MỐI ĐE DỌA CỦA NƯỚC MỸ
Để đối đầu với Trump, chúng ta phải vượt qua – càng nhanh càng tốt – những gì đang diễn ra trước mắt và suy nghĩ theo hướng lâu dài.
Bài viết mang tính học thuyết của nhà sử học Ludovic Tournès.
Tác giả: Ludovic Tournès[*]
![]() |
Đại bàng và chim ưng: Ảnh của Guilong Charles Cheng |
Khó khăn mà các nhà lãnh đạo chính trị Châu Âu đang gặp phải trong việc hiểu được sự thay đổi trong văn hóa ngoại giao Mỹ thật là rõ ràng. Việc họ ngần ngại tiếp xúc với Donald Trump trong bối cảnh cuộc chiến thương mại mà ông đã khơi mào, cũng như việc họ thiếu phản ứng chính trị trước sự hội tụ ngày càng rõ ràng giữa Nhà Trắng và Điện Kremlin về vấn đề Ukraine, là minh chứng cho điều này.
Điểm yếu này xuất phát từ một số nhân tố: nỗi ngại ngùng về những phản ứng khó lường và thô bạo từ tổng thống Mỹ, sự bất ổn về thể chế ở cấp độ quốc gia, và sự tồn tại dai dẳng của các ưu tiên khác nhau trong Liên Minh Âu Châu khiến việc thể hiện quyền lực chung trở nên phức tạp.
Tuy nhiên, trong môi trường quốc tế mới đang thành hình, lập trường này không còn là một lựa chọn chiến lược nữa, mà chính là điều kiện sống còn về mặt địa chính trị của lục địa Châu Âu.
Nếu các nhà lãnh đạo Châu Âu quá nhút nhát, chẳng phải chủ yếu là do họ đã đánh cược sai lầm vào lịch sử và tương lai hay sao? Hầu hết các nhà lãnh đạo của chúng ta đều sinh sau năm 1945 và được đào tạo về hành chính, kinh tế, vận động đảng phái và chính sách bầu cử.
Điểm yếu của họ dường như nằm ở việc hiểu được các hiện tượng dài hạn. Và nếu họ có cố vấn về truyền thông, chiến lược và kinh tế, thì chắc họ cũng nên có các cố vấn về lịch sử?
![]() |
Ảnh của Guilong Charles Cheng |
Lịch sử lâu dài của Donald Trump
Donald Trump rất giỏi trong việc chiếm lĩnh sân khấu quốc tế. Chúng ta lại chứng kiến điều này trong tuần này, khi ông buộc tất cả các nhà lãnh đạo Châu Âu phải đóng vai trò khán giả thụ động trong cuộc gặp với Vladimir Putin ở Alaska.
Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào những cơn bộc phát hàng ngày và ngắn hạn của ông, chúng ta có nguy cơ bỏ lỡ những thay đổi cấu trúc đang diễn ra ở Hoa Kỳ ngày nay.
Một cách tiếp cận dài hạn thận trọng cho thấy rõ ràng rằng những chuyển đổi này không bắt đầu từ Trump và sẽ không kết thúc cùng ông ấy – kể cả trong các cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ năm 2026 lẫn sau đó.
Một sự thay đổi sâu sắc đã diễn ra. Việc lặp lại những giáo điều cũ kỹ như một câu thần chú sẽ không thể đưa trở về quá khứ. Hoa Kỳ sẽ không còn là một đồng minh bất biến, hay thậm chí là người bảo vệ Châu Âu.
Chỉ cần nhìn lại quá khứ, trước năm 1945, chúng ta sẽ thấy rằng giáo lý Đại Tây Dương này là không thể tồn tại. Việc xem xét lịch sử lâu dài không phải là một thứ điệu bộ học thuật: trong trường hợp cụ thể này, nó cung cấp một cái khung thiết yếu để hiểu được các động thái hiện tại và rút ra những bài học chiến lược từ chúng.
Hoa Kỳ đã quay lưng lại với Châu Âu trong phần lớn lịch sử của mình.
