12.4.17

Trí thức và không gian công cộng trong xã hội hiện đại


TRÍ THỨC VÀ KHÔNG GIAN CÔNG CỘNG TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
Trần Hữu Quang
Mục tiêu của bài này là bàn luận về vai trò của trí thức trong không gian công cộng xét trong bối cảnh xã hội hiện đại. Nội dung bài viết chủ yếu dựa trên những tư tưởng và luận điểm của một số tác giả khoa học xã hội trên thế giới mà chúng tôi cho là quan trọng và mang tính gợi mở cho tiến trình suy tư về những vấn đề của xã hội Việt Nam đương đại. Bài này bao gồm ba phần: trước hết là một vài đặc trưng của người trí thức; kế đến, những đặc trưng của không gian công cộng nói chung và của báo chí nói riêng; và cuối cùng, sứ mệnh của người trí thức trong xã hội hiện đại.

Một vài đặc trưng của người trí thức

Trí thức là một từ khá thông dụng trong đời sống xã hội, nhưng thường được hiểu theo nhiều cách khác nhau và dưới những góc độ khác nhau, ngay cả nơi giới nghiên cứu khoa học xã hội, đến mức mà John Peter Nettl (1970, tr. 59) từng nêu câu hỏi như sau: “Trí thức là một định chế, một tập thể, một vai trò, một loại người, hay là gì?”
Wright Mills (1916-1962)
Talcott Parsons (1902-1979)
Theo Wright Mills (1974, tr. 142), không thể định nghĩa trí thức dựa trên vị trí xã hội của họ, mà cần dựa trên “chức năng của họ và những đặc trưng chủ quan của họ”. Ông viết: “Với tư cách là những người chuyên hoạt động trong lãnh vực biểu tượng [tức hoạt động trí tuệ – T.H.Q.], những người trí thức sản xuất, phân phối và duy trì những hình thái ý thức nhất định. Họ là những người trực tiếp chuyên chở nghệ thuật và tư tưởng.” Mills cho rằng trí thức không phải là một tầng lớp xã hội thuần nhất, mà là một tập hợp bao gồm nhiều nhóm nhỏ tản mát.
Talcott Parsons (1970, tr. 4) định nghĩa trí thức là người “được [mọi người] kỳ vọng là [...] đặt những mối quan tâm văn hóa lên trên những mối quan tâm xã hội” trong các hoạt động của mình. Ở đây, Parsons (1970, tr. 3) hiểu mối quan tâm “xã hội” là cái phụ thuộc vào những nhu cầu cấp bách của sự tương giao giữa các tác nhân; còn mối quan tâm “văn hóa” là cái phụ thuộc vào những “hệ thống ý nghĩa”, ít nhiều mang tính chuẩn tắc (normative) vì chúng quy định cái gì buộc phải làm. Hiểu theo nghĩa này, người trí thức khác biệt rõ rệt so với người đứng đầu một tổ chức, người chủ xí nghiệp, hay một người gia trưởng. Lẽ tất nhiên, hai chiều kích “xã hội” và “văn hóa” vừa nêu trên không loại trừ nhau, vì chiều kích văn hóa thường là điều kiện thiết yếu để một hệ thống xã hội có thể vận hành suôn sẻ. Nhưng theo Parsons (1970, tr. 4), xét trong ngắn hạn, “những người có chức trách xã hội thường dễ sẵn sàng hy sinh những lợi ích văn hóa cho những lợi ích xã hội”. Có thể diễn giải ý của Parsons một cách nôm na (tuy hơi giản lược hóa) qua thí dụ sau: người ta thường mong một vị bác sĩ luôn luôn coi “những mối quan tâm” y học của mình cao hơn, quan trọng hơn so với “những mối quan tâm” xã hội, thí dụ như chỉ muốn lấy lòng bệnh nhân hoặc chỉ biết tuân phục mệnh lệnh của giám đốc bệnh viện, chứ không hành xử theo kiến thức và lương tâm y học của mình.
J. Schumpeter (1883-1950)

