31.10.22

Thời đại thái cực 1914 (15): Thế Giới Thứ Ba và Cách Mạng

THỜI ĐẠI THÁI CỰC 1914 – 1991 (15)

THE AGE OF EXTREMES

Tác giả: Eric J. Hobsbawm; Người dịch: Nguyễn Ngọc Giao

PTKT: Kể từ tháng 8.2021, chúng tôi lần lượt đăng tiếp các chương còn lại của tác phẩm Thời đại thái cực 1914-1991. Để có một cái nhìn chung giới thiệu tác giả và tác phẩm, mời bạn đọc lại bài Nhà sử học của hai thế kỷ.

MỤC LỤC

Lời tựa và Cảm tạ

Lời tựa bản tiếng Pháp

Hình ảnh minh họa

Chú thích các hình ảnh

Thế kỉ nhìn từ đường chim bay

Phần thứ nhất - THỜI ĐẠI TAI HỌA

chương 1 Thời đại chiến tranh toàn diện

chương 2 Cách mạng thế giới

chương 3 Dưới đáy vực thẳm kinh tế

chương 4 Sự suy sụp của chủ nghĩa liberal

chương 5 Chống kẻ thù chung

chương 6 Nghệ thuật, 1915-1945

chương 7 Sự cáo chung của các Đế chế

Eric J. Hobsbawm (1917-2012)

Phần thứ hai - THỜI ĐẠI HOÀNG KIM

chương 8 Chiến tranh Lạnh

chương 9 Thời đại Hoàng kim

chương 10 Cách mạng xã hội, 1945-1990

chương 11 Cách mạng văn hóa

chương 12 Thế giới thứ Ba

chương 13 “Chủ nghĩa xã hội hiện tồn”

Phần thứ ba: SỤP ĐỔ

chương 14 Những thập niên Khủng hoảng

chương 15 Thế giới thứ Ba và cách mạng

chương 16 Sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội

chương 17 Tiền phong hấp hối: nghệ thuật sau 1950

chương 18 Phù thủy và đồ đệ tập việc: các ngành khoa học tự nhiên

chương 19 Tiến tới thiên niên kỉ mới

* * *

Phần thứ ba

SỤP ĐỔ

Chương 15

THẾ GIỚI THỨ BA VÀ CÁCH MẠNG

 

“Tháng giêng năm 1974, trong một cuộc kinh lí thanh tra, trung tướng Beleta Abebe đặt chân tới trại lính ở Gode.[…] Ngày hôm sau, Cung vua nhận được bản báo cáo khó tưởng tượng: tướng Abebe đã bị binh lính bắt giữ, ép buộc ông ta phải nếm một suất ăn của lính tráng. Đồ ăn hôi thối tới mức người ta lo trung tướng sẽ trúng độc mà chết. Hoàng đế [Ethiopia] đã gửi một đơn vị không vận của Đội cận vệ hoàng gia đến Gode giải thoát Abebe và chở trung tướng vào bệnh viện”.

Jyszard KAPUSCINSKI, The Emperor (1983, tr. 130)

“Chúng tôi bắt đầu giết đàn súc vật [của trại thực nghiệm Trường đại học] ra sức giết bao nhiêu thì giết. Nhưng khi chúng tôi đang giết như vậy thì những bà nông dân khóc lóc: mấy con vật này, chúng làm gì nên tội mà giết đi như vậy? Các señoras khóc rống lên, thế là chúng tôi phải buông tay. Nhưng chúng tôi cũng đã giết tới 1/4 đàn súc vật, khoảng 80 con gì đó rồi. Định giết cả đàn, nhưng làm không nổi, nông dân khóc lóc dữ quá.

Chúng tôi còn đứng ngây ra đó một lúc thì có một ông cưỡi ngựa từ Ayacucho tới, chạy đi báo. Ngày hôm sau, đài phát thanh và báo La Voz đều đưa tin. Thế là chúng tôi đi về: có những đồng chí mang theo đài và chúng tôi nghe bản tin. Nghe mà nức lòng, đúng thế không nào?.

Một đội viên trẻ của tổ chức Con đường Sáng,

Tiempos (1990, tr. 198)

 

I

 

Hastings Banda (1898-1997)
Houphouët-Boigny (1905-1993)

Bất luận người ta lí giải ra sao về những biến đổi của Thế giới thứ Ba, về sự phân hóa và rạn nứt tiệm tiến của khu vực này, Thế giới thứ Ba khác Thế giới thứ Nhất trên một điểm cơ bản. Trên thế giới, nó là khu vực của cách mạng – vừa tiến hành cách mạng xong, hay cách mạng đang chín muồi, hay có khả năng bùng nổ. Khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu trên quy mô hoàn cầu, thì Thế giới thứ Nhất nói chung là ổn định về chính trị và xã hội. Còn ở Thế giới thứ Hai, sức cản của đảng Cộng sản và khả năng quân đội Liên Xô can thiệp đã ngăn chận mọi chuyển động ngấm ngầm. Trái lại, kể từ năm 1950 (hay từ ngày thành lập), ít có quốc gia đáng kể nào ở Thế giới thứ Ba lại không trải qua cách mạng – hoặc là đảo chính quân sự nhằm đập tan, ngăn ngừa hay tiến hành cách mạng, hoặc dưới dạng giao tranh nội chiến. Sang đầu thập niên 1990, những biệt lệ chủ yếu là Ấn Độ và vài ba thuộc địa đặt dưới sự thống trị của những nhà độc tài gia trưởng chủ nghĩa như Bác sĩ Hastings Banda ở Malawi (thời thực dân, gọi là Nyasaland), và cho đến năm 1994, Houphouët-Boigny, người hùng tưởng như bất khả xâm phạm của Bờ biển Ngà. Bất ổn định về xã hội và chính trị đã tạo thành mẫu số chung của Thế giới thứ Ba.

Đối với Hoa Kỳ, với chủ trương duy trì nguyên trạng tương quan lực lượng trên thế giới, tình trạng bất ổn định của Thế giới thứ Ba được đồng nhất với chủ nghĩa cộng sản Soviet, hay chí ít, đó là con chủ bài tiềm thể thường trực của đối phương trong cuộc giao tranh giành thế thượng phong trên thế giới. Gần như ngay từ lúc bắt đầu Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã chống lại mối nguy này bằng đủ mọi cách, từ viện trợ kinh tế và tuyên truyền tư tưởng tới chiến tranh, qua những chiến dịch phá hoại vũ trang, chính thức và không chính thức: tốt nhất là với sự trợ lực của chính quyền địa phương thân thiện hoặc đã được mua chuộc, nếu cần thì vẫn tiến hành dù không có yểm trợ tại chỗ. Điều này góp phần khiến cho Thế giới thứ Ba trở thành khu vực chiến tranh thường xuyên, trong khi Thế giới thứ Nhất và Thế giới thứ Hai được hưởng một thời kì hòa bình dài lâu nhất từ thế kỉ XIX đến giờ. Trước khi hệ thống Soviet sụp đổ, người ta ước tính có tới 19 triệu – thậm chí 20 triệu – nạn nhân của hơn 100 “cuộc chiến tranh lớn, hoạt động quân sự và xung đột” xảy ra liên tiếp trong thời gian 1945- 1983, hầu hết ở Thế giới thứ Ba: hơn 9 triệu nạn nhân ở Đông Á; 3 triệu ở châu Phi; 2,5 triệu ở Nam Á; hơn nửa triệu ở Trung Đông, không kể cuộc xung đột Iran-Irak 1980-1988 là cuộc chiến tranh tàn hại nhất, lúc đó mới bắt đầu; và non nửa triệu người ở châu Mỹ Latin (UN World Social Situation, 1985, tr. 14). Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), với số người chết từ 3-4 triệu trong một nước dân số 30 triệu (Halliday/Cumings, 1988, tr. 200-201), và 30 năm chiến tranh ở Việt Nam (1945-1975) là hai cuộc chiến tranh lớn hơn hẳn, cũng là hai cuộc chiến tranh duy nhất có sự tham gia ồ ạt của quân đội Mỹ. Tại mỗi nước, Hoa Kỳ bị mất khoảng 50 nghìn binh sĩ. Số tử vong của nhân dân Việt Nam và những nước khác khó ước tính, 2 triệu người theo những ước lượng thấp nhất. Một số cuộc chiến tranh chống cộng tiến hành một cách gián tiếp cũng dã man như vậy, nhất là ở châu Phi: từ 1980 đến 1988, dường như có tới gần 1,5 triệu người chết ở Mozambique và Angola (trên dân số tổng cộng là 23 triệu người), 12 triệu người phải di cư hoặc bị nạn đói đe dọa (UN Africa, 1989, tr. 6).

Tiềm lực cách mạng của Thế giới thứ Ba cũng là điều hiển nhiên đối với các nước cộng sản, ít nhất vì lí do này: các lãnh tụ giải phóng chống thực dân có xu hướng tự coi mình là XHCN, cùng chung chí hướng khai phóng, tiến bộ và hiện đại hóa với Liên Xô, và theo cùng một đường lối. Được giáo dục kiểu phương Tây, họ có thể nghĩ rằng mình cảm hứng từ Marx và Lenin, tuy rằng rất hiếm có những đảng Cộng sản hùng mạnh ở Thế giới thứ Ba, và, ngoại trừ Mông Cổ, Trung Quốc và Việt Nam, không có đảng Cộng sản nào trở thành mũi nhọn của các phong trào giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, nhiều chính thể mới thành lập thấy rõ tiện ích của một chính đảng theo mô hình Lenin và đã xây dựng đảng như vậy thí dụ như Tôn Dật Tiên ở Trung Quốc sau năm 1920. Một số đảng Cộng sản có được lực lượng và vị trí quan trọng đã bị gạt ra ngoài lề (như ở Iran và Irak trong những năm 1950 và 1960) hoặc tàn sát như năm 1965 ở Indonesia, là nơi một nửa triệu người cộng sản, thực sự hay bị quy kết là cộng sản, đã bị giết chết sau một âm mưu đảo chính thân cộng: đây có lẽ là cuộc thảm sát chính trị lớn nhất trong lịch sử.

Fidel Castro (1926-2016)
Kwame Nkrumah (1909-1972)

Trong suốt mấy thập niên, Liên Xô duy trì một quan niệm thực dụng về quan hệ với các phong trào giải phóng và cách mạng của Thế giới thứ Ba, vì họ không có ý định và cũng không hi vọng mở rộng khu vực cộng sản ra khỏi lằn ranh của khối Liên Xô ở phương Tây, hay khu vực có sự can dự của cộng sản Trung Quốc (mà họ không kiểm soát được hoàn toàn) ở phương Đông. Điều ấy vẫn không thay đổi, ngay dưới thời Khrushchev (1956-1964), khi một vài cuộc cách mạng cục bộ, trong đó đảng Cộng sản không giữ vai trò nào quan trọng, đã giành được chính quyền mà không nhờ vả bên ngoài, như là ở Cuba (1959) và Algeria (1962). Cuộc giải thực hóa ở châu Phi đã đưa lên cầm quyền những lãnh tụ quốc gia không mong muốn gì hơn là được mang danh nghĩa người bạn XHCN, chống đế quốc của Liên Xô, nhất là khi Liên Xô mang tới cho họ sự viện trợ kĩ thuật hay gì khác, không mang hơi hớm của chủ nghĩa thực dân; Kwame Nkrumah ở Ghana, Sekou Touré ở Guinée, Modibo Keita ở Mali và, ở Congo thuộc Bỉ, Patrice Lumumba, mà cái chết bi thảm (bị ám sát) đã biến thành thần tượng và liệt sĩ của Thế giới thứ Ba. (Liên Xô đã đổi tên “Trường đại học Hữu nghị các dân tộc” thành lập năm 1960 để đón nhận sinh viên Thế giới thứ Ba thành “Trường đại học Lumumba”)[*]. Moskva có thiện cảm với các chế độ mới này và cung cấp viện trợ; song chẳng bao lâu họ cũng phải từ bỏ sự lạc quan quá mức về các quốc gia châu Phi mới. Tại Congo thuộc địa cũ của Bỉ, Liên Xô đã yểm trợ về quân sự cho phe Lumumba chống lại phe chư hầu và tay sai của Hoa Kỳ và Bỉ trong cuộc nội chiến (có cả sự can thiệp của lực lượng vũ trang Liên Hiệp Quốc, mà cả hai siêu cường đều không tán thành) diễn ra sau ngày trao trả độc lập quá hấp tấp. Kết quả rất đáng thất vọng[143]. Khi một trong những chính thể mới ấy, là chính quyền Fidel Castro ở Cuba, công khai chọn lựa chủ nghĩa cộng sản, khiến mọi nơi đều ngạc nhiên, thì Liên Xô bảo lãnh Cuba, nhưng ở một mức độ nhất định, không để xảy ra đoạn tuyệt trong quan hệ với Hoa Kỳ. Song không có bằng cớ gì chứng tỏ, cho đến giữa thập niên 1970, là Liên Xô có ý định mở rộng biên giới của khối cộng sản bằng cách mạng; mà ngay trong những năm 1970, mọi dấu hiệu đều cho thấy Liên Xô chỉ lợi dụng thời cơ chứ không tìm cách tạo ra thời cơ thuận lợi. Độc giả cao tuổi còn nhớ: hi vọng của Khrushchev là sự ưu việt về kinh tế của chủ nghĩa xã hội cuối cùng sẽ chôn vùi chủ nghĩa tư bản.