LUDOVIC TOURNÈS
Về mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Châu Âu, cần nhớ rằng đã có một thời Hoa Kỳ không mấy quan tâm đến Châu Âu. Sau khi giành độc lập vào năm 1783 và trong suốt thế kỷ 19, ưu tiên của họ là mở rộng lãnh thổ và củng cố quốc gia. Washington kiên quyết quay lưng lại với Châu Âu, bị coi là một tập hợp các chế độ quân chủ - “chế độ chuyên chế” trong ngôn ngữ của người Mỹ - các cuộc đàn áp chính trị hoặc tôn giáo, và các cuộc xung đột dai dẳng mà Hoa Kỳ từ chối tham gia.
Chỉ đến Chiến tranh Thế giới thứ nhất, Hoa Kỳ mới tạm thời cắt đứt với lập trường này, một lập trường nhanh chóng trở lại sau năm 1918 và sự thất bại của Hiệp ước Bảo đảm. Chỉ Chiến tranh Thế giới thứ hai mới gắn kết chặt chẽ Hoa Kỳ với Châu Âu, và điều này vẫn như vậy cho đến sau Chiến tranh Lạnh.
Chúng ta thường quên một sự thật cốt yếu: Hoa Kỳ, trong phần lớn lịch sử của mình, đã quay lưng lại với Lục địa Cũ.
Như vậy, mối liên kết được hình thành qua hai cuộc chiến tranh thế giới, và sau đó là vai trò người bảo vệ Tây Âu mà NATO đã đảm nhận kể từ năm 1949, không phải là một yếu tố bất biến mà là một sự cố lịch sử - điều mà nhiều người Châu Âu vẫn khăng khăng coi, một cách sai lầm, là một sự kiện vĩnh cửu.
![]() |
Ảnh của Guilong Charles Cheng |
Sự quan tâm của Hoa Kỳ: Hoa Kỳ trên quy mô toàn cầu
Nói cho cùng, Hoa Kỳ chỉ bắt đầu quan tâm đến Châu Âu khi nhận thấy rõ ràng những biến động ở đây là mối đe dọa trực tiếp đến an ninh và nền ngoại thương của mình.
Và như vậy, hai cuộc Thế chiến đã du nhập một ý tưởng quyết định vào văn hóa chính trị Mỹ: vận mệnh của Hoa Kỳ gắn liền với vận mệnh của thế giới, đặc biệt là Châu Âu. Woodrow Wilson, và sau này là Franklin D. Roosevelt, đã gieo vào tâm trí giới chính trị và dư luận rằng an ninh của Hoa Kỳ phụ thuộc vào an ninh của thế giới, và ngược lại.
Sự liên kết này giữa Hoa Kỳ với thế giới đã khiến Washington ngừng tập trung vào lục địa châu Mỹ và tham gia vào các vấn đề của Châu Âu, vốn cũng là vấn đề toàn cầu vào thời điểm các cường quốc Châu Âu sở hữu các đế chế thuộc địa trải rộng trên khắp các châu lục.
Chính trong viễn cảnh này, diễn ngôn về “bốn quyền tự do” của Roosevelt trước Quốc hội vào ngày 6 tháng 1 năm 1941 cần được xem xét. Mặc dù chính thức dành riêng cho Thông điệp Liên bang, nhưng thực tế bài phát biểu gần như hoàn toàn tập trung vào cuộc chiến đã bắt đầu vài tháng trước đó và kết thúc với tham vọng bảo vệ các quyền tự do cơ bản không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn “trên khắp thế giới”. Nếu phải xác định một hành động nền tảng cho cam kết của Hoa Kỳ với tư cách là một cường quốc toàn cầu, thì nó được tìm thấy chính trong bài phát biểu trên.
Hai cuộc chiến tranh thế giới sau đó đã đưa một ý tưởng quyết định vào văn hóa chính trị Mỹ: vận mệnh của Hoa Kỳ là không thể tách rời khỏi vận mệnh của thế giới, đặc biệt là Châu Âu.