Mặc dù trí thức có thể là quan sát viên (onlooker) của xã hội, là người “ngoài cuộc” (outsider) đối với xã hội (J. Schumpeter, 2003, tr. 147; W. Mills, 1974, tr. 142), mặc dù họ có thể là những người sinh sống bằng nhiều nghề khác nhau, và mặc dù họ có thể nằm trong hoặc nằm ngoài các định chế xã hội đương thời, nhưng “dù thế nào chăng nữa, với tư cách là trí thức, họ là những người sống cho các ý tưởng, chứ không phải sống nhờ dựa vào các ý tưởng” (W. Mills, 1974, tr. 142-143).
Karl Mannheim gọi giới trí thức là những người “không bị ràng buộc về mặt xã hội” (freischwebende Intelligenz, socially unattached intelligentsia), tức là một loại tầng lớp nằm xen kẽ giữa các tầng lớp xã hội khác và tương đối độc lập với các lợi ích giai cấp (dẫn lại theo P. Berger và T. Luckmann, 2015, tr. 21). J.P. Nettl (1970, tr. 59) cũng nhấn mạnh rằng cần quan niệm trí thức chủ yếu là những người “tách rời khỏi mọi dạng ràng buộc định chế”.
Karl Mannheim (1893-1947)

Tuy nhiên, Pierre Bourdieu (1984, tr. 70) cho rằng, nếu coi trí thức là kẻ “không gắn bó với ai và cũng chẳng thuộc về ai”, thì đây thực sự là một “ảo tưởng” hay gần như một thứ “ý thức hệ nghề nghiệp của những người trí thức”. Bourdieu nói: “Với tư cách là người nắm giữ vốn văn hóa, trí thức là một bộ phận (bị thống trị) của giai cấp thống trị, và nhiều lập trường của họ, trong lãnh vực chính trị chẳng hạn, xuất phát từ vị trí nước đôi của họ [ambiguïté de leur position] – đó là vị trí của những kẻ bị thống trị trong số những kẻ thống trị” (ibid., tr. 70).
Theo Bourdieu, trí thức là người vừa có “đặc quyền” nắm giữ vốn văn hóa, vừa có “thẩm quyền” phát biểu một cách đầy uy quyền về những lãnh vực vượt ra ngoài thẩm quyền chuyên môn của mình, nhất là về lãnh vực chính trị. Vì thế, một mặt, họ có nguy cơ “tiếm đoạt” thẩm quyền này để làm ra vẻ mình là kẻ biết mọi lời giải về mọi chuyện. Nhưng mặt khác, cũng chính nhờ cái “đặc quyền” là có những điều kiện để phân tích và hiểu ra ngọn nguồn của sự vận hành của xã hội, nên người trí thức có thể “tự giải phóng mình (ít ra phần nào) và cung cấp cho người khác những phương tiện giải phóng” (ibid., tr. 72). Theo Bourdieu, “xã hội học mang lại một khả năng là phá vỡ sự mê muội”, giải thoát những người tưởng mình là “trí thức tự do” ra khỏi “ảo tưởng mình là kẻ thống trị thời đại” trong khi thực ra mình đang là “kẻ bị thời đại thống trị” (ibid., tr. 70).
Với đặc thù là hoạt động trong lãnh vực trí tuệ, người trí thức không thể phát huy cái “thẩm quyền phát biểu” của mình nếu không có một không gian công cộng trong xã hội.

Không gian công cộng và báo chí

I. Kant (1724 - 1824)

Không gian công cộng là một trong những sản phẩm độc đáo nhất của xã hội hiện đại vốn mang một trong những thuộc tính then chốt là tính đa nguyên. Khi định nghĩa sự “khai minh” (enlightenment) chính là “sự giải thoát ra khỏi tình trạng ấu trĩ [immaturity]”, Immanuel Kant (2006a, tr. 19 và 22) nhấn mạnh rằng người ta “phải luôn luôn được tự do sử dụng công khai lý tính của mình, và chỉ có điều này mới có thể mang lại sự khai minh nơi con người”. Nếu “Vị sĩ quan nói: không tranh cãi, tập luyện đi! Nhân viên thu thuế nói: không tranh cãi, nộp tiền đi! Vị giáo sĩ nói: không tranh cãi, hãy tin đi!”, thì nhà nghiên cứu lại là người phải đưa công trình của mình “ra trước thế giới độc giả” để họ xem xét, phê phán. Chỉ khi nào tính công khai được tôn trọng, thì “anh ta [mới] được hưởng đầy đủ quyền tự do và thậm chí còn được mời gọi truyền thông cho công chúng mọi tư tưởng thiện chí mà anh ta đã suy xét cẩn thận” (I. Kant, 2006a, tr. 18-19). Đề cập tới giới trí thức không nằm trong bộ máy nhà nước mà ông gọi chung là “các nhà triết học”, Kant (2006b, tr. 159) nhận xét như sau: “Do quyền tự do mà họ tự cho là mình có, [các nhà triết học] thường là những người chướng tai gai mắt đối với nhà nước, vốn luôn luôn chỉ muốn cai trị, và với tư cách là ‘những người khai minh’ [enlighteners], họ nổi tiếng là trở thành mối đe dọa đối với nhà nước [...]. Điều này chỉ có thể xảy ra nhờ vào không gian công cộng [publicity], nếu cả một quốc gia muốn biểu tỏ sự bất bình của mình. Vì thế, việc cấm đoán không gian công cộng sẽ cản trở sự tiến bộ của một dân tộc hướng đến điều tốt đẹp hơn.”
Jürgen Habermas (1929-)

