4.8.25

Sáu tháng chính sách kinh tế theo kiểu Trump (Trumponomics): Tổ chức cuộc săn mồi thế giới

SÁU THÁNG CHÍNH SÁCH KINH TẾ THEO KIỂU TRUMP (TRUMPONOMICS): TỔ CHỨC CUỘC SĂN MỒI THẾ GIỚI

Sáu tháng sau khi Trump trở lại, kịch bản tồi tệ nhất đã không xảy ra. Nền kinh tế Mỹ vẫn kháng cự trên bề mặt.

Đằng sau những con số, lời hứa về sự tái công nghiệp hóa đang chững lại, và sự phụ thuộc của ngành sản xuất vào Trung Quốc vẫn tồn tại.

Vì không có đòn bẩy trong nước, Trump đang phóng chiếu những căng thẳng chưa được giải quyết của nền kinh tế Mỹ lên thị trường toàn cầu.

Đối với Benjamin Bürbaumer, sự săn mồi không giới hạn và vô thời hạn này là một bộ phận của một chiến lược: chúng ta nên nhìn nhận điều này như thế thay vì tin rằng chúng ta đang đàm phán.

Benjamin Bürbaumer[*]

Ngoạn mục, tàn khốc, hỗn loạn: Dự án văn minh của Donald Trump dường như đang diễn ra mà không thể bị ngừng lại.

Hôm nay đánh dấu sáu tháng kể từ khi ông nhậm chức tại Nhà Trắng. Đối mặt với hàng loạt biến động chóng mặt đang diễn ra ở Washington, làm thế nào thiết lập được một bản kiểm kê?

Để đưa ra một bản tổng kết tạm thời về một nhiệm kỳ tổng thống tìm cách thay đổi tiến trình lịch sử bằng cách biến nền cộng hòa Mỹ cũ thành một đế chế, tuần này chúng tôi sẽ xuất bản loạt bài mùa hè đầu tiên nhằm cố gắng hiểu rõ hơn - vượt ra ngoài các nguồn tư liệu - những gì Donald Trump thực sự đã làm trong sáu tháng qua.

---------------------------------

Đã tránh được thảm họa kinh tế - ít nhất là hiện nay

Trump được dự đoán sẽ gây ra hỗn loạn kinh tế. Hai tập đoàn cửa hàng bách hóa siêu lớn Walmart và Target đã tuyên bố rằng chính sách thuế quan của ông có thể nhanh chóng khiến cho các kệ hàng siêu thị bị vét cạn[1]. Nhà kinh tế học Paul Krugman nói thêm rằng “dữ liệu sơ bộ cho thấy nhập khẩu hàng từ Châu Á đang suy sụp”[2]; sự bất ổn gia tăng sẽ can ngăn các công ty Mỹ đầu tư[3]. Các mô hình về cương lĩnh của Trump[4] dự đoán một kết quả tương tự: GDP giảm, thất nghiệp và lạm phát gia tăng. Tóm lại, Trumponomics sẽ là một “thảm họa liên tục”[5].

Trái ngược với những lời tiên tri về ngày tận thế, dữ liệu thực tế cho thấy một bức tranh phức tạp hơn. Kể từ khi Trump đắc cử, tỷ lệ thất nghiệp được duy trì ở mức tương đối thấp[6], khoảng 4,1%, và lạm phát tiếp tục xu hướng giảm. Đồng thời, trong quý đầu tiên của năm 2025, tiêu dùng của các hộ gia đình vẫn mạnh và đầu tư tăng mạnh. Xét về tổng thể, IMF hẳn là đã hạ dự báo tăng trưởng năm 2025 từ 2,7% trong tháng 1 xuống còn 1,8% trong tháng 4[7], nhưng bất chấp sự sụt giảm đáng kể này, Hoa Kỳ vẫn được kỳ vọng sẽ đạt mức tăng trưởng cao nhất trong nhóm G7.

Mặc dù sẽ là quá đáng nếu gọi đó là một thảm họa, nhưng nền kinh tế Mỹ đang suy sụp và vất vả ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc.