Nikita Khrushchev (1894-1971)
Sékou Touré (1922-1984)

Sự thật là, năm 1960, khi Trung Quốc (không cần nói tới những người mác-xít li khai đủ loại) nhân danh cách mạng, thách thức uy quyền của Liên Xô trên phong trào cộng sản quốc tế, thì những đảng Cộng sản ở các nước Thế giới thứ Ba, gắn bó với Liên Xô, vẫn duy trì đường lối ôn hòa của họ. Tại những nước này, kẻ thù không phải là chủ nghĩa tư bản – cứ coi như có chủ nghĩa tư bản ở đó – mà là chế độ tiền tư bản, những nhóm lợi ích bản địa và chủ nghĩa đế quốc (Mỹ) ủng hộ những thế lực ấy. Con đường tương lai không phải là đấu tranh vũ trang mà là mở ra một mặt trận rộng rãi – mặt trận nhân dân hoặc mặt trận dân tộc – trong đó giai cấp tư sản hay tiểu tư sản “dân tộc” có chỗ đứng của mình với cương vị đồng minh. Tóm lại, chiến lược của Moskva ở Thế giới thứ Ba vẫn kiên trì đường lối của Quốc tế Cộng sản những năm 1930, bất chấp những lời chỉ trích lên án như vậy là phản bội Cách mạng tháng Mười (xem ch. 5). Chiến lược này làm cho những người chọn lựa con đường vũ trang bực tức, nhưng đôi khi thành công, như ở Brazil và Indonesia vào đầu thập niên 1960 và ở Chile năm 1970. Tuy nhiên, mỗi lần cuộc thử nghiệm lại bị kết thúc bằng một cuộc đảo chính quân sự, tiếp theo đó là chính sách khủng bố: ở Brazil sau năm 1964, ở Indonesia năm 1965 và ở Chile năm 1973.

Dẫu sao, Thế giới thứ Ba cũng đã trở thành rường cột cho hi vọng và niềm tin của những người tin tưởng vào cách mạng xã hội. Thế giới thứ Ba là đa số loài người. Người ta những tưởng đó là ngọn núi lửa của hành tinh sắp tới ngày khạc lửa, một chấn trường mà những xung động sẽ báo trước những cơn động đất trong tương lai. Bản thân tác giả “sự cáo chung của các hệ tư tưởng” (Bell, 1960) cũng thừa nhận rằng, ở đó, thời đại của những giấc mơ “thiên niên chủ nghĩa” và cách mạng vẫn chưa tàn phai. Nhưng Thế giới thứ Ba không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với những nhà cách mạng lão thành gắn bó với truyền thống tháng Mười hay đối với những tâm hồn lãng mạn không mãn nguyện với sự tầm thường hào nhoáng mà thực sự phồn thịnh của thập niên 1950. Toàn bộ phái tả, kể cả những người thuộc xu hướng nhân bản tự do và những người dân chủ xã hội ôn hòa, cũng cần có một cái gì đó hơn là luật lệ về an ninh xã hội và sự tăng lương thực thụ. Thế giới thứ Ba có thể nuôi dưỡng lí tưởng của họ; và các chính đảng nhân danh truyền thống Thế kỉ Ánh sáng cần có những lí tưởng và mục tiêu chính trị cụ thể. Không có lí tưởng và mục tiêu như vậy họ không thể trường tồn. Điều đó, và chỉ có điều đó, mới giải thích được tại sao tại thành lũy kiên cố của tiến bộ không cách mạng là các nước Bắc Âu, Hà Lan và Hội đồng Giáo hội thế giới (Tin lành) người ta đã thực sự say mê giúp đỡ Thế giới thứ Ba như vậy – chỉ có thể so sánh hiện tượng này vào cuối thế kỉ XX với sự ủng hộ những phái bộ truyền giáo hồi thế kỉ XIX? Vào cuối thế kỉ XX, cũng với nhiệt tình tương tự, những người thuộc xu hướng tự do ở châu Âu đã ủng hộ và yểm trợ các nhà cách mạng và các cuộc cách mạng ở Thế giới thứ Ba.

 

II

 

Che Guevara (1928-1967)
Mao Trạch Đông (1893-1976)

Điều gây ấn tượng mạnh mẽ lên cả những người ủng hộ lẫn những người chống lại cách mạng, là từ năm 1945 trở đi, chiến tranh du kích ở Thế giới thứ Ba dường như đã trở thành hình thái chủ yếu của đấu tranh cách mạng. Một bảng “biên niên sử các cuộc chiến tranh du kích lớn” biên soạn khoảng giữa thập niên 1970 đã liệt kê được 32 cuộc từ sau Thế chiến thứ Hai. Trừ 3 cuộc (nội chiến Hi Lạp vào cuối thập niên 1940, cuộc đấu tranh của Chypre chống lại Anh những năm 1950, và cuộc chiến tranh ở Ulster, từ năm 1969), tất cả đều diễn ra ở ngoài phạm vi châu Âu và Bắc Mỹ (Laqueur, 1977, tr. 442). Thật ra còn có thể kể ra thêm nhiều vào bản danh sách. Tuy nhiên, hình ảnh một cuộc cách mạng nhất thiết khởi xướng từ đồi núi không hoàn toàn chính xác. Nó coi nhẹ vai trò những cuộc đảo chính quân sự thiên tả, một điều khó tưởng tượng ở châu Âu (cho đến khi xảy ra ở Bồ Đào Nha năm 1974), nhưng khá phổ biến ở các nước Islam và không hiếm ở châu Mỹ Latin. Cách mạng Bolivia năm 1952 là thành quả kết hợp của thợ mỏ và binh sĩ khởi nghĩa, và cuộc cải cách xã hội triệt để nhất ở Peru là do chế độ quân sự tiến hành vào cuối những năm 1960 và trong thập niên 1970. Quan điểm này cũng coi nhẹ tiềm lực cách mạng của quần chúng thành thị như trước đây: bằng chứng là cuộc cách mạng ở Iran năm 1979, và những biến động ở Đông Âu. Dầu sao, trong phần tư thứ ba của thế kỉ, người ta đều chú mục vào các cuộc chiến tranh du kích, mà chiến thuật được các nhà tư tưởng cực tả, là những người chỉ trích đường lối của Liên Xô, hăng hái phổ biến. Mao Trạch Đông sau ngày đoạn tuyệt với Liên Xô, Fidel Castro sau 1959, hay đúng hơn, người đồng chí Che Guevara, nhà cách mạng lữ hành đẹp trai (1928-1967), là nguồn cảm hứng của họ. Còn những người cộng sản Việt Nam, là những người tiến hành chiến lược du kích một cách tài tình và hiệu quả nhất hạng, khiến cho toàn cầu phải khâm phục vì họ đã chiến thắng Pháp và sức mạnh của Mỹ, thì họ lại tránh khuyến khích những người khâm phục họ tham gia vào những cuộc nội chiến có tính cách ý thức hệ của phái tả.

Fulgencio Batista (1901-1973)

Những năm 1950 đầy rẫy những cuộc du kích chiến ở Thế giới thứ Ba. Hầu hết những cuộc chiến tranh này đều diễn ra ở các nước thuộc địa cũ, nơi mà chính quyền mẫu quốc cũ hay chính quyền thực dân tại chỗ, vì lí do này hay lí do khác, không chịu giải thực một cách hòa bình: Mã Lai, Kenya (phong trào Mau-Mau), đảo Chypre thuộc đế quốc Anh đang tan vỡ. Đồng thời, hai cuộc chiến tranh Algeria và Việt Nam, khốc liệt hơn nhiều, diễn ra trong khối đế quốc Pháp trong quá trình tan vỡ. Cũng lạ, làm rạng rỡ chiến lược du kích trên sân khấu quốc tế lại là một phong trào tương đối nhỏ – nhỏ hơn phong trào nổi dậy ở Mã Lai (Thompson, 1971, tr. 1040) – không giống nước nào, nhưng đã thành công: cuộc cách mạng đã giành chính quyền ngày 1 tháng giêng 1959 ở Cuba, giữa vùng biển Caribe. Trong đời sống chính trị của châu Mỹ Latin, Fidel Castro (sinh năm 1927) là một nhân vật khá đặc trưng: một cá tính mạnh mẽ, nhiều hấp lực, xuất thân trong một gia đình đại điền chủ, đường lối chính trị khá mơ hồ, nhưng quyết tâm biểu dương dũng trí, và, khi có thời cơ, trở thành nhà quán quân của tự do chống lại ách độc tài, bất luận dưới danh nghĩa nào. Ngay những khẩu hiệu của ông (“Tổ quốc hay là Chết” – ban đầu là “Chiến thắng hay là Chết” – và “Chúng ta nhất định thắng”) rất hay nhưng hơi thiếu chính xác, là những khẩu hiệu giải phóng của một thời quá vãng. Sau một thời gian ẩn náu trong những “băng đảng súng lục” khá tiêu biểu trong cuộc sống sinh viên Trường đại học La Habanna, Fidel chọn con đường khởi nghĩa chống lại chính quyền của tướng Fulgencio Batista: nhân vật quen thuộc và lắt léo của sinh hoạt chính trị Cuba từ ngày xuất hiện trên chính trường năm 1933 bằng một cuộc đảo chính, khi ấy còn mang lon trung sĩ, đến năm 1952 lại cướp chính quyền, bãi bỏ hiến pháp. Cách tiếp cận của Fidel là cung cách của người ưa hoạt động: tấn công trại lính năm 1953, ở tù, lưu vong rồi đổ bộ về Cuba, và lần này, đội du kích bám trụ được ở vùng núi một tỉnh hẻo lánh nhất. Ván bài liều đã thành công. Đứng về mặt thuần túy quân sự, thách thức không có gì lớn lao. Che Guevara, bác sĩ người Argentina đồng thời là một chỉ huy du kích tài năng, với 148 người, đã chiếm lĩnh được toàn đảo: khi gần tới đích, họ cũng chỉ có khoảng 300 người. Phía cánh quân do Fidel cầm đầu, mãi tới tháng 12 năm 1958, họ mới chiếm được một thị trấn một nghìn dân (Thomas, 1971, tr. 997). Họ chỉ chứng minh được một điều – một điều khá lớn – là một lực lượng không chính quy có thể kiểm soát được một “vùng giải phóng” rộng lớn và giữ vững được vùng đất ấy trước sự phản công của một đạo quân cũng phải nói là đã mất tinh thần. Fidel thắng vì chính quyền Batista èo ọt, không có hậu thuẫn nào ngoài sự ủng hộ của những phần tử vì tiện nghi hay quyền lợi, cầm đầu chính quyền lại là một con người đã trở thành lười biếng sau một thời gian dài thối nát. Chính quyền đã sụp đổ ngay khi gặp sự phản đối của mọi giai cấp, từ giai cấp tư sản dân chủ đến những người cộng sản, đoàn kết lại để chống Batista, và khi ngay những người của hắn, lính tráng, công an và bọn đao phủ cũng thấy là tên độc tài đã hết thời. Fidel đã chứng minh điều đó và đương nhiên lực lượng của ông đã thừa kế chính quyền. Không hậu thuẫn, chính quyền thối nát cũ đã sụp đổ. Đối với phần đông người dân Cuba, giờ phút chiến thắng của nghĩa quân là giờ phút giải phóng muôn vàn hứa hẹn mà hiện thân là vị chỉ huy trẻ tuổi. Thế kỉ XX có đầy những nhân vật hấp lực được quần chúng tôn sùng, thao thao bất tuyệt trên ban công hay trước máy vi âm, nhưng có lẽ con người ít có ai hoài nghi hay thù nghịch nhất chính là chàng trai “râu hùm hàm én” ấy, một người không bao giờ đúng giờ, bộ quân phục dã chiến luôn luôn xuệch xoạc, nói liên tục hàng giờ, chia sẻ những suy nghĩ không sắp xếp hệ thống với những đám đông chăm chú và ngoan ngoãn (trong đó có người viết trang sách này). Ít nhất có một lần, cách mạng được nghiệm sinh như một tuần trăng mật tập thể. Nó sẽ đi về đâu? Chắc hẳn tới cái gì tốt đẹp hơn.

Porfirio Díaz (1830-1915)

Nghĩa quân những năm 1950 ở châu Mỹ Latin tất nhiên đã vận dụng ngôn từ của các nhà giải phóng dân tộc tiền bối, từ Simón Bolívar đến José Marti (trường hợp Cuba), và của truyền thống phản đế, xã hội cách mạng của phái tả sau năm 1917. Họ đều chủ trương “cải cách ruộng đất”, bất luận nội dung cụm từ này là như thế nào (xem ch. 12. III), và chống Mỹ, ít nhất là một cách ẩn ngôn – đặc biệt ở khu vực Trung Mỹ nghèo khó, “quá gần Hoa Kỳ, quá xa Thượng Đế”, nói như Porfirio Díaz, một thời đã từng là người hùng của nước Mexico. Fidel Castro và các đồng chí của ông, là những nhà cách mạng, nhưng không người nào là đảng viên cộng sản, thậm chí chẳng ai (trừ hai trường hợp biệt lệ) tỏ ra có xu hướng mác-xít gì cả. Và sự thật là Đảng XHCN nhân dân Cuba (ở châu Mỹ Latin, nếu không kể ĐCS Chile, thì đây là đảng Cộng sản duy nhất có tính chất quần chúng) đã không hề giấu giếm sự nghi ngại đối với cuộc khởi nghĩa của Fidel, cho đến khi một số đảng bộ đã gia nhập cuộc khởi nghĩa. Quan hệ giữa hai tổ chức hết sức lạnh nhạt. Các nhà ngoại giao và cố vấn ngoại giao Mỹ liên miên tranh luận với nhau xem phong trào Fidel có thân cộng hay không; thân cộng thì tất nhiên phải có biện pháp, như CIA đã lật đổ chính phủ cải cách của Guatemala năm 1954. Nhưng họ đã kết luận dứt khoát là không thân cộng.