Theo Jürgen Habermas, không gian công cộng là không gian mà trong đó bất cứ cá nhân nào cũng có thể tham gia và trao đổi ý kiến với nhau mà không bị áp lực từ bên ngoài. Trên nguyên tắc, đây là nơi diễn ra những cuộc tranh luận mang tính chất lý tính và phê phán (rational-critical debate), và do vậy đây chính là nơi kết tinh nên những ý kiến (công luận) và ý muốn của công chúng. Tính duy lý của sự đối thoại trong không gian công cộng giúp cho người ta vượt dần ra khỏi những lợi ích cá biệt để đạt tới một sự đồng thuận (consensus) giữa những người có thiện chí với nhau (J. Habermas, 1993, dẫn lại theo E. Maigret, 2003, tr. 211-214, 224).
Không gian công cộng đóng vai trò trung gian giữa xã hội công dân và nhà nước, buộc nhà nước phải chịu trách nhiệm trước xã hội do “tính công cộng” của mình. Không gian công cộng tự nó mang tính chất phê phán bởi lẽ nó giả định rằng phải có những thông tin về các hoạt động của nhà nước để công luận có thể xem xét và bình phẩm (A. Létourneau, 2001, tr. 49).
Daniel Lerner (1917-1980)

Các phương tiện truyền thông đại chúng là định chế điển hình nhất của không gian công cộng. Trong xã hội hiện đại, định chế này tạo ra một không gian công cộng mới mẻ và rộng mở, chưa từng có trong các xã hội cổ truyền, tiền hiện đại. Theo Daniel Lerner (1973, tr. 132-133), “một hệ thống truyền thông chính là một dấu chỉ và cũng đồng thời là một tác nhân của sự thay đổi trong toàn bộ một hệ thống xã hội.” Các phương tiện truyền thông đại chúng, nhất là báo chí, chính là một trung giới truyền thông trong nội bộ xã hội dân sự, cũng như giữa xã hội dân sự với các định chế nhà nước. Hiểu theo ý nghĩa này, truyền thông đại chúng không phải là một lãnh địa dành riêng cho những người có quyền lực, những nhà truyền thông hay các chuyên gia.


Báo chí là chiếc cầu nối không thể thiếu giữa người dân với xã hội. Vì thế, một trong những chức năng xã hội quan trọng của báo chí là nuôi dưỡng sự gắn bó của người dân với đời sống xã hội, và từ đó, sâu xa hơn, củng cố lòng tin của người dân vào các giá trị xã hội. Người dân đọc báo không chỉ để biết tin tức và theo dõi giòng thời sự, mà quan trọng hơn, còn là để hiểu thời cuộc mà họ đang sống. Do vậy, nếu tờ báo không chu toàn sứ mệnh của mình, chỉ thông tin một chiều theo kiểu “tô hồng”, thì chuyện độc giả không tín nhiệm vào tờ báo là điều dễ hiểu. Điều đáng nói là một khi tình hình nà̀y trở nên phổ biến thì nguy cơ nảy sinh tình trạng mất lòng tin trong xã hội là điều khó lòng ngăn chặn. Một cách tổng quát, có thể nói rằng độ tin cậy của một nền báo chí cũng biểu hiện độ tin cậy của chính hệ thống xã hội.
Xã hội hiện đại là một xã hội mang tính chất thế tục, nghĩa là trong đó phương thức tổ chức đời sống xã hội không còn dựa trên nền tảng của những trật tự siêu nhiên hay siêu việt nữa, mà là thông qua sự thảo luận, tức là thông qua hoạt động truyền thông, nhờ đó con người mới có thể đi đến một sự thỏa thuận, tức một khế ước, về chuyện chung sống với nhau như thế nào một cách chính đáng (legitimate).
Georg Hegel (1770-1831)