BENJAMIN BÜRBAUMER

Tuy nhiên, các dữ liệu khác từ quý I - những dữ liệu duy nhất hiện có - khuyến khích ta tiết chế sự lạc quan.

GDP của Mỹ thực sự đã giảm 0,3%. Nhận thức được những con số này còn kém xa so với lời hứa của mình, Donald Trump đã bác bỏ lời chỉ trích: “Tôi mới nhậm chức vào ngày 20 tháng 1... Khi sự hưng thịnh bộc phát, nó sẽ không giống bất kỳ thời điểm nào khác. HÃY KIÊN NHẪN”[8]. Tuy nhiên, kết quả của quý này chủ yếu chịu sự tác động tiêu cực của sự bùng nổ nhập khẩu. Sự bất thường này là hệ quả trực tiếp của chính sách thương mại của Trump: dự đoán việc tăng thuế nhập khẩu sắp xảy ra, các công ty Mỹ đã vội vã tích trữ hàng tồn kho.

Mặc dù nói đến một thảm họa là hơi quá đáng, nhưng nền kinh tế Mỹ đang suy sụp và vất vả ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc. Đáp lại, Trump đang đặt cược vào một cách tiếp cận mang tính săn mồi với những hệ lụy kinh tế và chiến lược toàn cầu.

Trung Quốc: Ít được nhận thấy hơn nhưng vẫn là trung tâm của chuỗi cung ứng của Châu Á

Vượt ra ngoài thời vận trong nước, chính sách thương mại của Trump đã làm rung chuyển các chuỗi giá trị toàn cầu.

Tác động to lớn nhất là sự sụp đổ của thương mại song phương với Trung Quốc. Sự so sánh kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang Hoa Kỳ vào tháng 5 năm 2025 (tháng đầu tiên áp dụng mức thuế quan mới bắt đầu có hiệu lực) với kim ngạch xuất khẩu vào tháng 5 năm 2024 cho thấy: dòng chảy song phương giảm 34%. Điều này khiến các nhà máy Trung Quốc có hơn 15 tỷ đô la hàng hóa không có khách hàng tại Hoa Kỳ - ít nhất là thoạt nhìn. Đồng thời, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang các nước Nam và Đông Á tăng đáng kể (+12 tỷ đô la). Và các quốc gia này cũng có kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng mạnh (+8,5 tỷ đô la).

Vòng tròn gần như đã hoàn tất: thương mại với Châu Á cho phép Trung Quốc hấp thu 80% tổn thất do thị trường Mỹ gần như đóng cửa.

Điều khiến Tổng thống Mỹ khó chịu hơn là những dữ liệu này cho thấy, cuối cùng, mức giảm 15 tỷ đô la trong kim ngạch nhập khẩu trực tiếp từ Trung Quốc thực chất đã giảm xuống còn 6,5 tỷ đô la do sự tồn tại của các quốc gia “kết nối” cho phép né tránh thuế quan cao.

Việc Trung Quốc xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất đã giảm thiểu đáng kể tác động gây hại của thuế quan Hoa Kỳ.

BENJAMIN BÜRBAUMER

Hiệu ứng bù trừ này cho thấy sức mạnh của Những con đường tơ lụa mới.

Dự án tài trợ cơ sở hạ tầng vật chất rộng lớn này đã tạo ra một mạng lưới vận tải, giao thông, thông tin và cung cấp năng lượng dày đặc khắp nhiều quốc gia Châu Á làm cho thương mại trơn tru hơn và nhất là cho phép các công ty lớn của Trung Quốc nâng mình lên vị trí dẫn đầu một loạt các chuỗi giá trị được khu vực hóa. Cũng giống như việc xây dựng cơ sở hạ tầng tiền tệ của Trung Quốc đã giúp Nga lách các lệnh trừng phạt tài chính của Mỹ sau cuộc xâm lược Ukraine[9], việc xây dựng các cơ sở hạ tầng vật chất ngày nay làm giảm đáng kể sức mạnh gây hại của thuế quan Mỹ.