Song, mọi yếu tố đều thúc đẩy phong trảo của Fidel theo hướng cộng sản – từ hệ tư tưởng xã hội – cách mạng của những người muốn phát động khởi nghĩa vũ trang cho đến bầu không khí chống cộng ở Hoa Kỳ trong cao trào của chủ nghĩa MacCarthy: nghĩa quân chống đế quốc chỉ có thể ngả về Marx. Chiến tranh Lạnh cũng tác động thêm vào. Nếu chính quyền mới làm cho Washington phật lòng – mà điều này chắc chắn sẽ xảy ra, vì đầu tư của Mỹ ở Cuba bị đe dọa – thì Cuba có thể trông chờ vào cảm tình và sự ủng hộ của đối phương to lớn của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh. Thêm nữa, hình thái chính quyền mà Fidel ưa thích – chủ yếu là những cuộc độc thoại thoải mái trước hàng triệu quần chúng – không phải là phương pháp lâu dài để lãnh đạo một đất nước, dù nhỏ bé đến đâu, và cũng không phải là cách mạng. Chủ nghĩa dân túy chăng nữa cũng cần phải có tổ chức. Trong lực lượng cách mạng, đảng Cộng sản là đoàn thể duy nhất có khả năng mang lại một tổ chức. Hai bên đều cần nhau, và gặp nhau ở đó. Tuy nhiên, tháng ba 1960, nghĩa là khá lâu trước khi Fidel biết rằng Cuba là một nước XHCN, và bản thân mình là cộng sản (một thứ cộng sản tổng hợp rất đặc biệt), thì Hoa Kỳ đã quyết định xử lý Cuba cộng sản và ra lệnh cho CIA tổ chức lật đổ (Thomas, 1971, tr. 1271). Năm 1961, cuộc đổ bộ của những phần tử lưu vong vào Vịnh con Lợn [Bahía de Cochinos] thất bại. Thế là một nước Cuba cộng sản đã tồn tại, cách đảo Key West khoảng một trăm km, bị Mỹ cấm vận tứ bề, ngày càng lệ thuộc Liên Xô.

Không có một cuộc cách mạng nào lại có diện mạo hấp dẫn như vậy đối với phái tả phương Tây và các nước đang phát triển, vào những năm cuối của một thập kỉ bảo thủ chế ngự, như để quảng bá một cách tối ưu cho chiến lược du kích. Cách mạng Cuba đã hội tụ mọi yếu tố: lãng mạn, những anh hùng sơn khê, những tráng sĩ hào hiệp trước đó không lâu còn là thư sinh (người già nhất mới ngoài 30), làm cách mạng tại một thiên đường du lịch nhiệt đới, trong nhịp điệu rumba rậm rực. Lại được những người cách mạng phái tả toàn thế giới hoan nghênh.

Trên thực tế, những người có cảm tình nhất với cách mạng Cuba lại là những người chỉ trích Moskva, từ lâu đã ấm ức Liên Xô đặt ưu tiên cho sự chung sống hòa bình với tư bản. Fidel Castro trở thành tấm gương cho những trí thức tranh đấu ở các nước châu Mỹ Latin, châu lục của những nam nhi ngứa tay là bấm cò súng, khoái hành động nghĩa hiệp và dáng đứng anh hùng. Sau một thời gian nhất định, Cuba đã dứt khoát ủng hộ những cuộc nổi dậy ở châu lục, nghe lời thúc giục của Che Guevara – người anh hùng của Cách mạng liên Nam Mỹ và chủ trương tạo ra “hai, ba, nhiều Việt Nam”. Một thanh niên ưu tú tả khuynh người Pháp (còn nước nào nữa chứ?) đã tạo tác ra hệ tư tưởng thích ứng, bằng cách nâng thành hệ thống một ý tưởng, là ở một châu lục mà tình hình cách mạng đã chín muồi, thì chỉ cần nhập khẩu những nhóm nhỏ chiến sĩ vũ trang trên vùng rừng núi là có thể nhen nhúm “bếp lửa” (foco) giải phóng quần chúng (R. Debray, 1965).

Camilo Torres (1929-1966)

Thế là khắp châu Mỹ Latin, những nhóm thanh niên đã phát động những cuộc đấu tranh du kích – cuộc nào cũng thất bại – dưới ngọn cờ của Fidel, của Trotski hay của Mao Trạch Đông. Ngoại trừ Trung Mỹ và Columbia, những nơi mà quân du kích có thể dựa vào cơ sở nông dân có truyền thống, phần lớn các cuộc nổi dậy đều nhanh chóng bị dập tắt, để lại những thi hài nổi tiếng – “Che” ở Bolivia, linh mục nghĩa quân Camilo Torres cũng không kém đẹp trai và hấp dẫn ở Columbia – và những người vô danh. Sai lầm chiến lược càng hiển nhiên hơn nữa khi ta biết rằng, trong những điều kiện thuận lợi, phong trào du kích tại nhiều nước hiệu quả và lâu dài đã tồn tại: bằng chứng là tổ chức FARC (Lực lượng vũ trang cách mạng Columbia), cộng sản, hoạt động ở Columbia từ năm 1964, và phong trào mao-ít Con đường Sáng ở Peru trong những năm 1980.

Aldo Moro (1916-1978)
Carrero Blanco (1904-1973)

Phải nói là ngay trong trường hợp nông dân ủng hộ du kích, phong trào này cũng ít khi là phong trào nông dân – FARC có lẽ là biệt lệ hiếm hoi. Thường thường, khởi xướng phong trào ở Thế giới thứ Ba là những trí thức trẻ, xuất thân từ thành phần trung lưu có vị trí xã hội, sau đó có thêm sự tham gia của một thế hệ sinh viên: con trai, và đôi khi, con gái của giai cấp tiểu tư sản mới, đang phát triển mạnh. Đó cũng là trường hợp mà chiến thuật du kích rời khỏi những vùng nông thôn xa xôi để chuyển vào các đô thị, như một bộ phận của cánh tả cách mạng khởi xướng vào những năm cuối thập niên 1960[144] (chẳng hạn như ở Argentina, Brasil, Uruguay và châu Âu). Sự thực là, tiến hành du kích ở thành thị dễ dàng hơn ở nông thôn nhiều, vì không cần có sự ủng hộ hay đồng lõa của quần chúng, mà có thể dựa vào tình trạng không ai biết ai ở thành phố, chỉ cần một ngân quỹ nhất định và một nhóm cảm tình viên tối thiểu, chủ yếu trong thành phần xã hội trung lưu. Các nhóm “du kích đô thị” hay “khủng bố” đã khám phá ra điều này: làm cách mạng không dễ bằng tổ chức vài cuộc đánh bom, tấn công ngoạn mục (thí dụ như ám sát đô đốc Carrero Blanco, người được chỉ định thế vị Franco, do ETA tổ chức năm 1973; hay vụ ám sát cựu thủ tướng Italia Aldo Moro do các Lữ đoàn Đỏ gây ra năm 1978), đó là không kể nhưng vụ cướp để gây quỹ.

Juan Perón (1895-1974)

Bởi vì, ngay ở châu Mỹ Latin đi chăng nữa, những lực lượng lớn, tạo ra được chuyển biến chính trị là những nhân vật chính trị dân sự – và quân đội. Làn sóng chế độ quân sự phái hữu tràn ngập Nam Mỹ trong những năm 1960 – cái mốt chính quyền quân sự chưa bao giờ “quá đát” ở Trung Mỹ, ngoại trừ ở Mexico thời kì cách mạng, và ở nước Costa Rica nhỏ bé đã giải thể cả quân đội sau cuộc cách mạng 1948 – không nhất thiết là một giải pháp khi có những cuộc nổi dậy vũ trang. Tại Argentina năm 1955, quân đội đã lật đổ lãnh tụ dân túy Juan Domingo Perón (1895-1974); sức mạnh của Perón dựa vào tổ chức công nhân và huy động dân nghèo (1955); về sau quân đội đã nhiều lần đảo chính, vì phong trào ủng hộ Perón vẫn tồn tại mạnh mẽ, không tài nào tìm ra giải pháp chính trị dân sự thay thế được. Khi Perón lưu vong trở về vào năm 1972, lần này có một bộ phận phái tả bám sát để ủng hộ, biểu dương lực lượng một cách mạnh mẽ, thì quân đội đã cướp lại chính quyền bằng xương máu, tra tấn, và tuyên truyền ái quốc, nhưng cuối cùng đã bị truất quyền sau thất bại trong cuộc chiến tranh với Anh năm 1982, một cuộc chiến tranh ngắn ngủi, vô lí nhưng có tính chất quyết định.

Augusto Pinochet (1915-2006)
Getulio Vargas (1882-1954)

Ở Brasil năm 1964, quân đội đã cướp chính quyền, đối tượng của cuộc đảo chính cũng tương tự như ở Argentina: hậu duệ của lãnh tụ dân túy Getulio Vargas (1882-1954), vào đầu thập niên 1960, đã ngả dần sang phái tả, chủ trương dân chủ hóa và tiến hành cải cách ruộng đất, rồi tỏ ra nghi ngờ chính sách của Hoa Kỳ. Những âm mưu du kích nho nhỏ vài cuối thập niên 1960 không hề trở thành mối đe dọa đối với quân đội, nhưng họ lấy đó làm cớ để đàn áp không nương tay. Nhưng cũng phải nói là sang đầu thập niên 1970, chính quyền cũng bắt đầu nhẹ tay và cuối cùng, đến năm 1985, đã trao quyền bính cho dân sự. Ở Chile, kẻ thù mà lực lượng quân phiệt lật đổ là liên minh phái tả, bao gồm đảng Xã hội, đảng Cộng sản và những người tiến bộ khác – đó là khối liên minh mà truyền thống châu Âu cũng như Chile vẫn gọi là “mặt trận Nhân dân” (xem ch. 5). Một mặt trận như vậy đã từng thắng cử vào những năm 1930 ở Chile, nhưng hồi đó Washington không bị kích động thần kinh như vậy, và chế độ Chile thời đó là một chính thế hợp hiến dân sự. Liên minh phái tả lần này đặt dưới sự lãnh đạo của Salvador Allende (đảng Xã hội), đắc cử tổng thống năm 1970; ban đầu, chính phủ của ông bị đánh làm cho chao đảo, rồi đến năm 1973 bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính quân sự được Hoa Kỳ ủng hộ mạnh mẽ, nếu không nói là tổ chức. Chính quyền mới mang đầy đủ đặc trưng của các chế độ quân sự những năm 1970: xử tử, tàn sát, tra tấn (chính thức và bán chính thức) tù nhân một cách có hệ thống, đông đảo những người đối lập chính phải lưu vong ở nước ngoài. Tướng Augusto Pinochet, người chỉ huy quân đội, nắm mọi quyền bính trong 17 năm trời, áp đặt đường lối kinh tế liberal cực đoan, điều này chứng tỏ một điều là chủ nghĩa tự do chính trị và nền dân chủ không phải là những đối tác tự nhiên của chủ nghĩa liberal (“tự do”) về kinh tế.

Tại Bolivia, việc quân nhân lật đổ chính quyền cách mạng sau 1964 có lẽ liên quan tới việc Hoa Kỳ sợ ảnh hưởng của Cuba lan tràn sang đây, là nơi mà Che Guevara đã tử trận trong một cuộc nhen nhúm nổi dậy thiếu chuẩn bị; nhưng Bolivia không phải là một nước chịu mãi được quyền bính của một quân nhân bản địa, dù hung bạo đến đâu. Chế độ quân sự đã chấm dứt sau 15 năm, trong thời gian đó, những tướng lĩnh đua nhau người nọ lật người kia, tất cả đều chạy theo đồng tiền do buôn bán ma túy mang lại. Tại Uruguay, viện cớ “du kích thành thị” (một phong trào rất khôn ngoan và hiệu quả), quân đội tha hồ chém giết và tra tấn, cuối cùng một mặt trận nhân dân phái tả rộng rãi đã nổi lên, bất chấp chế độ lưỡng đảng cố hữu, điều này có lẽ là nguyên nhân dẫn tới cuộc đảo chính quân sự năm 1972, tại đất nước duy nhất ở Nam Mỹ có thể đươc coi là một chính thể dân chủ đích thực và lâu bền. Song người dân Uruguay đủ gắn bó với truyền thống dân chủ, không chấp nhận một bản hiến pháp bị giới quân nhân “khóa còng số 8” và đưa ra trưng cầu dân ý. Năm 1985, Uruguay trở lại chế độ dân sự.