Georg Hegel (2010, tr. 803) từng viết như sau: “Nguyên tắc của thế giới hiện đại đòi hỏi rằng những gì buộc con người phải nhìn nhận thì bản thân chúng phải tự chứng tỏ là chính đáng đã.” Nói cách khác, những điều mà người ta coi là “chính đáng” phải là kết quả xuất phát từ một quá trình thảo luận tự do. Theo Hegel, “trong dư luận quần chúng có cả cái đúng lẫn cái sai”, nhưng việc nhìn ra những điều đúng đắn trong đấy “chính là công việc của bậc vĩ nhân”. Ông viết: “Ai thể hiện được ý nguyện của thời đại mình, ai nói cho thời đại mình biết điều mà thời đại mong muốn, và hoàn thành ý nguyện ấy, là vĩ nhân của thời đại” (G. Hegel, 2010, tr. 804). Để biết được “ý nguyện” của dân chúng, để hiểu được công luận, hiển nhiên là phải tôn trọng và tạo điều kiện cho quyền tự do ngôn luận, và hệ luận của điều này là quyền tự do báo chí. Theo Hegel (ibid., tr. 804), “sự tự do ngôn luận bao giờ cũng được xem là ít nguy hiểm hơn so với sự im lặng, bởi nếu nhân dân im lặng, sợ rằng họ sẽ giữ mãi trong lòng sự chống đối, trong khi việc tự do lý sự sẽ mở lối thoát và mang lại cho họ một mức độ thỏa mãn nào đó, khiến công việc được tiến hành dễ dàng hơn.” Dĩ nhiên, tự do báo chí hoàn toàn không phải là “tự do tha hồ nói và viết những gì mình thích”, bởi lẽ nếu nghĩ như vậy thì cũng không khác gì nói rằng “sự tự do nói chung có nghĩa là muốn làm gì thì làm”, và cách hiểu này là “sản phẩm của lối suy nghĩ còn hoàn toàn thiếu văn hóa, thô lậu và nông cạn” (ibid., tr. 805).
Vào tháng 5-1842, trên tờ nhật báo Rheinische Zeitung, Karl Marx viết rằng có thể có ba loại công chúng khi một nền báo chí sa vào tệ giả dối và tệ tiêu cực: một là nhóm “mê tín về chính trị”, hai là nhóm “không tin tưởng về chính trị”, và ba là nhóm “hoàn toàn quay lưng lại với cuộc sống của quốc gia, biến thành đám người chỉ sống với cuộc đời riêng tư”. Và Marx còn nhấn mạnh rằng nền báo chí ấy “có tác dụng làm suy đồi đạo đức” trong xã hội (C. Mác, Ph. Ăng-ghen, 1995, tr. 102-105).