Như vậy, Trump đã phải trả giá cho sự lơ là của các chính quyền Mỹ nối tiếp nhau đối với tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng - theo nghĩa rộng - trong hoạt động của nền kinh tế toàn cầu, và đang phải đối mặt đặc biệt với sự thờ ơ của họ đối với những tác động của sự nhân rộng các cơ sở hạ tầng lấy Trung Quốc làm trung tâm.

Chắc hẳn chính quyền Mỹ nay đã nhận thức được hiện tượng né tránh. Trong viễn cảnh này, thỏa thuận đàm phán với Việt Nam quy định mức thuế hải quan 40% đối với hàng hóa - trên thực tế là hàng Trung Quốc - quá cảnh qua quốc gia đó. Nhưng hiệu quả của nó bị suy yếu trực tiếp bởi một số niềm tin tự do chủ nghĩa mà chủ nghĩa bảo hộ của Trump không thách thức. Một mặt, các quy tắc về nơi xuất xứ cực kỳ linh hoạt[10]: Hoa Kỳ coi một sản phẩm là do Việt Nam sản xuất miễn là 35% giá trị gia tăng của nó được sản xuất tại địa phương. Nói cách khác, phần còn lại có thể đến từ Trung Quốc. Mặt khác, mong muốn thu hẹp quy mô của chính phủ liên bang, đặc biệt là thông qua Bộ Hiệu quả Chính phủ (DOGE), đang dẫn đến sự rối loạn trong tổ chức của nhiều cơ quan, bao gồm cả hải quan. Do thường xuyên thiếu nhân lực[11], các cơ quan này đã bị quá tải ngay cả trước khi mức thuế quan tăng có hiệu lực vào tháng 4 và DOGE mang lại kết quả[12].

Sự phụ thuộc của Mỹ vào hàng nhập khẩu từ Trung Quốc không hề giảm bớt—mà chỉ đơn giản có nguy cơ trở nên khó nhận rõ hơn.

 BENJAMIN BÜRBAUMER

Hơn nữa, khoảng cách thuế quan của Hoa Kỳ, vốn ngăn cách Trung Quốc với phần còn lại của thế giới, tạo ra thêm động lực để áp dụng các phương pháp ghi chép sáng tạo. Việc phát hiện những gian lận này sẽ đòi hỏi nhiều nguồn lực đáng kể hơn, ngay tại những cơ quan mà chính quyền Hoa Kỳ đang giảm bớt.

Do đó, sự phụ thuộc của Hoa Kỳ vào hàng nhập khẩu từ Trung Quốc không hề giảm bớt - mà chỉ đơn giản là có nguy cơ trở nên khó nhận rõ hơn.

Thung lũng Silicon không hề bất mãn với việc này: trụ cột quyền lực này của Trump đã dịch chuyển sản xuất sang Châu Á một cách ồ ạt và do đó có thể tiếp tục vận hành các nhà máy ở xa, tránh xa tầm mắt của những nạn nhân của quá trình phi công nghiệp hóa mà Trump tự nhận là tiếng nói đại diện.

Sự phụ thuộc dai dẳng trong chế biến

Trong những điều kiện này, sự tái công nghiệp hóa - lời hứa chủ yếu mà Trump đã đưa ra với cử tri thuộc tầng lớp bình dân của mình - khó có thể thành công. Xét về tổng thể, hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ không hề giảm mà còn tăng lên, kể cả trong tháng Năm. Phần lớn, sự phụ thuộc vào Trung Quốc vẫn kéo dài.

Để tái công nghiệp hóa, thuế quan là điều kiện cần nhưng chưa đủ.

Chính sách công nghiệp là một sự bổ sung thiết yếu. Hiện nay, như một nghiên cứu của CEPII[13] cho thấy, Trung Quốc “thống trị thương mại thế giới với 730 sản phẩm, chiếm hơn một nửa kim ngạch xuất khẩu toàn cầu vào năm 2023, vượt xa EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản”, và sự thống trị này chỉ tăng lên kể từ cuối những năm 1990. Sự phát triển này đi đôi với xu hướng chuyển dịch sang các sản phẩm cao cấp. Ngày nay, hai loại hàng hóa nhập khẩu lớn nhất từ Trung Quốc của Hoa Kỳ là thiết bị điện và máy móc. Đối với những sản phẩm cực kỳ phức tạp này, Hoa Kỳ sẽ không thể tìm thấy những giải pháp thay thế nhanh chóng - nhất là trên chính lãnh thổ của mình.