Herbert Marcuse (1898-1979)

Mặc dầu đã có kết quả hay cơ may thành công ngoạn mục ở châu Mỹ Latin, châu Á hay châu Phi, con đường tiến hành du kích để tạo ra cách mạng là điều vô nghĩa tại các nước phát triển. Song cũng không ngạc nhiên là du kích nông thôn hay thành thị ở Thế giới thứ Ba đã gợi hứng cho một số ngày càng đông những thanh niên cách mạng hay phản kháng ở Thế giới thứ Nhất. Những nhà báo chuyên về nhạc rock đã so sánh tuổi trẻ tham gia liên hoan Woodstock (1969) với một “đạo quân du kích hòa bình” (Chapple và Garofalo, 1977, tr. 144). Ở Paris hay Tokyo, sinh viên đi biểu tình lấy hình ảnh Che Guevara làm thần tượng: bộ râu quai nón, cái mũ nồi rất nam nhi chí khí của Che đã làm rung động cả những trái tim phi chính trị của phong trào “phản – văn hóa”. Nếu không kể tên tuổi của Herbert Marcuse, thì không có tên ai được quy dẫn nhiều như Guevara trong cuốn toàn cảnh (thông tin phong phú) về “Phái tả mới” trên thế giới năm 1968 (Katsiaficas, 1987), dù cho người biểu tình hô vang tên tuổi chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều hơn (“Hô Hô Hô Chi Minh”). Ủng hộ các cuộc chiến tranh du kích ở Thế giới thứ Ba, và sau từ năm 1965, việc thanh niên Mỹ không chịu bị gửi đi chống du kích, đó là hai nhân tố quan trọng nhất đã huy động phái tả, nếu không kể việc chống lại vũ khí hạt nhân. Những kẻ đầy đọa trên trần gian [Les Damnés de la Terre], tác phẩm của Franz Fanon, nhà tâm lý học ở đảo Antilles, tham gia kháng chiến Algeria, đã gây tiếng vang lớn trong giới trí thức dấn thân. Họ xúc động khi đọc những trang sách của Fanon ca ngợi bạo lực như một hình thái giải phóng tinh thần cho người bị áp bức.

Tóm lại, hình ảnh những du kích quân da màu giữa cỏ cây nhiệt đới là một nhân tố cốt yếu, nếu không nói là nguồn cảm hứng chủ yếu, của xu hướng triệt để hóa tại các nước Thế giới thứ Nhất trong thập niên 1960. “Chủ nghĩa Thế giới thứ Ba”, theo đó con đường khai phóng nhân loại phải kinh qua cuộc đấu tranh giải phóng “khu vực ngoại vi” nông thôn, nghèo khó, bị bóc lột và chịu kiếp lệ thuộc vào “trung tâm” (mà sách vở ngày càng có xu hướng gọi là “hệ thống thế giới”), đã quyến rũ khá nhiều nhà lí luận ở Thế giới thứ Nhất. Nếu đúng như các nhà lí luận về “hệ thống thế giới” hàm ý, nghĩa là nếu các vấn đề của thế giới bắt nguồn từ việc thực dân châu Âu thế kỉ XVI đi chinh phục Thế giới thứ Ba, chứ không phải từ sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản công nghiệp hiện đại, thì sự đảo ngược quá trình lịch sử ở thế kỉ XX mang lại cho các nhà cách mạng tay không ở Thế giới thứ Nhất một công cụ tuyệt kĩ để họ thoát ra khỏi tình trạng bất lực của mình. Không có gì ngạc nhiên nếu những luận điểm hùng hồn nhất theo chiều hướng ấy lại đến từ những người mác-xít Hoa Kỳ, là những người không thể kì vọng vào những lực lượng nội tại ở Hoa Kỳ để đi tới thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.

 

III

 

Tại những nước phồn thịnh của thế giới tư bản công nghiệp, không ai còn tin vào triển vọng kinh điển một cuộc cách mạng xã hội bằng nổi dậy và hành động quần chúng. Vậy mà, ở đỉnh điểm của sự phồn vinh của phương Tây, ở ngay trung tâm của xã hội tư bản chủ nghĩa, một cách bất ngờ và thoạt trông, không sao giải thích được, những chính quyền bỗng nhiên phải đương đầu với một cái gì hao hao như một cuộc cách mạng kiểu cũ. Đồng thời, họ cũng phát hiện ra chỗ yếu của những chính thể tưởng như vững chắc. Năm 1968-1969, làn sóng nổi dậy đã tràn qua cả ba thế giới, ít nhất một bộ phận không nhỏ của ba thế giới; mũi tiến công chủ yếu là lực lượng xã hội mới của sinh viên, mà số lượng lên tới hàng trăm nghìn, chẳng mấy lúc sẽ lên hàng triệu, ở những nước tư bản kích thước trung bình (xem ch. 10). Thêm vào đó là ba nhân tố làm tăng cường hiệu quả chính trị của những cuộc nổi dậy này: động viên sinh viên trong những “nhà máy của tri thức” khổng lồ, lại có nhiều thời gian tự do, dễ hơn là huy động công nhân trong những nhà máy lớn; nói chung, sinh viên ở ngay thủ đô, nghĩa là trong tầm nhìn của giới chức chính trị và trong tầm nhắm của ống kính media. Cuối cùng, sinh viên xuất thân từ các thành phần có học – thường là con cháu các giới trung lưu có vị trí, và hầu như ở mọi nơi, nhất là ở Thế giới thứ Ba, họ là nguồn dự trữ cung cấp thành phần ưu tú lãnh đạo – cho nên nổ súng bắn vào sinh viên khó hơn là nã đạn vào những giai cấp thấp hơn. Ở châu Âu, phía tây cũng như phía đông, số nạn nhân trầm trọng không nhiều, ngay cả Paris hồi tháng năm 1968 là nơi đã bùng nổ những cuộc nổi loạn và giao chiến trên đường phố. Nhà cầm quyền rất thận trọng, tránh tạo ra những người “tử vì đạo”. Và sau cuộc thảm sát năm 1968 ở Mexico – con số chính thức là 28 người chết, 200 người bị thương khi quân đội giải tán một cuộc mít tinh công cộng (González Casanova, 1975, tập II, tr. 564) – cuộc sống chính trị của đất nước Mexico đã thay đổi hẳn.

Charles de Gaulle (1890-1970)

Hiệu quả các cuộc nổi dậy của sinh viên như vậy đã vượt xa quy mô của chúng, nhất là ở những nước như Pháp năm 1968 và ở Italia “mùa thu nóng bỏng”, là nơi chúng đã làm bùng nổ những đợt đình công to lớn của công nhân, khiến cho guồng máy kinh tế tạm thời bị tê liệt. Song đó không thực sự là những cuộc cách mạng, và khó có khả năng trở thành cách mạng. Đối với công nhân, khi họ tham gia, thì rốt cuộc chỉ là để phát hiện ra khả năng thương lượng mà họ đã tích lũy được trong suốt 20 năm mà trước đó họ không ý thức. Nhưng họ không muốn làm cách mạng. Còn sinh viên các nước Thế giới thứ Nhất, thì ít khi nào họ quan tâm tới những chuyện vớ vẩn như lật đổ chính phủ hay giành chính quyền, tuy rằng năm 1968 ở Pháp, sém nữa thì tướng De Gaulle bị lật nhào (rốt cuộc một năm sau đó, De Gaulle phải rút khỏi chính quyền); cũng năm ấy, phong trào phản chiến của sinh viên Mỹ khiến cho Johnson không dám ra tranh cử tổng thống lần thứ hai (Tại Thế giới thứ Ba, sinh viên tiến gần tới thực tại quyền lực, còn sinh viên ở Thế giới thứ Hai cố nhiên là lùi ra xa hơn). Ở Tây Âu, cuộc nổi loạn của sinh viên đúng ra là một cuộc cách mạng văn hóa, gạt bỏ tất cả những gì biểu trưng cho những giá trị “tư sản” của cha chú (xem ch. 10ch. 11).

Dầu sao thì phong trào này cũng đã góp phần gây ý thức chính trị cho khá nhiều sinh viên của thế hệ nổi loạn này. Và, một cách rất tự nhiên, họ đã hướng về những người được coi là chủ trương cách mạng triệt để và cải tạo xã hội toàn diện: Marx, những thần tượng “phi Stalin” của Cách mạng tháng Mười và Mao. Kể từ thời kì đấu tranh chống chủ nghĩa phát-xít, đây là lần đầu tiên đông đảo trí thức phương Tây trẻ tuổi tìm thấy sự hấp dẫn trong chủ nghĩa Marx không còn bị thu hẹp vào những giáo điều chính thống của Moskva. (Tất nhiên, ở Thế giới thứ Ba, chủ nghĩa Marx vẫn liên tục hấp dẫn). Đây là một thứ học thuyết Marx đặc biệt, đối tượng của những seminar, liên kết với đủ thứ học thuật thời thượng khác, đôi khi còn đi với những hệ tư tưởng dân tộc chủ nghĩa hay tôn giáo, bởi vì đó là chủ nghĩa Marx từ lớp học mà ra, chứ không xuất phát từ nghiệm sinh cụ thể của giai cấp công nhân. Thực ra nó cũng chẳng ăn nhằm gì tới ứng xử chính trị cụ thể của những môn đồ mác-xít mới, vì họ thường kêu gọi hoạt động đấu tranh một cách triệt để mà bất cần phân tích tình hình. Một khi những hi vọng không tưởng ban đầu của cuộc nổi dậy đã tan biến, thì nhiều người trong họ quay trở về, hay đúng hơn, đi tới những tổ chức chính trị cũ của phái tả, như Đảng Xã hội mới ở Pháp hay ĐCS Italia, nhờ đó các đảng này được tiếp sức bằng máu mới. Bởi phong trào này chủ yếu là trí thức, nên khá nhiều đảng viên mới này thuộc giới đại học. Ở Hoa Kỳ, phong trào này tập hợp một đội ngũ chưa từng thấy gồm những phần tử chính trị - văn hóa “triệt để”. Một số khác tự coi mình là những nhà cách mạng theo truyền thống Cách mạng tháng Mười, gia nhập hoặc thành lập những tổ chức nhỏ, làm “tiền phong” theo kiểu Lenin, rất ưa hoạt động bí mật – hoặc để thâm nhập những đoàn thể quần chúng, hoặc để tiến hành những hoạt động khủng bố. Trên điểm này, có sự gặp gỡ giữa phương Tây và Thế giới thứ Ba, tại đây cũng có vô số những tổ chức chiến đấu bất hợp pháp, mong mỏi dùng bạo lực của những nhóm nhỏ để bù đắp thất bại của phong trào quần chúng. Ở châu Âu trong những năm 1970, tổ chức “Bolshevik” quan trọng nhất có lẽ là các “Lữ đoàn Đỏ” tại Italia. Thế là thành hình một thế giới âm mưu bí mật, nối kết những nhóm hành động trực tiếp, với hệ tư tưởng dân tộc chủ nghĩa hay xã hội – cách mạng (thậm chí cả hai) tạo thành một mng lưới quốc tế gồm nhiều tổ chức (thường là rất nhỏ) – “Hồng quân”, người Palestine, người Basque, IRA, v.v. – giao thoa với những mạng lưới bất hợp pháp khác, trong đó những cơ quan mật vụ đã cài sẵn người, được sự bảo hộ, và nếu cần, sự hỗ trợ của những nước Arab hay những nước Đông Âu.

Đúng là một môi trường lí tưởng cho các nhà văn viết tiểu thuyết điệp viên và giật gân mà thập niên 1970 là thời kì hoàng kim. Đó cũng là thời đại đen tối nhất lịch sử phương Tây với những tra tấn và phản khủng bố, bắt cóc và đội sát nhân dùng ô tô mang biển số thường dân để thủ tiêu các nạn nhân. Trên nguyên tắc, không thể biết những đội ám sát ấy là ai, nhưng mọi người đều hiểu đó là những đơn vị đặc biệt của quân đội, công an, mật vụ và cơ quan tình báo, hầu như đã trở thành độc lập đối với chính quyền, và trong cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” cực kỳ ghê tởm ấy, chúng đã vuột ra khỏi mọi sự kiểm soát dân chủ. Hiện tượng này xảy ra ở ngay một nước có truyền thống lâu đời và mạnh mẽ về thượng tôn pháp luật và phương thức hợp hiến như Vương quốc Anh. Tại đây, trong những năm mới nổ ra cuộc xung đột ở miền Ulster, đã diễn ra những sự lạm hành nghiêm trọng như được chỉ rõ trong báo cáo của Amnesty International về nạn tra tấn (1975). Tình hình xấu nhất có lẽ là ở châu Mỹ Latin. Và mặc dầu ít ai để ý, các nước XHCN gần như không bị sa vào cái mốt quái dị này. Phải nói là tại các nước XHCN, thời đại khủng bố đã thuộc về quá vãng, và họ không có những nhóm khủng bố tại quốc nội – có chăng là những nhóm li khai nhỏ bé, nhận thức rõ là, trong hoàn cảnh đặc thù của mình, ngòi bút mạnh hơn lưỡi gươm, hay chính xác hơn, cái máy chữ (thêm vào đó là sự phản đối của công luận phương Tây) hiệu quả hơn bom.