Sứ mệnh của trí thức trong xã hội hiện đại


Pierre Bourdieu (1930-2002)
Pierre Bourdieu (1984, tr. 71) cho rằng nét đặc thù của người trí thức không phải là “biết mình phải nghĩ gì” về tất cả những thứ mà xã hội thời thượng coi là đáng suy nghĩ, mà ngược lại, cần “tìm cách khám phá ra tất cả những gì mà lịch sử và lô-gic của trường trí thức [champ intellectuel] đã từng buộc anh ta phải suy nghĩ [...] với ảo tưởng là mình đang được tự do.”
Ralf Dahrendorf từng ví vai trò của người trí thức trong xã hội hiện đại tương tự như vai “anh hề” (fool hay jester) trong triều đình Âu châu thời xưa, vốn thường xuất hiện bên cạnh nhà vua hay hoàng hậu để kể chuyện diễu cợt hoặc đùa giỡn. Theo Dahrendorf, bất cứ xã hội nào cũng đều có những người “ở bên trên” chuyên ra lệnh, và những người “ở bên dưới” chuyên làm theo luật lệ được ban hành bởi những kẻ bên trên; ngoài ra, còn có những người ở giữa, không chỉ ra lệnh mà cũng không chỉ thi hành, chẳng hạn kế toán viên hay cảnh sát viên. Tuy nhiên, ngoài ba hạng người ấy, còn có một loại nữa mà người ta thường bỏ quên, đó là chính là nhân vật “anh hề”. Không giống như những người ở bên trên, ở giữa hay ở bên dưới vốn luôn luôn phải đóng đúng vai của mình, anh hề được coi là diễn viên nằm ngoài mọi vai. “Vai của anh ta là không đóng vai nào”: “điều mà mỗi người phải làm” và “cách mà mỗi người phải diễn” chính là những điều mà anh hề không tuân theo (R. Dahrendorf, 1970, tr. 53-54).
Ralf Dahrendorf (1929-2009)
Anh hề đóng vai “lương tâm phê phán của những kẻ cầm quyền” (critical conscience of the rulers) và có quyền tự do làm những điều mà những kẻ bên dưới nếu làm thì sẽ bị trừng phạt. “Quyền lực của anh hề nằm nơi sự tự do của anh ta so với hệ thống tôn ti của trật tự xã hội, nghĩa là, anh ta phát ngôn từ bên ngoài cũng như từ bên trong đó. Anh hề thuộc về trật tự xã hội nhưng không buộc phải trung thành với nó; anh ta có thể phát ngôn cả những sự thật nhức nhối về trật tự xã hội ấy mà không phải sợ hãi gì” (ibid., tr. 54).
Dahrendorf viết (ibid., tr. 55): “Với tư cách là những anh hề cung đình của xã hội hiện đại, mọi trí thức đều có nghĩa vụ phải hoài nghi tất cả những gì hiển nhiên, coi mọi quyền hành đều mang tính tương đối, đặt ra tất cả những câu hỏi mà không ai khác dám nêu lên.” Anh hề không gánh vác một trách nhiệm nào, và lẽ tất nhiên cũng chẳng có quyền lực gì, nhưng không phải vì thế mà sự thật anh ta nói ra bị kém giá trị. “Một xã hội có dung nạp hay không những anh hề cung đình trí thức chuyên phê phán và chất vấn các định chế của mình, và cách thức mà xã hội khoan dung chấp nhận những người này, đấy chính là thước đo cho sự trưởng thành và sự vững chắc nội tại của xã hội ấy” (ibid., tr. 56).
Hans Gerth (1908-1978)

Hans Gerth và Wright Mills (1964, tr. 270) nhận định rằng trí thức là một trong số những thành phần thường được/bị coi là “trệch hướng” (deviationist) trong xã hội. Liên quan đến tư thế trệch hướng này, P. Berger và T. Luckmann (2015, tr. 187) phân tích như sau: “[...] tình trạng ở ngoài lề xã hội của [người trí thức] [...] cho thấy anh ta không chịu hội nhập trên phương diện lý thuyết vào trong lòng vũ trụ [biểu tượng] của xã hội anh ta. Anh ta tỏ ra là một chuyên gia đối đầu trong công việc định nghĩa thực tại. Tương tự như chuyên gia ‘chính thức’, anh ta cũng có một bản thiết kế cho xã hội nói chung. Nhưng trong khi bản thiết kế của chuyên gia ‘chính thức’ luôn luôn phù hợp với các chương trình định chế, và được dùng để chính đáng hóa các chương trình này về mặt lý thuyết, thì bản thiết kế của người trí thức lại tồn tại trong một cõi chân không về mặt định chế [...]. Có thể khẳng định chắc chắn rằng một mức độ đa nguyên nhất định chính là một điều kiện cần thiết [cho sự tồn tại và hoạt động của giới trí thức].”
Peter Berger (1929-)
T. Luckmann (1927-2016)
Joseph Schumpeter (2003, tr. 149) cho rằng, với tư cách là người hoạt động tự do, trí thức chính là người “đỡ đẻ” của xã hội. Ông nhấn mạnh rằng chính hình thái xã hội tư sản là nơi cưu mang cho sự xuất hiện và sự lớn mạnh của tầng lớp trí thức chuyên “gây phiền toái” này: “Không giống như bất cứ loại hình xã hội nào khác, chủ nghĩa tư bản, do chính lô-gic của nền văn minh của mình, tất yếu tạo ra, giáo dục và tài trợ cho lợi ích thủ đắc được từ sự khuấy động xã hội [của giới trí thức]” (ibid., tr. 146).