Trừ khi thúc đẩy một chính sách công nghiệp nhắm vào các lĩnh vực chiến lược, Hoa Kỳ sẽ không thoát khỏi sự phụ thuộc - hơn nữa, điều này lại thường được tạo ra bởi các công ty Mỹ đã thay thế sản xuất trong nước bằng mạng lưới các nhà thầu phụ ở các nước có thu nhập thấp. Về vấn đề này, điều đáng chú ý là lĩnh vực chính mà Hoa Kỳ vẫn dẫn đầu về đổi mới - công nghệ thông tin và truyền thông - đã có thể đột phá nhờ sự hỗ trợ lâu dài của Nhà nước. Sự hỗ trợ này được thực hiện không chỉ dưới hình thức trợ cấp mà còn bao gồm các dịch vụ bổ sung khác của Nhà nước: cơ sở hạ tầng vật chất và các hiệu ứng cụm/clusters liên quan, đào tạo, chấp nhận rủi ro và phối hợp.

Đối với các sản phẩm cực kỳ phức tạp, chẳng hạn như thiết bị điện và máy móc, Hoa Kỳ sẽ không tìm thấy giải pháp thay thế nhanh chóng - nhất là trên chính lãnh thổ của mình.

BENJAMIN BÜRBAUMER

Có một khoảng cách rõ ràng giữa tất cả các chức năng này của Nhà nước và chính sách thuế khóa kiểu Trump của “Đại Đạo luật Tuyệt Đẹp”, cụ thể là việc giảm thuế doanh nghiệp kết hợp với sự phá bỏ các biện pháp công nghiệp như Đạo luật Giảm Lạm phát và việc cắt giảm nhân sự liên bang. Cách tiếp cận này có nguy cơ gây thiệt hại đặc biệt lớn cho nền kinh tế Mỹ.

Trái ngược với huyền thoại về sự rút lui của Nhà nước liên bang, Washington thực sự đã đóng một vai trò ngày càng tăng trong hai mươi năm qua[14] trong việc thúc đẩy đổi mới[15]. Bất chấp những nỗ lực này, trong cùng thời kỳ, Trung Quốc đã chuyển mình từ một quốc gia nhỏ bé về công nghệ thành một đối thủ đáng gờm nhờ vào kế hoạch công nghệ được khởi xướng vào năm 2006.

Mặc dù việc tăng mạnh ngân sách quân sự dự kiến cho năm 2026 có thể tạo ra những hệ quả phụ về công nghệ, nhưng tham vọng công nghiệp của Hoa Kỳ vẫn tụt hậu so với đối thủ Trung Quốc.

Sự suy yếu của sự ủng hộ của giới công nhân

Cuối cùng, nếu Trump thực sự muốn tái công nghiệp hóa Hoa Kỳ, ông sẽ cần một yếu tố thứ ba: thúc đẩy mạnh tiêu dùng đại chúng nội địa. Tuy nhiên, điều ngược lại dường như đang xảy ra. Các hộ gia đình dự đoán thu nhập của họ sẽ bị xói mòn do giá cả tăng cao.

Những tiên đoán về lạm phát đang tăng mạnh, đạt 6,6% vào tháng 5 năm 2025, mức cao nhất kể từ năm 1981.

Một kịch bản như vậy, đặc biệt là khi kết hợp với sự suy giảm tăng trưởng, như dự báo của Cục Dự trữ Liên bang[16], mang tính cách bùng nổ về mặt chính trị.