LUDOVIC TOURNÈS
Trật tự quốc tế năm 1945, phần lớn do Hoa Kỳ định hình, dựa trên logic liên kết này: bằng cách đảm bảo an ninh cho Tây Âu thông qua NATO, Washington cũng đảm bảo an ninh của mình bằng cách kiềm chế sự bành trướng của Liên Xô, một đối thủ cả về địa chính trị lẫn tư tưởng. Bằng cách hỗ trợ tái thiết Châu Âu thông qua Kế hoạch Marshall, Washington đã mở ra thị trường cho ngành công nghiệp hùng mạnh của mình và đảm bảo sự trung thành của một khách hàng bị ràng buộc, trong bối cảnh năng lực công nghiệp của Châu Âu khi đó đã bị suy giảm nghiêm trọng. “Cuộc hôn nhân” được ký kết năm 1945 này do đó vừa là một sự kết hợp vì lợi ích, vừa là sự hội tụ các giá trị.
Tuy nhiên, bối cảnh tạo điều kiện cho điều này đã biến mất vào những năm 1980, và thậm chí còn hơn thế nữa vào những năm 1990. Từ Ronald Reagan trở đi, các nhà lãnh đạo Mỹ dần không còn nhìn nhận mối liên hệ hữu cơ giữa an ninh của đất nước họ và an ninh của Châu Âu. Chủ nghĩa đa phương và các tổ chức quốc tế thể hiện nó từ đó trở thành chủ đề của những lời chỉ trích ngày càng tăng, bị coi là quá tốn kém và hạn chế quyền tự do hành động của Hoa Kỳ.
![]() |
Ảnh của Guilong Charles Cheng |
Lịch sử lâu dài của sự khinh miệt của Mỹ đối với Âu Châu
Chính trong bối cảnh này, ý tưởng xuất hiện - được Donald Trump tiếp thu và khuếch đại - rằng Châu Âu, cùng với thế giới, đang “lừa gạt” nước Mỹ.
Kế tiếp là những hành động: năm 1984, chính quyền Reagan rời khỏi UNESCO; mười năm sau, chính quyền Clinton chấm dứt sự tham gia của Mỹ vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc và giảm bớt sự đóng góp tài chính của mình; người kế nhiệm ông, George W. Bush, từ chối phê chuẩn Nghị định thư Kyoto (1997) và gia nhập Tòa án Hình sự Quốc tế (1998).
Sự chuyển hướng của Mỹ sang chủ nghĩa đơn phương - mà đôi khi vì nhầm lẫn nên bị đánh đồng với chủ nghĩa biệt lập, - cũng được minh họa bằng sự trỗi dậy của phong trào tân bảo thủ.
Trong mắt các quan chức Mỹ, việc liên kết vận mệnh của Hoa Kỳ và vận mệnh của Châu Âu đã thuộc về quá khứ.
LUDOVIC TOURNÈS
Ra đời dưới thời tổng thống Reagan, phong trào tân bảo thủ vươn lên nắm giữ vị trí cao nhất trong chính quyền dưới thời chính quyền George W. Bush và tổ chức cuộc can thiệp thảm khốc vào Iraq năm 2003. Những nhân vật chủ chốt của phong trào này, Paul Wolfowitz và Donald Rumsfeld, nổi bật với những phát biểu hạ thấp “Châu Âu cũ”, phơi bày sự chia rẽ chiến lược và chính trị ngày càng sâu sắc giữa hai bờ Đại Tây Dương.
Sự chia rẽ này không hề khép lại dưới thời Barack Obama, thậm chí còn ngược lại, và nó còn được mở rộng hơn nữa dưới nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của Trump, đạt đến mức độ sâu sắc chưa từng có. Trong mắt các quan chức Mỹ, việc liên kết vận mệnh của Hoa Kỳ với vận mệnh của Châu Âu đã thuộc về quá khứ.
Tuy nhiên, hầu hết các nhà lãnh đạo Châu Âu vẫn khăng khăng tin vào điều này, như được minh chứng qua các tuyên bố của họ, với nguy cơ ngày càng bị lệch lạc so với thực tế chiến lược.