Nếu người trí thức gần như luôn luôn “ở trong một dạng nổi loạn thường trực chống lại tình trạng lệ thuộc vào lợi ích và vào sự tuân phục” (W. Mills, 1974, tr. 143), thì theo H. Gerth và W. Mills (1964, tr. 270-271), những trí thức “trệch hướng” này lại “thường đóng những vai trò quan trọng trong những giai đoạn chuyển đổi từ một cấu trúc xã hội này sang một cấu trúc xã hội khác. Họ phê phán những thứ đang tồn tại như thể là những thứ ‘đã chết rồi’, và họ làm điều này nhân danh những tiêu chuẩn chưa thành hiện thực, và có thể ngay cả những tiêu chuẩn ‘không tưởng’, không thể thực hiện được.”
Hiểu theo chiều hướng ấy, hiển nhiên là người trí thức không thể nào đảm nhiệm được sứ mệnh của mình nếu thể chế xã hội không xác lập được một không gian công cộng tự do thực thụ, mà trong đó quan trọng trước hết là không gian báo chí.
Sài Gòn, ngày 5-1-2017
Trần Hữu Quang

Tài liệu tham khảo

Berger, Peter L., và Thomas Luckmann (2015), Sự kiến tạo xã hội về thực tại. Khảo luận về xã hội học nhận thức [1966], Trần Hữu Quang chủ biên dịch thuật, giới thiệu và chú giải, Hà Nội, Nxb Tri thức.
Bourdieu, Pierre (1984), Questions de sociologie, Paris, Minuit.
Dahrendorf, Ralf (1970), “The Intellectual and Society. The Social Function of the ‘Fool’ in the Twentieth Century” [1953], in Philip Rieff (Ed.), On Intellectuals, New York, Anchor Books, pp. 53-56.
Gerth, Hans, and C. Wright Mills (1964), Character and Social Structure. The Psychology of Social Institutions [1953], New York, Harcourt, Brace and World, Inc.
Hegel, Georg W.F. (2010), Các nguyên lý của triết học pháp quyền [1821], Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Hà Nội, Nxb Tri thức.
Kant, Immanuel (2006a), “An Answer to the Question: What Is Enlightenment?” [1784], in Immanuel Kant, “Toward Perpetual Peace” and Other Writings on Politics, Peace, and History, edited and with an introduction by Pauline Kleingeld, trans. David L. Colclasure, New Haven and London, Yale University Press, pp. 17-23.
Kant, Immanuel (2006b), “The Contest of the Faculties, Part Two. The Contest of the Faculty of Philosophy with the Faculty of Law” [1798], in Immanuel Kant, “Toward Perpetual Peace” and Other Writings on Politics, Peace, and History, op. cit., pp. 150-163.
Lerner, Daniel (1973), “Systèmes de communications et systèmes sociaux”, in Francis Balle et Jean Padioleau (Dir.), Sociologie de l’information, Textes fondamentaux, Paris, Larousse, pp. 131-145.
Létourneau, Alain (2001), “Remarques sur le journalisme et la presse au regard de la discussion dans l'espace public”, in Patrick J. Brunet, L'éthique dans la société de l'information, Québec et Paris, Presses Université Laval, L'Harmattan.
Mác, Các, và Ph. Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 1, Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia.
Maigret, Eric (2003), Sociologie de la communication et des médias, Paris, Armand Colin.
Mills, C. Wright (1974), White Collar. The American Middle Classes [1951]. London, Oxford University Press.
Nettl, John Peter (1970), “Ideas, Intellectuals, and Structures of Dissent”, in Philip Rieff (Ed.), On Intellectuals, New York, Anchor Books, pp. 57-134.
Parsons, Talcott (1970), “‘The Intellectual’: A Social Role Category”, in Philip Rieff (Ed.), On Intellectuals, New York, Anchor Books, pp. 3-26.
Schumpeter, Joseph A. (2003), Capitalism, Socialism and Democracy [1943], London, Routledge.
Print Friendly and PDF