Việc không thể ngăn chặn lạm phát đã khiến Đảng Dân chủ mất Nhà Trắng vào năm 2024. Lần này, tình hình có thể bất lợi đối với Trump. Nhận thức được điểm yếu lớn này, tổng thống đã công khai khiển trách Walmart[17], thúc giục tập đoàn chuỗi bán lẻ này “nuốt ngậm thuế quan” thay vì tăng giá. Bởi vì ngân sách của các hộ gia đình Mỹ eo hẹp. Nếu đặc trưng của thời kỳ tân tự do là mức tăng trưởng hàng năm về lương theo giờ của nhân viên không thuộc nhân viên điều hành (0,6%) thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng năng suất (1,4%)[18], thì 18 tháng qua đã chứng kiến sự trì trệ rõ rệt về mặt lương bổng.

Sức mua sẽ vẫn là một vấn đề đặc biệt nhạy cảm trong những tháng tới.

Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế đặc biệt bất ổn, chính quyền Trump từ chối sử dụng các đòn bẩy khác có thể nới lỏng ngân sách của các hộ gia đình. Thái độ thù địch của ông đối với các nghiệp đoàn[19] cho thấy tổng thống Mỹ không có ý định cải thiện quyền lực thương lượng của người lao động - và tác động tái phân phối của các chính sách thương mại và tài khóa của ông là rất không đồng đều[20]. Tổng hợp lại, cuộc cải cách thuế theo “Đại Đạo luật Tuyệt Đẹp” sẽ làm cho thu nhập hàng năm của nhóm 10% nghèo nhất giảm 2.500 đô la - trong khi chuyển thêm 8.000 đô la cho nhóm 10% giàu nhất, đây là nhóm duy nhất ghi nhận sự thay đổi tích cực.

Logic của sự săn mồi vô hạn

Do tiêu dùng trong nước, phân phối sơ cấp và thứ cấp bị tắc nghẽn, Trump chỉ còn một lựa chọn: buộc phần còn lại của thế giới phải trả giá[21].

Bằng cách ép buộc về mặt chính trị việc tăng xuất khẩu trong khuôn khổ các hiệp định thương mại bất bình đẳng rõ ràng, Trump có thể kích hoạt sự gia tăng sản xuất và việc làm trong một số lĩnh vực nhất định như nông nghiệp, nhiên liệu hóa thạch và vũ khí. Các thỏa thuận được ký kết với Vương quốc Anh và Việt Nam là báo hiệu của xu hướng này: Hoa Kỳ duy trì thuế quan cao hơn mức trước tháng 4 năm 2025, trong khi quốc gia kia hạ thuế quan của mình và cam kết tăng nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Sự tái phân phối này cũng thể hiện rõ ở những nơi khác: bằng cách thúc đẩy các nước Châu Âu tăng đáng kể chi tiêu quân sự, Hoa Kỳ dự định huy động chi tiêu công của nước ngoài để phục vụ cho lợi ích của ngành công nghiệp quân sự của mình. Việc miễn thuế cho các công ty Mỹ đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng đi theo hướng này.

Đại Đạo luật Tuyệt Đẹp sẽ làm cho thu nhập hàng năm của nhóm 10% nghèo nhất giảm 2.500 đô la - trong khi chuyển thêm 8.000 đô la cho nhóm 10% giàu nhất, đây là nhóm duy nhất ghi nhận sự thay đổi tích cực.

BENJAMIN BÜRBAUMER

Cách tiếp cận này là một yếu tố rủi ro lớn đối với phần còn lại của thế giới vì nó không có giới hạn được xác định rõ ràng, do những căng thẳng nội bộ làm nằm sau các chính sách của Trump.

Những lời khiển trách của Trump đối với các nhà bán lẻ lớn cho thấy một mâu thuẫn cơ bản trong cách tiếp cận của ông: ông muốn tái công nghiệp hóa mà không làm cho hàng nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn đối với người tiêu dùng Mỹ. Khi đó, người tiêu dùng Mỹ sẽ thoát khỏi hiệu ứng giá cả được cho là sẽ hướng họ đến sản xuất trong nước.

Cũng cái logic mâu thuẫn này xuất hiện dưới một góc độ khác: Trump hy vọng sẽ tài trợ cho sự sụt giảm doanh thu từ cải cách thuế của mình thông qua thuế quan. Khi làm như vậy, ông đã triệt tiêu tác động trên hành vi của thuế quan và thừa nhận sự cần thiết của một mức thâm hụt thương mại kéo dài - trừ khi đồng thời tăng xuất khẩu của Mỹ.