Cuộc cách mạng sinh viên cuối thập niên 1960 là chấn động cuối cùng của cách mạng thế giới theo kiểu cũ. Phong trào này có tính chất cách mạng theo hai ý nghĩa: ý nghĩa cũ, có tính chất không tưởng, là tìm cách lật đổ vĩnh viễn các giá trị, và đi tìm một xã hội mới, toàn bích; và ý nghĩa thao tác, dùng đấu tranh đường phố, dựng chiến lũy, ám sát và phục kích. Nó còn có tính chất toàn cầu, không phải chỉ vì hệ tư tưởng của truyền thống cách mạng từ 1789 đến 1917 có tính chất phổ quát và quốc tế – ngay như một phong trào thuần túy dân tộc chủ nghĩa như phong trào li khai vùng Basque (ETA), một sản phẩm tiêu biểu của thập niên 1960, trong chừng mực nào đó, cũng nhận là theo chủ nghĩa Marx – mà còn vì, lần đầu tiên trong lịch sử, thế giới mà các nhà tư tưởng của phong trào sinh viên sống trong đó (hay đúng hơn, bộ phận thế giới mà họ sống trong đó) thực sự có tính chất toàn cầu. Từng ấy cuốn sách (trong đó tất nhiên phải kể sách của Herbert Marcuse năm 1968) xuất hiện hầu như cùng một lúc tại các nhà sách sinh viên ở Buenos Aires, Roma và Hamburg. Từng ấy “du khách cách mạng” đã vượt trùng dương, đi xuyên suốt những châu lục: từ Paris đến La Habana, từ São Paulo đến Bolivia. Là thế hệ đầu tiên quen thuộc với vận chuyển bằng máy bay và sử dụng phương tiện viễn thông, sinh viên cuối thập niên 1960 ý thức dễ dàng rằng tất cả những gì đang diễn ra ở Sorbonne, Berkeley hay Praha, đều là một sự kiện, sự kiện duy nhất, đang diễn ra ở ngôi làng duy nhất mà mọi người chúng ta đang sống: ngôi làng thế giới, nói như “đại sư” người Canada, Marshall McLuhan (một trong những tên tuổi thời thượng của thập niên 1960).

Raymond Aron (1905-1983)

Song đó không phải là cuộc cách mạng thế giới như thế hệ 1917 quan niệm, mà là sự mơ ước một cái gì không còn tồn tại nữa: cứ như là, nhờ một chiếc đũa thần, những chiến lũy bỗng sừng sững hiện ra, đơn giản là vì người ta hành xử như là có chiến lũy thật vậy. Là một nhà quan sát bảo thủ sáng suốt, Raymond Aron không hoàn toàn vô lí khi ông gọi “sự kiện tháng năm 1968” ở Paris là diễn tuồng ngoài đường phố hay là một loại “psychodrame” (trị liệu tâm thần bằng diễn kịch).

Ở thế giới phương Tây, chẳng còn ai đặt hi vọng vào một cuộc cách mạng xã hội. Phần đông các nhà cách mạng chẳng còn coi giai cấp vô sản – mà Marx gọi là người “đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản” – là một giai cấp về cơ bản có tính chất cách mạng, trừ phi họ muốn kiên trì quan điểm chính thống. Tại Tây bán cầu, dù ở phái cực tả châu Mỹ Latin, rất dấn thân về mặt lí luận, hay trong giới sinh viên nổi loạn và “phi lí luận” Bắc Mỹ, giai cấp “vô sản” cũ còn bị gạt bỏ vì bị coi là thù nghịch với đường lối cách mạng triệt để, bị quy là thành phần “quý tộc” của giai cấp công nhân, là bọn “ái quốc” ủng hộ chiến tranh ở Việt Nam. Tiền đồ của cách mạng từ nay nằm tại hậu phương nông thôn của Thế giới thứ Ba (khốn nỗi ngày càng vắng dân), nhưng bản thân việc phải cần có những tông đồ cầm súng, dưới sự chỉ đạo của Castro hay Guevara, mới lôi kéo được nông dân bứt ra khỏi tình trạng bị động, cũng chừng nào giảm bớt niềm tin cố hữu vào tất yếu lịch sử là những “ai cùng khổ bần hàn” sẽ tự động vùng lên đập tan gông cùm xiềng xích, như lời Quốc tế ca.

Thêm nữa, giả sử như cách mạng đã trở thành hiện thực, hay có khả năng bùng nổ, liệu nó có thực sự là toàn cầu không? Những phong trào mà trong những năm 1960 người cách mạng đặt bao hi vọng vào đó đều không hề có chút nào có tính chất “thế giới”. Những người Việt Nam, những người Palestine, cũng như các phong trào du kích khác, đấu tranh chống lại sự thống trị của thực dân, chỉ quan tâm đến công việc quốc gia của họ. Họ chỉ quan hệ với thế giới bên ngoài khi có sự lãnh đạo của những người cộng sản, là những người có quan tâm rộng lớn hơn, hay trong chừng mực là cấu trúc lưỡng cực của hệ thống Chiến tranh Lạnh trên toàn thế giới đương nhiên khiến cho bạn của thù là thù. Trường hợp cộng sản Trung Quốc càng chứng tỏ rằng quan niệm “cách mạng toàn cầu” xưa kia đã hết thời: ngoài miệng thì nói cách mạng thế giới, nhưng Bắc Kinh không ngừng theo đuổi một đường lối quốc gia vị kỉ, dẫn tới việc đứng về phía Hoa Kỳ để chống đối Liên Xô trong những năm 1970 và 1980, thậm chí còn gây chiến với Liên Xô và Việt Nam. Cao vọng cách mạng vượt ra khỏi biên giới quốc gia chỉ còn tồn tại dưới dạng giảm thiểu của những phong trào khu vực: liên Phi, liên Arab, liên Mỹ Latin. Các phong trào này có thực, ít nhất đối với những trí thức dấn thân, nói cùng một thứ tiếng (Tây Ban Nha, Arab), sống lưu vong hay là người tổ chức nổi dậy, họ có thể đi lại tự do từ nước này sang nước khác. Một số người trong đó (thí dụ như những người Cuba), có thể nói là họ có quan tâm toàn cầu. Gì thì gì, Che Guevara đã từng chiến đấu ở Congo và, trong thập niên 1970, Castro cũng đã gửi quân sang giúp chính quyền cách mạng ở vùng Sừng Châu Phi và ở Angola. Nhưng, không kể hàng ngũ phái tả châu Mỹ Latin, liệu có được mấy ai thực sự tin tưởng vào triển vọng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội liên Phi hay liên Arab? Sự đổ vỡ của nước Cộng hòa Arab Thống nhất yểu mệnh, hợp nhất Ai Cập và Syria (1958-1961) có thêm sự liên kết lỏng lẻo của Yemen, sự bất hòa liên tục giữa chính quyền Syria và chính quyền Irak (cầm quyền ở cả hai nước là đảng BAAS XHCN và chủ trương liên Arab) chẳng phải bằng chứng cách mạng siêu quốc gia là cái gì rất dễ vỡ, thậm chí phi hiện thực về mặt chính trị đó sao?

Chứng cớ hiển nhiên nhất về sự tàn lụi của cách mạng thế giới là sự sụp đổ của phong trào quốc tế lấy cách mạng toàn cầu làm mục tiêu. Sau 1956, Liên Xô và phong trào mà nó lãnh đạo đã mất đi độc quyền hấp dẫn cách mạng, mất luôn cả lí luận và hệ tư tưởng tạo nên sự thống nhất của phong trào. Từ đó trở đi, những người mác-xít và mác-xít lê-nin-nít cũng chia ra làm nhiều loại, đó là không kể hai ba biến tướng ở vài ba nước cộng sản vẫn còn để nguyên chân dung Stalin trên lá cờ: Trung Quốc, Albania và ĐCS mác-xít đã li khai khỏi ĐCS Ấn Độ chính thống.

Những gì còn lại của phong trào cộng sản quốc tế lấy Moskva làm trung tâm đã tan rã trong thời gian từ 1956 đến 1968: năm 1958-1960, Trung Quốc đoạn tuyệt với Liên Xô và kêu gọi li khai với các quốc gia thuộc khối Soviet, thành lập những đảng Cộng sản đối địch, nhưng không mấy thành công. Đồng thời, những đảng Cộng sản (chủ yếu ở phương Tây), noi gương ĐCS Italia, bắt đầu giữ khoảng cách với Moskva một cách công khai. Còn “phe XHCN” ra đời năm 1947 tự nó đã tan vỡ thành những quốc gia với những mức độ trung thành khác nhau đối với Liên Xô: từ Bulgaria[145], trung thành vô điều kiện, đến Nam Tư hoàn toàn độc lập. Năm 1968, việc quân đội Liên Xô xâm nhập Tiệp Khắc với ý đồ thay thế hình thái đường lối cộng sản bằng một hình thái khác đã đóng chiếc đinh cuối cùng lên quan tài của “chủ nghĩa quốc tế vô sản”. Từ đó, ngay đối với những đảng Cộng sản tập khuôn theo Moskva, việc công khai phê phán Liên Xô và chọn một đường lối khác biệt (“chủ nghĩa cộng sản châu Âu”) trở thành một điều bình thường. Sự cáo chung của phong trào cộng sản quốc tế cũng đánh lên hồi chuông báo tử cho mọi thứ “chủ nghĩa quốc tế” XHCN hay cách mạng, bởi vì các lực lượng ki khai và chống Moskva đã tỏ ra bất lực trong việc thành lập những tổ chức quốc tế hiệu quả, mà chỉ bày ra được những thứ hiệp hội bè phái. Tổ chức duy nhất còn một chút hơi hớm truyền thống khai phóng toàn cầu là Quốc tế XHCN cũ: Đệ Nhị Quốc tế được phục hồi năm 1951, đại diện cho những đảng Xã hội đang cầm quyền hay không, chủ yếu ở các nước phương Tây, đã công khai từ bỏ chủ trương làm cách mạng (dù là cách mạng thế giới hay không), và phần đông không còn tán thành các ý tưởng của Marx.

 

IV

 

Truyền thống cách mạng xã hội, theo mô hình tháng Mười 1917, thậm chí mô hình của phái Jacobin 1789 theo một số người, đã kiệt quệ, nhưng vẫn tồn tại tình trạng bất ổn chính trị và xã hội dẫn tới cách mạng. Ngọn núi lửa vẫn hoạt động. Sang đầu thập niên 1970, Thời đại Hoàng kim của chủ nghĩa tư bản tới hồi kết thúc, một làn sóng cách mạng đã tràn qua nhiều vùng trên thế giới, tiếp theo đó, sang thập niên 1980, là cuộc khủng hoảng các hệ thống cộng sản phương Tây, dẫn tới sự sụp đổ năm 1989.

Mặc dầu chỉ tập trung chủ yếu ở Thế giới thứ Ba, các cuộc cách mạng những năm 1970 tạo thành một tổng thể đa tạp về mặt địa lí cũng như chính trị. Điều khá kì khôi là chúng lại khởi đầu ở châu Âu vào tháng tư 1974 với sự lật đổ chế độ phái hữu lâu năm nhất của châu lục ở Bồ Đào Nha, và ít lâu sau, là sự sụp đổ của chế độ độc tài quân sự cực hữu yểu mệnh hơn nhiều ở Hi Lạp (xem ch. 12. II). Sau cái chết chờ đợi từ lâu của Franco năm 1975, quá trình chuyển tiếp hòa bình ở Tây Ban Nha, từ một chế độ cực quyền sang một chính quyền đại nghị, đã hoàn tất cuộc phục hồi dân chủ hợp hiến ở Nam Âu. Cũng có thể nói rằng chuyển biến này đã thanh lí thời kì phát-xít châu Âu và kết thúc Thế chiến thứ Hai.

Amilcar Cabral (1924-1973)

Cuộc đảo chính cách mạng của các sĩ quan Bồ Đào Nha đã chín muồi trong các cuộc chiến tranh kéo dài và nhức nhối chống lại du kích quân giải phóng chống thực dân mà quân đội Bồ Đào Nha đã tiến hành ở châu Phi từ đầu thập niên 1960. Quân đội Bồ Đào Nha tiến hành chiến tranh mà không gặp khó khăn to lớn nào, ngoại trừ ở đất thuộc địa nhỏ bé Guinea Bissao. Tại đây, vào cuối thập niên 1960, nó phải bó tay trước Amilcar Cabral, có lẽ là lãnh tụ tài ba nhất trong các phong trào giải phóng ở châu Phi. Các cuộc chiến tranh du kích đã nhân lên khắp lục địa châu Phi trong những năm 1960, sau khi nổ ra cuộc xung đột ở Congo và chính sách cứng rắn của chế độ Nam Phi (thành lập những ghetto homeland của người da đen, cuộc tàn sát Sharpeville); nhưng không mang lại kết quả nào đáng kể và bị sa lầy trong những cuộc giao tranh liên bộ lạc và sự kình chống Xô - Trung. Với sự viện trợ ngày càng tăng của Liên Xô – Trung Quốc đang chìm ngập trong cơn bão tố kì dị “Cách mạng văn hóa” của Mao Trạch Đông – các cuộc chiến tranh du kích ấy đã bừng dậy vào đầu thập niên 1970, nhưng chính nhờ cuộc cách mạng Bồ Đào Nha mà các nước thuộc địa đã giành được độc lập vào năm 1975. Nhưng chẳng bao lâu, Monzambique và Angola lâm vào cuộc nội chiến khốc liệt, một lần nữa do sự can thiệp kết hợp của Hoa Kỳ và Nam Phi.

Tuy nhiên, giữa lúc Đế chế Bồ Đào Nha tan rã, thì cách mạng nổ ra ở Ethiopia, quốc gia độc lập lâu đời nhất của châu Phi: hoàng đế bị truất phế (1974) và cuối cùng, được thay thế bằng một một tập đoàn quân nhân khuynh tả, ngả về phía Liên Xô. Thế là Liên Xô không đoái hoài gì tới chính quyền độc tài ở Somalia của Siad Barre (1969-1991) mặc dầu chính quyền này cũng hăng hái giương cao ngọn cờ của Marx và Lenin. Nhưng chính quyền mới ở Ethiopia gặp sự phản đối, cuối cùng bị lật đổ (1991) bởi những phong trào giải phóng ở các địa phương hay lực lượng li khai cũng mệnh danh mác-xít.

