 người [chú thích của người dịch]