![]() |
Ảnh của Guilong Charles Cheng |
Sự kết thúc của mô hình Mỹ
Một thay đổi cấu trúc dài hạn khác vẫn chưa được các nhà lãnh đạo Châu Âu nhận thức: vai trò về mô hình quốc tế mà Hoa Kỳ tự nhận cho mình.
Vào thế kỷ 19, các nhà lãnh đạo Mỹ đã tin chắc rằng họ đã thiết kế nên một chế độ hoàn hảo: năm 1796, các dân biểu của Hạ viện đã trao tặng đất nước danh hiệu “Quốc gia Tự do và Khai minh nhất Thế giới”.
Tuy nhiên, vì Hoa Kỳ vẫn còn chưa tham gia sân chơi của các cường quốc, nên họ đã thận trọng không công bố điều này với thế giới. Chỉ vào cuối thế kỷ 19, và đặc biệt là nhờ sự phát triển kinh tế vượt bậc, được hỗ trợ bởi nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, Washington mới bắt đầu tự coi mình là hình mẫu cho thế giới.
Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, cuộc Cách mạng Ford, bằng cách tăng gấp bội sức mạnh công nghiệp của đất nước, đã giúp nước này thay thế Châu Âu trở thành chuẩn mực toàn cầu và biểu tượng của sự hiện đại. Sự trỗi dậy của Mỹ đi kèm với sự tự hủy diệt của Lục địa Cũ, bị chìm đắm trong hai cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn từ năm 1914 đến năm 1945, làm suy yếu quyền lực địa chính trị, vị thế lãnh đạo kinh tế và làm sụp đổ tham vọng hiện thân cho nền văn minh, sự tiến bộ và tính hiện đại của lục địa mình.
Một điểm mấu chốt: Hoa Kỳ, quốc gia không sa vào chủ nghĩa toàn trị, đã có thể tự nhận mình là một mô hình dân chủ vào năm 1945, điều này được củng cố trong mắt họ bởi những công cuộc tái thiết chính trị thành công của Nhật Bản và Đức, mà nước Mỹ đã trực tiếp đóng góp.
Đây là một điểm mà Châu Âu chắc chắn đã không quan tâm đúng mức: kể từ cuối những năm 1990, Hoa Kỳ dường như đã không còn coi mình là hình mẫu cho phần còn lại của thế giới.
LUDOVIC TOURNÈS
Chính dựa trên những ý tưởng này về một mô hình dân chủ và một biểu tượng của sự hiện đại mà Hoa Kỳ đã xây dựng phần lớn uy tín của mình đối với người Châu Âu sau năm 1945. Trong hai thập kỷ sau chiến tranh, một từ đã thống trị chân trời chính trị của họ: hiện đại hóa. Bắt nguồn từ khoa học xã hội Mỹ, nó chỉ ra con đường trở thành một nền dân chủ tự do, hòa bình và thịnh vượng, dựa trên mô hình mà Washington muốn thể hiện.
Bất chấp chiến thắng bề ngoài trong Chiến tranh Lạnh, nền tảng tư tưởng này đã âm thầm bị xói mòn trong giai đoạn từ những năm 1980 đến những năm 2000. Nền kinh tế Mỹ đang già cỗi phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các cường quốc công nghiệp thành công, ở Châu Âu và ngoài Châu Âu (Đức, Nhật Bản, các “con rồng” Châu Á).
Thêm vào đó là sự xói mòn của chủ nghĩa cứu thế dân chủ, vốn đã bị lung lay bởi chấn thương ở Việt Nam và hoàn toàn bị mất uy tín bởi những thất bại ở Afghanistan và Iraq. Trong cả hai cuộc can thiệp này, việc dân chủ hóa Trung Đông không phải là một mục tiêu chiến lược trọng tâm mà chỉ là một chiêu bài hùng biện, đứng sau mong muốn trả thù các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 và sự ổn định khu vực để bảo vệ lợi ích trực tiếp của Hoa Kỳ.