Với những biến chuyển này, thành hình cả một cái “mốt” những chế độ gọi là XHCN, ít nhất trên giấy tờ. Dahomey không thay đổi quốc trưởng (quân nhân) nhưng đổi tên là Cộng hòa nhân dân Bénin. Đảo Madagascar (Malagasy), sau một cuộc đảo chính quân sự cổ điển, năm 1975 cũng thành lập chế độ XHCN. Nước Congo (xin đừng lẫn lộn với nước láng giềng rộng lớn, Congo thuộc Bỉ, dưới chế độ quân phiệt thân Mỹ hết sức tham tàn của Mobutu, đã trở thành nước Zaïre) cũng trưng quốc hiệu Cộng hòa Nhân dân, vẫn do quân nhân cầm quyền; và ở Nam Rhodesia (Zimbabwe), 11 năm ra sức xây dựng một nhà nước độc lập do người da trắng cầm đầu cũng đã phải chấm dứt vào năm 1976 dưới sức ép ngày càng mạnh của hai phong trào du kích chia cách nhau vì khác biệt bộ lạc và hậu thuẫn (một bên ngả về Liên Xô, bên kia Trung Quốc). Năm 1980, Zimbabwe trở nên độc lập, dưới sự cầm quyền của một lãnh tụ du kích.

Trên giấy tờ, tất cả các phong trào nói trên đều là hậu duệ của cách mạng 1917. Trên thực tế, đó là một chủng loại khác. Tất nhiên phải thế bởi vì các xã hội thuộc địa châu Phi Hạ Sahara khác hẳn những xã hội mà Marx và Lenin phân tích. Quốc gia châu Phi duy nhất hội đủ một vài điều kiện để áp dụng học thuyết của Marx và Lenin là Nam Phi, với chế độ tư bản chủ nghĩa của thực dân da trắng, kinh tế phát triển, công nghiệp hóa: một phong trào giải phóng thực sự có tính chất quần chúng, là ANC (Đại hội Dân tộc Phi) đã hình thành, vượt qua những ranh giới bộ tộc và chủng tộc, với sự hiệp đồng của một phong trào công đoàn quần chúng chân chính và một đảng Cộng sản đắc lực. Vào cuối thời kì Chiến tranh Lạnh, ANC đã buộc chính quyền apartheid phải lùi bước. Nhưng ngay ở đây, phong trào ANC có cơ sở không đồng đều trong các bộ tộc, nơi mạnh nơi yếu (như bộ tộc Zoulou), và chế độ apartheid đã lợi dụng tình thế này với một số kết quả. Còn ở tất cả các nước khác, ngoại trừ giới trí thức thành thị Tây học (tức là một thiểu số rất nhỏ), các cuộc vận động “dân tộc” hay phong trào gì khác thực chất là dựa trên cơ sở thần phục bộ tộc hay liên minh bộ tộc, do đó các thế lực đế quốc cũng có khả năng huy động một số bộ tộc để chống phá chính quyền mới. Điều này đã diễn ra ở Angola. Tại đây, chủ nghĩa Marx-Lenin chỉ có một lợi ích là nhờ đó tạo ra được những chính đảng có cán bộ kỉ luật và thành lập được những chính phủ cực quyền.

Việc Hoa Kỳ phải triệt thoái khỏi Đông Dương đã củng cố chế độ cộng sản ở đây. Từ nay, nước Việt Nam được thống nhất, dưới quyền một chính phủ cộng sản vô địch, đồng thời những chính quyền tương tự cũng đã thành lập ở Lào và Campuchia – tại Campuchia, là chính quyền “Khmer Đỏ”, hỗn hợp “chủ nghĩa mao-ít quán cà phê khu Latin Paris” của lãnh tụ Pol Pot với nông dân vũ trang ở những vùng hẻo lánh, một thứ hỗn hợp tàn bạo đã ra sức tận diệt nền văn minh thành thị “đồi trụy”. Đo lường bằng những tiêu chuẩn ghê gớm của thế kỉ XX, phải nói là chế độ Khmer Đỏ đã đạt được một thành tích kinh khủng: dường như nó đã giết chết khoảng 20% dân số, trước khi bị quân đội Việt Nam tràn sang để xây dựng một chính quyền nhân đạo năm 1978. Tiếp theo đó là một giai đoạn thê lương nhất của lịch sử ngoại giao, Trung Quốc và phe Mỹ tiếp tục ủng hộ tàn dư của chính quyền Pol Pot, nhân danh cuộc chiến đấu chống Liên Xô và Việt Nam.

Ronald Reagan (1911-2004)

Vào cuối những năm 1970, phần bọt của làn sóng cách mạng đã đập thẳng vào Hoa Kỳ: Trung Mỹ và vùng biển Caribe, khu vực cho đến nay đặt dưới sự thống trị không tranh cãi của Washington, dường như ngả về phía tả. Cũng chẳng hơn cuộc cách mạng Cuba, cuộc cách mạng Nicaragua năm 1979 (lật đổ gia đình Somoza, cột trụ của hệ thống kiểm soát các nước cộng hòa nhỏ bé trong khu vực này của Hoa Kỳ), sự lớn mạnh của phong trào du kích Salvador, hay ông tướng cồng kềnh Torrijos ở ngay sát kênh đào Panama, không làm nguy hại gì cho sự thống trị của Mỹ; và, tất nhiên, cuộc cách mạng ở hòn đảo tí hon Grenada càng không thể gây nguy hại, song năm 1983, tổng thống Reagan đã huy động một đạo quân hùng hậu. Nhưng so sánh sự thành công của các phong trào này với thất bại của họ trong những năm 1960, có một sự tương phản rõ rệt, tạo ra một cơn hoảng loạn ngắn ngủi ở thủ đô Washington dưới thời tổng thống Reagan (1980-1988). Bất luận thế nào, đó là những hiện tượng cách mạng không thể chối cãi, cho dù dưới hình thái quen thuộc của châu Mỹ Latin: cái rất mới – với phái tả truyền thống, nghĩa là chủ trương thế tục, chống giáo hội, thì đây là điều gây băn khoăn bức xúc – là sự xuất hiện của những linh mục Kitô giáo mác-xít, họ ủng hộ, tham gia, thậm chí lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa. Dựa vào “thần học giải phóng” (được sự tán thành của hội nghị giám mục năm 1968 ở Colombia), khuynh hướng này xuất hiện sau cách mạng Cuba[146], được sự ủng hộ tinh thần của môi trường không ai ngờ tới là Dòng Tên và gặp sự chống đối không mấy bất ngờ của Vatican.

Nhà sử học thì thấy rõ các cuộc cách mạng trong thập niên 1970 xa cách cách mạng 1917 tới mức nào (dù vẫn tuyên dương mối liên hệ), còn các chính quyền Hoa Kỳ đương nhiên vẫn coi đó, về cơ bản mà nói, là một bộ phận trong chiến lược toàn cầu của siêu cường cộng sản. Nguyên nhân của việc này, một phần là do suy luận từ quy luật giả định “tổng số bằng không” của Chiến tranh Lạnh: cái gì thiệt cho ta là có lợi cho địch; mà Hoa Kỳ thì gắn kết với các thế lực bảo thủ ở phần lớn Thế giới thứ Ba, nhất là trong những năm 1970, nên mặc nhiên đứng về bên thua thiệt. Thêm nữa, Washington lại nghĩ là mình có lí khi họ lo ngại về những bước tiến của Liên Xô trong vũ trang hạt nhân. Bất luận thế nào, Thời đại Hoàng kim của chủ nghĩa tư bản toàn cầu, và vai trò trung tâm của đồng Đô la trong đó, đã bước vào thời kì cáo chung. Thêm vào đó, nước Mỹ siêu cường sau thất bại toàn thế giới được biết ở Việt Nam (1975) – cường quốc quân sự số một trên thế giới rốt cuộc đã phải rút đi – tất nhiên đã suy yếu đi. Từ khi David chọi đá với người khổng lồ Goliath, chưa bao giờ người ta chứng kiến một thảm bại như vậy. Có đi quá xa không nếu ta tưởng tượng – nhất là dưới ánh sáng của chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 – rằng một nước Hoa Kỳ tự tin hơn sẽ không dễ dàng chấp nhận “cú chơi ngang” của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu (OPEC) năm 1973 như thế? Xét cho cùng, OPEC chẳng qua chỉ là một nhóm quốc gia (Arab là chủ yếu), không có sức mạnh chính trị nào quan trọng ngoài khối lượng dầu mỏ, và lúc đó chưa trang bị vũ khí đến tận răng như sau đó họ sẽ làm nhờ tăng vọt giá bán dầu thô.

Điều không tránh được là Hoa Kỳ coi sự suy yếu ưu thế toàn cầu của mình là một thách thức, và một dấu hiệu của Liên Xô trong tham vọng thống trị thế giới. Cho nên, các cuộc cách mạng trong thập niên 1970 đã dẫn tới cái gọi là “cuộc Chiến tranh Lạnh thứ hai” (Halliday, 1983) mà hai bên tiến hành một cách gián tiếp, bằng “ủy nhiệm”: ở châu Phi, rồi ở Afghanistan, là nơi mà, lần đầu tiên từ Thế chiến thứ Hai, quân đội Liên Xô tham chiến ở nước ngoài. Tuy nhiên, người ta không thể bác bỏ khẳng định theo đó Liên Xô cảm nhận rằng các cuộc cách mạng mới cho phép mình xê dịch chút ít cán cân quân bình thế giới theo chiều hướng có lợi cho mình, hay chính xác hơn, bù trừ lại ít nhất một phần nào những thất bại lớn về ngoại giao của Liên Xô trong thập niên 1970, cụ thể là những thất bại ở Ai Cập và Trung Quốc, là những nước mà Washington đã đảo ngược được chính sách liên minh. Không đụng tới Hoa Kỳ, nhưng Liên Xô can thiệp ở nơi khác, nhất là ở châu Phi. Tại châu lục này, Moskva đã can thiệp nhiều hơn hẳn so với thời kì trước và đã thành công ở một mức nhất định. Chỉ riêng một việc là họ đã để cho (hay khuyến khích) Fidel Castro đưa quân đội sang giúp Ethiopia chống Somalia – chư hầu mới của Hoa Kỳ (1977) – Angola chống UNITA – phong trào nổi dậy với sự ủng hộ của Hoa Kỳ và quân đội Nam Phi – cũng rất có ý nghĩa. Trong các thông cáo chính thức, Liên Xô nói tới những nước mà từ nay họ gọi là “Nhà nước định hướng XHCN”, bên cạnh những chế độ cộng sản quen thuộc. Dưới danh nghĩa mới này, Angola, Mozambique, Nicaragua, Nam Yemen và Afghanistan đã tham dự lễ tang Brejnev năm 1982. Liên Xô không hề tạo ra và kiểm soát các cuộc cách mạng ấy, nhưng rõ ràng đã nhanh lẹ chào mừng.

Tuy nhiên, thất bại dồn dập tiếp theo đó của các chế độ mới cho thấy là người ta không thể đổ trách nhiệm cho Liên Xô đã gây ra những cuộc đảo lộn, không thể quy cho “tham vọng cộng sản” hay “âm mưu cộng sản thế giới”, vì một lí do đơn giản: từ năm 1980, chính hệ thống Soviet bắt đầu ở vào tình trạng bất ổn, và đến cuối thập kỉ thì bị tan rã. Ở một chương sau, sẽ nói tới sự sụp đổ của “chủ nghĩa xã hội hiện tồn” và sẽ xem trong chừng mực nào, có thể coi đó là những cuộc “cách mạng”. Song, cho dù cuộc cách mạng lớn, nổ ra trước khi Đông Âu lâm vào khủng hoảng, đã giáng vào Hoa Kỳ một đòn đau đớn hơn mọi cuộc đảo chính của thập niên 1970, cuộc cách mạng đó không liên quan gì tới Chiến tranh Lạnh.

Thật vậy, cuộc lật đổ vua Shah ở Iran năm 1979 là cuộc cách mạng lớn nhất trong thập niên 1970 và sẽ đi vào lịch sử như một trong những cuộc đại cách mạng xã hội của thế kỉ XX. Đó là phản ứng chống lại chương trình hiện đại hóa và công nghiệp hóa tăng tốc mà quốc vương Iran đã phát động với sự viện trợ ồ ạt của Hoa Kỳ và nhờ vào tài nguyên dầu mỏ của Iran mà cuộc cách mạng 1973 của nhóm OPEC đã tăng giá cao vọt. Không kể những triệu chứng vĩ cuồng của mọi chế độ độc tài dựa trên một hệ thống công an mật vụ ghê gớm và đáng sợ, có lẽ nhà vua Shah cũng muốn biến nước mình trở thành một cường quốc lớn chế ngự Tây Á. Trong quan niệm của ông, hiện đại hóa cũng đồng nghĩa với cải cách ruộng đất: biến một số đông nông dân và tá điền thành những tiểu nông không đủ thu nhập hay những công nhân nông nghiệp không có công ăn việc làm, khiến họ phải di cư ra thành phố. Thành phố Tehran, từ dân số 1,8 triệu năm 1960, đã tăng lên 6 triệu. Kinh doanh nông nghiệp với công nghệ cao và đầu tư lớn mà chính quyền khuyến khích đã làm tăng số nhân công dư thừa nhưng không làm tăng sản xuất nông nghiệp tính theo đầu người, không những thế còn giảm đi liên tục trong hai thập niên 1960 và 1970. Đến cuối những năm 1970, Iran đã phải nhập khẩu phần lớn lương thực.