Nhận xét này làm sáng tỏ động cơ của Mỹ đằng sau “các cuộc đàm phán thương mại” bằng cách nhắc lại sự khác biệt giữa hai loại thuế quan do nhà kinh tế học Rudolf Hilferding thiết lập: “Từ một biện pháp phòng thủ chống lại sự xâm chiếm thị trường nội địa của các ngành công nghiệp nước ngoài, [chủ nghĩa bảo hộ] đã trở thành một biện pháp xâm chiếm thị trường nước ngoài của các ngành công nghiệp quốc gia, từ vũ khí phòng thủ của kẻ yếu đến vũ khí tấn công của kẻ mạnh”[22]. Trump thực hành loại thứ hai và do đó muốn phần còn lại của thế giới phải trả một phần chi phí cho chính sách của mình. Do không tái công nghiệp hóa trước đó, ông sẽ buộc phải theo đuổi một chính sách chuyên môn hóa khá hẹp xung quanh những lĩnh vực - khá lỗi thời về mặt công nghệ - như nông nghiệp, nhiên liệu hóa thạch và vũ khí. Bằng cách này, ông có thể hy vọng giữ được sự ủng hộ của người lao động mà không cần tái công nghiệp hóa và duy trì sự ủng hộ của Thung lũng Silicon, nơi vẫn tiếp tục tự cung cấp phần lớn từ Trung Quốc, trong khi vẫn tỏ ra cứng rắn hơn với Bắc Kinh.

Tuy nhiên, sự ổn định của cấu trúc này giống như một lâu đài bằng giấy – điều khuyến khích Nhà Trắng theo đuổi một chiến lược hung hăng luôn hướng tới phía trước.

Sáu tháng sau khi nhậm chức, Trump đã kiên quyết phóng chiếu những căng thẳng chưa được giải quyết của nền kinh tế Mỹ ra thị trường toàn cầu. Ông ta đang biến những mâu thuẫn nội bộ nước Mỹ thành những xích mích giữa các quốc gia.

Thay vì tìm kiếm những thỏa thuận “công bằng”, sự giảm nhiệt - theo quan điểm của Mỹ - sẽ chỉ đến khi ông ta thành công trong việc đạt được đầy đủ những nhượng bộ từ các quốc gia khác - những nhượng bộ sẽ gây ra những căng thẳng kinh tế xã hội mới ở các quốc gia này. Do chính logic trong cách tiếp cận của Trump - hứa hẹn việc làm trong ngành công nghiệp mà không có những phương tiện để đạt được điều đó - nên tính đầy đủ của các nhượng bộ vẫn còn rất mơ hồ.

Do tiêu dùng trong nước, phân phối sơ cấp và thứ cấp bị tắc nghẽn, Trump chỉ còn một lựa chọn: buộc phần còn lại của thế giới phải trả giá.

BENJAMIN BÜRBAUMER

Đây chính là bản chất có khả năng gây bất ổn đặc biệt của Nhà Trắng.

Nhu cầu liên tục giải tỏa ra ngoài những căng thẳng trong nước của Trump đang dội lại trên phần còn lại của thế giới, đặc biệt là những tác nhân vẫn còn mù quáng gắn bó với tiến trình toàn cầu hóa trước đây.

Vào tháng 5 năm 2025, Liên Minh Châu Âu đã gánh chịu gần như toàn bộ mức giảm trong kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang Hoa Kỳ: 5,4 tỷ đô la trong tổng số 6,5 tỷ đô la.

Từ bản tổng kết tạm thời này, giả thuyết sau đây xuất hiện: để dung hòa những kỳ vọng khác nhau của các nhóm hình thành nên khối quyền lực của mình, Trump đang áp dụng một cách tiếp cận săn mồi liên tục với giới hạn vốn dĩ không xác định. Yếu tố chiến lược này nên được xem xét ở Châu Âu để xóa tan mọi ảo tưởng về “đàm phán”.