Đây là một điểm mà Châu Âu chắc chắn chưa quan tâm đúng mức: kể từ cuối những năm 1990, Hoa Kỳ dường như đã không còn coi mình là hình mẫu cho phần còn lại của thế giới.
Sự biến đổi này đã dẫn đến một sự chuyển đổi sâu sắc trong các nguyên tắc chỉ đạo chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, từ nay được đánh dấu bằng một nền văn hóa chính trị thù địch với chủ nghĩa đa phương. Theo một nghĩa nào đó, đây là sự quay trở lại với nguồn gốc của học thuyết không bị vướng mắc (non entanglement) của thế kỷ 19, dựa trên việc từ chối bất kỳ liên minh ràng buộc nào.
Tuy nhiên, tại Châu Âu, chúng ta vẫn khăng khăng không từ bỏ chủ nghĩa đa phương và “liên minh không thể lay chuyển” với Hoa Kỳ - hai khái niệm nền tảng của dự án dẫn đến việc xây dựng Liên Minh Châu Âu.
![]() |
Ảnh của Guilong Charles Cheng |
Thống trị Trái Đất: Mối Nguy cơ toàn Cầu của Lối Sống Mỹ
Hai sự chuyển đổi sâu sắc này - sự chấm dứt việc liên kết số phận của Mỹ với số phận Châu Âu, và việc Hoa Kỳ từ bỏ vai trò là hình mẫu cho thế giới - là một phần của nhân tố cấu trúc thứ ba, không thay đổi kể từ khi thành lập đất nước: dự án xây dựng một “thiên đường trên trái đất”.
Việc “mưu cầu hạnh phúc” này, được ghi nhận trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776, thuộc về nền tảng văn hóa Mỹ. Nó được thể hiện trong việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên đặc biệt, một niềm tin vô hạn vào khả năng chế ngự thiên nhiên của công nghệ, và sự thiết lập một xã hội tiêu dùng được cho là đảm bảo cả sự thịnh vượng vật chất lẫn sự hội nhập chính trị của công dân vào quốc gia Mỹ. Tất cả những điều này đều là những yếu tố thiết yếu để hiểu không chỉ lịch sử nội bộ của Hoa Kỳ, mà còn là nền tảng của chính sách quốc tế của nước này.
Vào thế kỷ 18, việc “mưu cầu hạnh phúc” này dựa trên sự chắc chắn về nguồn tài nguyên thiên nhiên vô hạn sẵn có trong một lãnh thổ đang bị chinh phục và dường như cũng vô tận và không có biên giới rõ ràng.
Năm 1787, Hoa Kỳ - khi đó chỉ giới hạn ở mười ba thuộc địa cũ - có dân số 4 triệu người, trong một thế giới chưa đến một tỷ người. Ngày nay, dân số Hoa Kỳ là 340 triệu người trên một hành tinh có tám tỷ người.
Thậm chí có thể nói không ngoa rằng Hoa Kỳ đã tuyên chiến với Trái Đất.
LUDOVIC TOURNÈS
Giữa hai thời điểm trên, khoa học đã chứng minh rằng tài nguyên Trái Đất là hữu hạn và việc khai thác với cường độ cao làm thay đổi hệ sinh thái đến mức khiến cuộc sống của nhân loại ngày càng khó khăn.
Bất chấp sự đứt gãy trên, văn hóa Mỹ vẫn không thay đổi.
George H. W. Bush tuyên bố thẳng thứng tại Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất năm 1992: “Lối sống kiểu Mỹ là không thể thương lượng.” Con trai ông, George W. Bush, đã tái khẳng định điều này, và Donald Trump đã thúc đẩy nó bằng một tầm nhìn khai thác triệt để được tóm tắt bằng khẩu hiệu “Khoan đi, cứ tiếp tuc khoan đi/Drill, baby, drill.”