Càng ngày nhà vua càng dựa vào chính sách công nghiệp hóa với nguồn vốn lấy từ dầu hỏa, nhưng lại chạy theo chính sách bảo hộ vì nền công nghiệp Iran không thể đứng vững trước sự cạnh tranh quốc tế. Nông nghiệp suy sụp, công nghiệp thiếu hiệu quả, nhập khẩu ồ ạt (nhất là nhập khẩu vũ khí) và nổ bùng về khai thác dầu mỏ, tất cả các nhân tố ấy nuôi dưỡng lạm phát. Rất có thể mức sống của đa số người dân Iran, những người ở ngoài khu vực kinh tế hiện đại, ở ngoài lề giới doanh nhân phồn vinh thành thị, đã tụt xuống thấp trong những năm trước khi nổ ra cách mạng.

Cuộc canh tân văn hóa mạnh mẽ mà nhà vua muốn thực hiện rốt cuộc đã làm hại ông. Những nỗ lực thành thực của hoàng hậu và nhà vua nhằm cải thiện số phận của phụ nữ khó có thể hợp lòng dân trong một nước Islam: những người cộng sản Afghanistan cũng sẽ trải nghiệm điều này. Nhà vua cũng rất hăng hái cải tổ giáo dục, đẩy lui nạn mù chữ (nhưng một nửa dân số vẫn không biết đọc biết viết), kết quả là tạo ra một đội ngũ khá lớn sinh viên và trí thức cách mạng. Một điểm cuối cùng là, cuộc công nghiệp hóa đã củng cố vị trí chiến lược của giai cấp công nhân, nhất là trong ngành công nghiệp dầu mỏ.

Từ năm 1953, khi quốc vương Shah được đặt lại trên ngai vàng nhờ một cuộc đảo chính do CIA tổ chức, chống lại một phong trào nhân dân rộng lớn, ông cũng không có thêm được sự chính đáng và không xây dựng được lực lượng trung thành làm hậu thuẫn cho chế độ. Bản thân triều đại Pahlavi cũng chỉ mới bắt đầu từ năm 1925, khi người sáng lập, Rizah Shah, một binh lính của lữ đoàn Cozak, đã làm đảo chính và lên ngôi hoàng đế. Trong những năm 1960 và 1970, công an mật vụ của triều đình tiếp tục trấn áp phong trào đối lập thuộc xu hướng cộng sản và dân tộc vốn có truyền thống, và đàn áp các phong trào địa phương, sắc tộc, cũng như các nhóm du kích cực tả, mác-xít chính thống hay mác-xít pha màu Islam. Do đó, các nhóm này không làm được vai trò ngòi nổ: cuộc nổi dậy do đó chủ yếu là sự nghiệp của quần chúng đô thị – kế thừa truyền thống cách mạng trước đây, từ Paris (1789) đến Petrograd (1917). Trong khi đó, nông thôn vẫn yên ắng.

Tia chớp đã đến từ một đặc điểm riêng của sân khấu Iran: sự tồn tại của một tăng đoàn Islam có tổ chức chặt chẽ và năng nổ về chính trị, giữ một vị trí công cộng mà ở các nước khác trong thế giới Islam không có đâu bằng, kể cả ở những nước theo tông phái Shi’it. Trong quá khứ, những tu sĩ này đã cùng với thương nhân và nghệ nhân của các bazar (khu chợ), cấu thành nhân tố tích cực trong sinh đời sống chính trị Iran. Chính những tu sĩ đã huy động giới tiện dân thành phố – một nguồn người vô tận có thừa lí do để chống lại chính quyền.

Ruhollah Khomeini (1902-1989)

Lãnh tụ của họ, giáo chủ Ruhollah Khomeini, là một trưởng lão nổi trội và hận thù, đã phải sống lưu vong từ giữa thập niên 1960 vì đã dẫn đầu những cuộc biểu tình chống dự án trưng cầu dân ý về cải cách ruộng đất, chống lại công an đã đàn áp hoạt động của giáo hội ở thánh đô Qom. Từ đó trở đi, giáo chủ Khomeiny tố cáo triều đình là một lực lượng chống Islam. Từ đầu thập niên 1970, tuyên giảng một chính thể Islam toàn diện, thúc giục tăng đoàn nổi dậy chống chính quyền độc tài, thực tế là kêu gọi họ vùng lên giành chính quyền: tóm lại, ông hô hào làm một cuộc cách mạng Islam. Đây là một điều hoàn toàn mới và triệt để, đối với cả giáo đoàn shi’it vốn hoạt động mạnh mẽ về chính trị. Những tâm tư ấy được phổ biến trong các băng cassette sau những bài kinh kệ, và quần chúng lắng nghe. Năm 1978, thanh niên tu sĩ ở thánh đô chuyển sang hành động, biểu tình chống lại một cái chết mà họ nói là do công an mật vụ ám sát. Các lực lượng công quyền nổ súng. Các cuộc biểu tình tiếp theo được tổ chức để khóc thương những tín đồ tử vì đạo: cứ 40 ngày lại có biểu tình, ngày càng đông người tham gia. Đến cuối năm, số người xuống đường phản đối chính quyền đã lên tới hàng triệu. Du kích quân xuất hiện trở lại. Công nhân dầu mỏ lao vào một cuộc đình công có tác động quyết định trong khi các gian hàng chợ búa đóng cửa im ỉm. Cả nước tê liệt: quân đội không còn khả năng hoặc từ chối đàn áp cuộc nổi dậy. Ngày 16 tháng giêng 1979, vua Shah lên đường lưu vong. Cách mạng đã toàn thắng.

Cái mới của cuộc cách mạng này là ở hệ tư tưởng. Cho đến năm 1979, hầu hết các hiện tượng được thừa nhận là có tính chất cách mạng đều đi theo truyền thống, hệ tư tưởng, và, nói chung, ngôn ngữ của cách mạng phương Tây từ năm 1789; nói chính xác hơn, một biến tướng của phái tả thế tục, chủ yếu là XHCN hay cộng sản. Đúng là phái tả truyền thống có mặt và hoạt động tích cực ở Iran; nó đã đóng một vai trò không nhỏ trong cuộc lật đổ chế độ Shah, thông qua các cuộc đình công của thợ thuyền. Nhưng ngay sau đó, nó đã bị chế độ mới tiêu diệt. Cách mạng Iran là cuộc cách mạng đầu tiên được tiến hành và đi tới thành công dưới ngọn cờ của chủ nghĩa toàn thủ tôn giáo, nó đã thay thế chế độ cũ bằng một chế độ thần quyền dân túy chủ nghĩa, mà cương lĩnh không giấu giếm là quay trở lại thế kỉ VII, hay chính xác hơn: quay lại thời kỳ hậu hijra, nghĩa là thời soạn kinh Quran. Đối với những người quen thuộc với truyền thống cách mạng, điều này cũng kì quặc như thể Giáo hoàng Pio IX cầm đầu cuộc cách mạng 1848 vậy.

Như vậy không có nghĩa là các phong trào tôn giáo từ nay sẽ là linh hồn của các cuộc cách mạng, dù cho, từ thập niên 1970 trở đi, trong thế giới Islam, phong trào tôn giáo đã trở thành lực lượng chính trị quần chúng trong các giai cấp trung gian trong giới trí thức, trong khi dân số gia tăng mạnh mẽ. Dưới ảnh hưởng của cách mạng Iran, phong trào này ngày càng có xu hướng nổi dậy. Tại Syria, dưới chính quyền của đảng BAAS, những người Islam toàn thủ đã nổi loạn và đã bị đàn áp tàn bạo. Ở Arabia Saudi sùng đạo, họ đã tiến công vào khu thánh địa trong vùng đất thánh và, dưới sự lãnh đạo của một kĩ sư điện, họ đã mưu sát tổng thống Ai Cập Sadate – các sự kiện này diễn ra trong khoảng thời gian 1979-1982.[147] Thực ra không hề có một chủ thuyết cách mạng nào đã có thể thay thế truyền thống 1789/1917, cũng chẳng có một cương lĩnh nào chủ trương thay đổi thế giới, khác biệt với việc đơn thuần muốn lật đổ chính quyền tại vị.

Điều đó không có nghĩa là truyền thống cách mạng cũ đã biến mất khỏi sân khấu chính trị hay đã không còn sức lật đổ những chế độ, dù cho sự sụp đổ của chế độ cộng sản Soviet đã tiêu diệt truyền thống ấy trên một phần đất khá lớn của trái đất. Các hệ tư tưởng truyền thống vẫn còn ảnh hưởng mạnh ở châu Mỹ Latin, nơi mà phong trào nổi dậy đáng sợ của thập kỉ 1980, Con đường Sáng giương cao ngọn cờ mao-ít ở Peru. Chúng vẫn tồn tại sống động ở Ấn Độ và châu Phi. Thêm nữa, điều làm cho những người vẫn trưng ra những mô thức sáo mòn của thời Chiến tranh Lạnh phải ngạc nhiên, các đảng lãnh đạo “tiền phong” theo kiểu Soviet, sau khi Liên Xô sụp đổ, vẫn tồn tại ở các nước chậm tiến và các nước Thế giới thứ Ba. Các đảng này vẫn thắng cử trong những cuộc đầu phiếu hợp lệ ở phía nam bán đảo Balkan. Và ở Cuba, ở Nicaragua, ở Angola, ngay ở Afghanistan sau khi quân đội Liên Xô rút khỏi, họ đã chứng tỏ rằng họ không đơn giản chỉ là những “chư hầu” của Moskva. Song truyền thống cũ cũng chẳng còn sinh khí, thậm chí hầu như đã bị phá hủy từ bên trong như ở Serbia, tại đây đảng Cộng sản đã biến thành chính đảng sô-vanh của nước Đại Serbia, hay như trong phong trào Palestine, nơi các nhà lãnh đạo xuất thân từ phái tả thế tục càng ngày càng gặp sự chống đối trong khi xu hướng Islam toàn thủ ngày càng lớn mạnh.

 

V

 

Các cuộc cách mạng diễn ra vào cuối thế kỉ XX như vậy có hai đặc trưng: một mặt là sự suy nhược của truyền thống cách mạng, mặt khác là sự thức tỉnh của quần chúng. Từ 1917-1918, ta đã thấy (xem ch. 2) ít có cuộc cách mạng nào tiến hành từ cơ sở lên trên. Phần đông là sự nghiệp của những thiểu số chiến đấu, dấn thân, có tổ chức, hoặc bị áp đặt từ trên xuống, do đảo chính hay chinh phục quân sự. Điều đó không có nghĩa là, trong hoàn cảnh thuận lợi, chúng không được đông đảo nhân dân ủng hộ. Ngoài trừ trường họp cách mạng do quân đội nước ngoài mang tới, ít có trường hợp nó đủ sức giành thắng lợi. Nhưng đến cuối thế kỉ XX, ta lại thấy “quần chúng” không còn đóng vai phụ mà chiếm lĩnh mặt tiền của sân khấu. Mặt khác, hoạt động của những nhóm thiểu số (du kích thành thị, du kích nông thôn, khủng bố) tiếp tục đến mức trở thành đặc hữu tại các nước phát triển cũng như nhiều khu vực rộng lớn Nam Á và thế giới Islam. Theo thống kê của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, những vụ khủng bố quốc tế đã tăng gia gần như liên tục: từ 125 năm 1968, lên 831 năm 1987, trong khi số nạn nhân từ 251 lên tới 2.905 (UN World Social Situation, 1989, tr. 165).

Danh sách các cuộc mưu sát chính trị cứ thế kéo dài: Anwar Sadat, tổng thống Ai Cập (1981); Indira Gandhi (1984) và Rajiv Gandhi (1991) nước Ấn Độ; đó là không kể những người khác. Hoạt động của Quân đội Cộng hòa Ireland lâm thời (IRA) tại Vương quốc Anh, của tổ chức Basque (ETA) ở Tây Ban Nha là tiêu biểu cho hình thức bạo lực của những nhóm nhỏ, chỉ cần vài trăm người, thậm chí vài chục, với chất nổ và vũ khí mạnh mẽ, rẻ tiền và dễ vận chuyển, mà ngày nay mạng lưới mậu dịch quốc tế đã phát tán khắp nơi. Đó là triệu chứng của sự “dã man hóa” ngày càng tăng của cả ba thế giới, tăng phần nặng nề của bầu không khí tràn đầy bạo lực và bất an mà nhân loại sống ở các đô thị phải hít thở trong những năm cuối thiên niên kỉ. Còn chúng có đóng góp gì cho cuộc cách mạng chính trị hay không, phải nói là rất hạn chế.

Ngược lại, việc xuống đường của hàng triệu quần chúng thì rất khác – bằng chứng là cuộc cách mạng ở Iran. Hoặc ở Đông Đức 10 năm sau: những công dân của nước CHDC Đức quyết định – một quyết định không tổ chức, tự phát, nhưng có điều kiện thuận lợi là Hungary mở cửa biên giới – bỏ phiếu bằng chân, hay bằng ô tô, chạy sang Tây Đức. Số người bỏ đi trong vòng hai tháng đã lên tới 130.000 người (Umbruch, 1990, tr. 7-10) trước khi Bức tường Berlin sụp đổ. Tương tự như vậy ở Romania, tại đây, lần đầu tiên trong lịch sử, cuộc cách mạng đã được trực tiếp truyền hình; nét mặt của nhà độc tài đã nhăn nhó dị dạng trông thấy khi đám đông vốn được chính quyền đưa tới quảng trường để hoan hô bỗng la ó phản đối. Hay tại những vùng bị chiếm đóng ở Palestine, nơi mà phong trào intifada – phong trào quần chúng bất hợp tác, ra đời năm 1987 – đã chứng minh rằng ách chiếm đóng của Israel chỉ dựa trên sự đàn áp mạnh mẽ, chứ không dựa trên sự thụ động hay mặc nhiên chấp nhận. Tất nhiên, người dân ở vùng bị chiếm cho đến lúc đó vẫn không rục rịch có thể đã bị các media khích động – với những phương tiện truyền thông hiện đại như vô tuyến truyền hình và máy ghi âm băng từ, khó có thể cách li người dân ở những vùng hẻo lánh nhất với thế giới bên ngoài –, nhưng yếu tố quyết định chính là việc họ đã sẵn sàng và nhanh chóng xuống đường.