Người dịch: Phạm Như Hồ

Nguồn: Six mois de Trumponomics: organiser la prédation du monde”, Le grand continent, 20.7.2025.




Chú thích:

[*] Benjamin Burbaumer là giảng viên chính tại trường Sciences Po ở Bordeaux và là nhà nghiên cứu ở Trung Tâm Emile Durkheim. Chủ đề nghiên cứu của ông là: kinh tế học quốc tế, sự tranh đua Mỹ-Trung Quốc, thương mại quốc tế, tài chánh công, các chuẩn mực và quy chế kỹ thuật.

[1] Fin Daniel Gómez et Richard Escobedo, “Walmart, Target CEOs privately warned Trump tariffs could lead to empty shelves soon”, CBS News, 23 avril 2025.

[2] Paul Krugman, “Trump Is a Virus”, Paul Krugman (Substack), 24 avril 2025.

[3] Paul Krugman, “The Cost of Chaos: This is Getting Scary”, Paul Krugman (Substack), 9 avril 2025.

[4] Warwick J. McKibbin, Megan Hogan et Marcus Noland, “Trump’s economic policies could stoke inflation and hurt the US economy”, PIIE Charts, 4 octobre 2024.

[5] Paul Krugman, “Trump Is Stupid, Erratic and Weak”, Paul Krugman (Substack), 10 avril 2025.

[6] U.S. Bureau of Labor Statistics, “The Employment Situation – June 2025”, Bureau of Labor Statistics, 3 juillet 2025.

[7] Sam Fleming et Claire Jones, “IMF warns of rising US recession risk and defends Fed rate policy”, Financial Times, 22 avril 2025.

[10] AmCham Vietnam, “Country of Origin FAQs”, AmCham Vietnam, sans date précisée.

[12] David Lawder, Helen Reid, Lisa Baertlein et Lisa Barrington, “Trump pauses de minimis repeal as packages pile up at US customs”, Reuters, 8 février 2025.

[13] Gianluca Santoni et Vincent Vicard, “La Chine, toujours plus dominante dans le commerce mondial”, CEPII, 12 mars 2025.

[14] Fred Block, Matthew R. Keller et Marian Negoita, “Revisiting the Hidden Developmental State”, Political Science Quarterly, vol. 52, no 2, publié en ligne le 14 février 2023.

[15] Theo quan điểm này, “cảm giác của một số người cánh hữu ở Thung lũng Silicon rằng họ không được chính quyền Biden công nhận đầy đủ”, điều khiến họ xích lại gần Trump hơn, giống như ý thích của một đứa trẻ được nuông chiều …

[16] Claire Jones, “Federal Reserve cuts outlook for US economy but holds interest rates steady”, Financial Times, 18 juin 2025.

[18] Economic Policy Institute, “The Productivity–Pay Gap”, EPI, mise à jour du 15 mai 2025.

[20] The Budget Lab at Yale, “Combined Distributional Effects of the One Big Beautiful Bill Act and of Tariffs”, Budget Lab at Yale, 12 juin 2025.

[21] Sự phục hồi mạnh mẽ của tiến trình tài chính hóa cũng là một đòn bẩy. Trump quyết tâm thúc đẩy tự do hóa tài chính, đặc biệt chiếu cố đến nền tài chính tư nhân. Nợ của các hộ gia đình, tính theo tỷ lệ GDP, thật vậy đã giảm xuống còn 70%, sau khi đạt đỉnh 100% vào năm 2008. Tuy nhiên, xét về mặt lịch sử, mức này vẫn rất cao và bản chất dễ gây khủng hoảng của nó khiến tiến trình tài chính hóa trở nên cực kỳ rủi ro. Vì cần nhiều phân tích dài hơn, bài viết này đã cố tình bỏ qua các chiều kích tài chính và tiền tệ sẽ được đề cập trong các tập khác của loạt bài về sáu tháng cầm quyền của Trump.

[22] Rudolf Hilferding, Le capital financier, cinquième partie: “La politique économique du capital financier”, chapitre XXI: “Le changement dans la politique commerciale”, 1910.

Print Friendly and PDF