Dường như không ai có khả năng buộc cường quốc hàng đầu thế giới phải thay đổi lối sống của nó, ngoại trừ chính cường quốc ấy. Trong bối cảnh của quá trình phi liên kết của Hoa Kỳ với thế giới, đặc điểm văn hóa này có khả năng gây ra hậu quả tàn khốc cho phần còn lại của hành tinh.
Những khoản đầu tư khổng lồ vào một hệ sinh thái công nghệ lấy trí tuệ nhân tạo làm trọng tâm, phần lớn thờ ơ với các yêu cầu cấp bách về khí hậu, chỉ càng làm trầm trọng thêm động thái này. Thậm chí, không ngoa khi nói rằng Hoa Kỳ đã tuyên chiến với Trái Đất, khi dốc tất cả sức mạnh công nghiệp, toàn bộ năng lực đổi mới và niềm tin lịch sử vào việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
![]() |
Ảnh của Guilong Charles Cheng |
Chúng ta có thể làm gì?
Chúng ta phải ngừng vùi đầu vào cát.
Đất nước đang đối mặt chúng ta ngày nay không còn giống với những biểu tượng được tạo ra trong nửa sau thế kỷ 20.
Giới tinh hoa chính trị phải ngừng nuôi dưỡng hoài niệm và ảo tưởng về trật tự quốc tế đa phương ra đời năm 1945, vốn là nền tảng và động lực của nền văn hóa ngoại giao Châu Âu. Trật tự này đã có khởi đầu, và giờ đây chúng ta đang chứng kiến sự kết thúc của nó.
Vấn đề là phải nhìn nhận lịch sử cũng như hiện tại một cách thực tế. Hoa Kỳ luôn theo đuổi các mục tiêu chính sách đối ngoại của mình một cách tàn bạo - từ cuộc chinh phục miền Tây đến Chiến tranh Philippines (1899-1902), cho đến tận Việt Nam.
Hoa Kỳ đã đổi phe: không chỉ cách thức hoạt động chính trị của họ trở nên nguy hiểm, mà cả lối sống của họ cũng vậy.
LUDOVIC TOURNÈS
Nếu, sau năm 1945, sự tàn bạo này đã được kiềm chế một phần bằng cách liên kết an ninh của mình với an ninh của thế giới - điều này làm giảm nguy cơ xuất hiện một thế lực hùng mạnh, hoàn toàn không thể kiểm soát - nhưng logic này cũng khiến Hoa Kỳ chấp nhận một số giới hạn nhất định đối với sự thống trị của mình khi chấp nhận chủ nghĩa đa phương, mà từ đó Hoa Kỳ cũng đã đã gặt hái được những thành quả đáng kể trong một thời gian dài, cả về thịnh vượng kinh tế lẫn ảnh hưởng địa chính trị và văn hóa.
Và chính ý tưởng này, vốn được giới chính trị Mỹ đồng thuận cho đến những năm 1980, giờ đây đã bị nổ tung.
Với sự biến mất của ảnh hưởng trên toàn cầu của Hoa Kỳ, tất cả những gì còn lại chỉ là quyền lực thô - thứ mà dưới thời Donald Trump, ngày càng trở nên ấn tượng và không thể có gì kiểm soát.
Hoa Kỳ đã đổi phe: cách thức hoạt động chính trị, cũng như lối sống của họ, giờ đây tạo nên một nguy cơ hiện ainh.
Đối mặt với mối nguy hiểm chưa từng có này, phản ứng cần phải nhanh chóng và mạnh mẽ. Một bộ phận, chắc chắn là đa số, các dân tộc Châu Âu dường như đã sẵn sàng. Ai trong số các nhà lãnh đạo của chúng ta sẽ có thể khởi xướng phong trào lịch sử này?
Phạm Như Hồ dịch
Nguồn: “La menace americaine”, Le grand continent, 17.8.2025
Chú thích: [*]
Ludovic Tournès (1969 - ….) là một nhà sử học, một nhà thơ, một nhà nghiên cứu âm nhạc, một chuyên gia về lịch sử nước Mỹ và nhạc jazz (ND).