Song cũng phải nói là vai trò của quần chúng không phải là yếu tố duy nhất đã làm cho, hay có thể làm cho những chế độ này sụp đổ. Hành động của quần chúng còn có thể bị võ lực và trấn áp làm cho thất bại: năm 1989 ở Trung Quốc, cuộc tàn sát ở Thiên An Môn, Bắc Kinh, đã kết thúc cuộc huy động quần chúng vì dân chủ. (Phong trào sinh viên và thành thị này, dù to lớn đến đâu, cũng chỉ là một thiểu số người Trung Quốc; nhưng nó cũng đủ mạnh mẽ để làm chao đảo chế độ). Sự thật, vai trò của sự huy động quần chúng là chứng minh rằng chế độ đã mất đi tính chính đáng của nó. Ở Iran năm 1979 cũng như ở Petrograd năm 1917, sự mất chính nghĩa đã biểu lộ một cách cổ điển: quân đội và cảnh sát không chịu tuân lệnh nữa. Ở Đông Âu, nó làm cho các chính quyền cũ, vốn đã mất tinh thần vì Liên Xô không chịu cứu giúp, hiểu ra rằng họ đã hết thời. Đây là sự minh họa điển hình nhất của phương châm mà Lenin đã nêu ra: bỏ phiếu bằng đôi chân có thể còn hiệu quả hơn là tham gia bầu cử. Đương nhiên, gót giầy của quần chúng không làm nên cách mạng. Quần chúng không phải là những đạo quân, mà chỉ là những đám đông, hay những tập hợp thống kê những cá nhân. Muốn có hiệu lực, cần phải có những lãnh tụ, những cơ cấu chính trị hay những chiến lược. Chẳng hạn như ở Iran, đợt vận động phản đối của những phần tử đối lập với chính quyền đã động viên quần chúng, nhưng chính việc hàng triệu người ào xuống đường đã biến cuộc vận động thành một cuộc cách mạng. Tương tự như thế, những thí dụ trong quá khứ cho thấy việc quần chúng can thiệp trực tiếp bắt nguồn từ lời kêu gọi của cấp lãnh đạo: trong những năm 1920 và 1930, Đảng Quốc đại Ấn Độ kêu gọi nhân dân bất hợp tác với nhà cầm quyền Anh (xem ch. 2); năm 1945, vào “Ngày Trung thành”, những người ủng hộ tổng thống Perón đã tràn ngập Quảng trường Plaza de Mayo để đòi tự do cho thần tượng của họ đang bị giam tù. Cũng nên nói thêm, nhân tố quyết định không phải là bản thân con số người tham gia, mà là cái tình thế đã làm cho hành động của quần chúng trở nên hiệu quả.

Chúng ta vẫn chưa hiểu rõ vì sao cuộc “bỏ phiếu bằng đôi chân” vào những thập niên cuối thế kỉ XX lại có tác động chính trị quan trọng như vậy. Một trong những nguyên nhân hẳn là cái hố sâu chia cách lãnh đạo với người bị lãnh đạo ở hầu hết các nước, mặc dầu tại những nước mà công dân thường xuyên có dịp lựa chọn chính trị, hoặc có những cơ chế chính trị cho phép đo lường được dân tình, thì ít có khả năng hiện tượng ấy dẫn tới sự đoạn tuyệt hay cách mạng. Những cuộc biểu lộ sự bất chấp chính quyền của đông đảo quần chúng thường chỉ có khả năng xảy ra ở những nước mà chính quyền không còn tính chính đáng hay chưa bao giờ có tính chính đáng (như Israel ở các vùng chiếm đóng), nhất là khi chính quyền lại nhắm mắt phủ nhận hiện thực ấy[148]. Song ngay ở những nước dân chủ đại nghị lâu năm và ổn định, các cuộc biểu tình bác bỏ chính thể hay các chính đảng tại vị đã trở thành khá thường xuyên: bằng chứng là cuộc khủng hoảng chính trị 1992-1993 tại Italia, cũng như sự lớn mạnh tại nhiều nước của những lực lượng tranh cử mới mà mẫu số chung duy nhất là không chịu đồng nhất hóa với bất cứ một chính đảng cũ nào cả.

Saddam Hussein (1937-2006)

Sự thức tỉnh của quần chúng còn có một nguyên nhân khác: quá trình đô thị hóa trên toàn thế giới, đặc biệt ở các nước Thế giới thứ Ba. Trong thời đại của các cuộc cách mạng kinh điển, từ 1789 đến 1917, các chế độ cũ bị lật đổ tại các thành thị, còn các chế độ mới thường được thành lập nhờ thông qua thùng phiếu thầm lặng vùng nông thôn trong các cuộc “toàn dân đầu phiếu”. Cái mới trong giai đoạn cách mạng sau thập niên 1930 là các cuộc cách mạng diễn ra ở nông thôn, một khi thắng lợi rồi, mới áp đặt ở các thành phố. Vào cuối thế kỉ XX, ngoại trừ một vài khu vực chậm tiến, cách mạng lại bắt đầu từ thành thị, kể tại các nước Thế giới thứ Ba. Điều đó không thể khác, vì hai lí do: một là, tại tất cả các nước lớn, cư dân thành thị chiếm (hoặc coi như chiếm) đa số; hai là, thành phố, nơi đặt trụ sở chính quyền, có thể tồn tại và tự vệ chống lại sự thách thức của nông thôn nhờ các công nghệ hiện đại, chừng nào mà dân chúng còn trung thành với chính quyền. Chiến tranh Afghanistan (1979-1988) chứng tỏ rằng một chính quyền có cơ sở ở thành thị có thể trụ lại ở một nước có chiến tranh du kích cổ điển, phải đương đầu với đầy rẫy những cuộc nổi dậy ở nông thôn, được sự ủng hộ, tài trợ, trang bị bằng những vĩ khí tối tân, ngay khi chỗ dựa là quân đội nước ngoài đã rút đi rồi. Người ta rất ngạc nhiên khi thấy chính phủ của tổng thống Najibullah đã tồn tại được mấy năm sau khi quân đội Liên Xô rút khỏi Afghanistan. Rốt cuộc nó sụp đổ, thì không phải vì Kabul không còn khả năng kháng cự lại các đội quân nông thôn, mà vì một bộ phận sĩ quan nhà nghề đã quyết định trở cờ. Sau chiến tranh vùng Vịnh (1991), Saddam Hussein vẫn duy trì được quyền bính ở Irak mặc dầu sức mạnh quân sự đã suy yếu và đã nổ ra những cuộc nổi dậy lớn ở miền Bắc và miền Nam. Vào cuối thế kỉ XX, cách mạng muốn thắng lợi phải là cách mạng thành thị.

Tình trạng này liệu sẽ kéo dài chăng? Tiếp theo bốn đợt đổi thay cách mạng lớn trong thế kỉ XX – 1917-1920, 1944-1962, 1974-1978 và 1989 – liệu sẽ có những cuộc sụp đổ hay lật đổ nào nữa? Nhìn lại một thế kỉ mà hiếm có những nhà nước đã ra đời hay sống sót mà không trải qua cách mạng, phản cách mạng vũ trang, đảo chính quận sự hay nội chiến, chẳng mấy ai dám đánh cuộc vào thắng lợi hoàn cầu của xu hướng biến chuyển hòa bình hợp hiến mà năm 1989 một số người hồ hởi của nền dân chủ liberal đã loan báo tin mừng. Thế giới bước sang thiên niên kỉ thứ ba không phải là thế giới của những nhà nước hay những xã hội ổn định.

Nếu ta có thể khẳng định gần như chắc chắc rằng hành tinh này, hay ít nhất một bộ phận lớn của nó, sẽ đầy rẫy những biến chuyển bạo liệt, thì bản chất của những biến chuyển ấy sẽ như thế nào, đó là điều còn mù mịt. Thế giới vào cuối Thế kỉ XX Ngắn ở trong tình trạng sụp đổ về xã hội hơn là trong tình trạng khủng hoảng cách mạng, mặc dầu có những nước, như Iran những năm 1970, đầy đủ điều kiện để lật đổ những chế độ bị nhân dân oán ghét, những chính thể đã mất hết tính chính đáng, nhân dân đã nổi dậy dưới sự lãnh đạo của những lực lượng có khả năng thay thế chính quyền cũ: đó là trường hợp, vào đầu thập niên 1990, của nước Algeria, và trường hợp Nam Phi trước ngày chế độ apartheid thoái nhiệm. (Điều kiện tiềm năng hay hiện thực được hội đủ không nhất thiết có nghĩa là cách mạng sẽ thành công). Tuy nhiên, sự bất mãn không chấp nhận nguyên trạng như vậy không phổ biến cho lắm. Thường thấy nhất là tâm trạng ít nhiều không vừa lòng với hiện tại, là tình trạng vô tổ chức về chính trị, sự ngờ vực, hay đơn thuần hơn, quá trình tan rã kéo dài. Các bộ máy nhà nước tìm cách “sống với” tình hình ấy, trong đường lối chính sách quốc gia cũng như quốc tế của mình.

Đó cũng là một thế giới đầy bạo lực – bao lực nhiều hơn quá khứ – và quan trọng không kém, đầy vũ khí. Trước khi Hitler lên cầm quyền ở Đức và Áo, dù cho tình hình căng thẳng và hận thù chủng tộc gay gắt tới đâu, người ta khó tưởng tượng được là sẽ đi tới tình huống bọn đầu trọc “skinhead” tân-Nazi đốt cháy một trung tâm người nhập cư, giết trọn một gia đình người Thổ Nhĩ Kì. Vậy mà năm 1993, sự cố ấy đã diễn ra, gây sốc cho nhiều người, nhưng không ai ngạc nhiên là nó diễn ra ở trung tâm một nước Đức an bình, tại một thành phố (Solingen) kế thừa truyền thống XHCN và công nhân lâu đời nhất của nước Đức.

Thêm nữa, các vũ khí và chất nổ mạnh ngày nay rất dễ tìm mua, nên sự độc quyền cố hữu của nhà nước tại các xã hội phát triển không còn được bảo đảm. Khối Soviet lâm vào tình trạng vô chính phủ vì nghèo khó và tham lam, nên không thể loại trừ khả năng các vũ khí hạt nhân (hay những phương tiện để chế tạo vũ khí hạt nhân) rơi vào tay những tổ chức không phải là chính phủ.

Thế giới của thiên niên kỉ thứ ba chắc chắn sẽ là một thế giới của bạo động chính trị, của biến đổi chính trị bạo liệt. Điều không biết chắc là những biến đổi ấy sẽ đi theo chiều hướng nào.

Nguyễn Ngọc Giao dịch

Maisons-Alfort, Val-de-Marne, Pháp

Nguồn: Dịch giả gởi trực tiếp cho PTKT, 07.2021.




Chú thích:

[143] Phóng sự của một nhà báo xuất sắc người Ba Lan (Kapuscinski, 1990) đã cho thấy bức tranh sống động về thảm trạng chính phủ ở một tỉnh trên lí thuyết thuộc về phe Lumumba.

[144] Ngoại lệ lớn là các phong trào du kích ở các ghetto như IRA lâm thời ở Ulster, “Báo Đen” tồn tại không lâu Hoa Kỳ, du kích Palestin, con cháu những người sống các trại tị nạn, phần đông (nếu không nói là tất cả) là trẻ em bụi đời, chứ không đến từ những tu viện, đơn giản là vì tại các ghetto này, chẳng có mấy thành phần tư sản.

[145] Dường như Bulgaria đã yêu cầu được sáp nhập hẳn vào Liên bang Soviet như là một trong những nước Cộng hòa Soviet, nhưng vì những lí do ngoại giao, đơn ứng cử này đã bị từ chối.

[146] Người viết những dòng này còn nhớ đã nghe Fidel Castro nói trong một cuộc độc thoại tràng giang đại hải ở La Habana. Lãnh tụ Cuba tỏ ý ngạc nhiên trước khuynh hướng này, và kêu gọi hội trường hoan nghênh những đồng minh mới khá lạ lùng đó.

[147] Trong thời gian này, cũng phát triển những phong trào thoạt xem có tính chất tôn giáo, sử dụng bạo lực, nhưng không có tính chất phổ quát, thậm chí ngược lại. Có lẽ nên coi đó là những cuộc vận động sắc tộc: thí dụ như tổ chức Phật giáo chiến đấu của người Singhal ở Sri Lanka, hay các tổ chức Ấn giáo cực đoan và Sikh ở Ấn Độ.

[148] Bốn tháng trước ngày nước CHDC Đức sụp đổ, trong một cuộc bầu cử chính quyền địa phương, đảng cầm quyền giành được 98,85% số phiếu cử tri.



[*] Chính xác hơn, trường này vẫn giữ tên ban đầu, nhưng có thêm lên Lumumba ở sau: tên trường là Университет дружбы народов им. Патриса Лумумбы.

Print Friendly and PDF