18.1.25

Các hình học của chủ nghĩa đế quốc thế kỷ 21 (1/2)

CÁC HÌNH HỌC CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC THẾ KỶ 21 (1/2)

Étienne Balibar [*]

Triết gia

Chủ nghĩa đế quốc, trong hình thể đương đại của nó, ngày nay dường như đang đẩy chúng ta tới một thảm họa toàn cầu. Là một cấu trúc thống trị lịch sử, nó được nuôi dưỡng từ chủ nghĩa tư bản tuyệt đối đang giam cầm chúng ta trong vòng xoáy tài chính hủy diệt và tình trạng chiến tranh thế giới liên tục dẫn đến chủ nghĩa hủy diệt. Một vài hướng nghiên cứu lý thuyết để tư duy về chủ nghĩa đế quốc và giải phóng chúng ta khỏi nó một cách tập thể, với Bài Diễn thuyết gần đây của Etienne Balibar trong Buổi Lễ Tưởng niệm Edward Saïd/Edward Saïd Memorial Lecture.
Thật là một vinh dự lớn đối với tôi được mời diễn thuyết trong buổi lễ tưởng niệm Edward Said được Đại học Mỹ ở Cairo tổ chức hằng năm[1]. Đó cũng là một vinh dự nguy hiểm, không chỉ vì phẩm chất của những người đã đi trước tôi, mà còn vì những hoàn cảnh bi thảm mà chúng ta đang gặp phải. Tôi sẽ quay trở lại vấn đề này.

Tiêu đề mà tôi đề xuất xuất phát từ một tiểu luận của Giovanni Arrighi, The Geometry of Imperialism/Hình thể của chủ nghĩa đế quốc, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1978 (cùng năm với L'Orientalisme/Đông phương luận), ngày nay ít được biết đến hơn các tác phẩm khác của ông và có một cấu tạo mang tính “cấu trúc luận” một cách kỳ lạ[2]. Tôi nghĩ đây là một đóng góp rất thú vị cho việc phân tích các biến thể của chủ nghĩa đế quốc, đặc biệt đến từ một trong những nhân vật chính trong cuộc thảo luận hậu mác xít về cấu hình toàn cầu của chủ nghĩa tư bản và các quyền bá chủ lịch sử kế tiếp của nó.

Tôi không tìm cách lặp lại những gì ông ấy nói, nhưng, đến lượt tôi, tôi muốn cố gắng kết hợp những suy nghĩ về sự phức tạp của hiện tượng “đế quốc”, về vị trí trung tâm của hiện tượng này trong bất kỳ cách lý giải nào về lịch sử hiện đại, và về những biến đổi của hiện tượng trong qua thời kỳ vừa qua. Trong bối cảnh trên, tôi sẽ đặt tầm quan trọng của sự đóng góp của Edward Saïd, điều mà người ta có thể sai lầm cho rằng chỉ là một loại hệ quả của chính cấu trúc. Tất nhiên, tôi sẽ phải tránh hoặc đơn giản hóa nhiều cuộc tranh luận quan trọng về các khái niệm và sự ứng dụng của chúng, nhưng đó chính là rủi ro mà tôi chấp nhận để thu hút sự chú ý đến điều mà, ngày nay, tôi cho là cấp bách nhất. 

Đúng đây là một bài thuyết trình mang tính lý thuyết. Nhưng điều đó - tôi hy vọng chúng ta sẽ thấy - không thể tách rời khỏi cam kết chiến đấu với các cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc trong sự đa dạng và sự thống nhất có vấn đề của chúng. Những cuộc đấu tranh này là hy vọng duy nhất của chúng ta để trở thành hoặc trở thành lại những tác nhân tích cực của quá trình giải phóng tập thể khỏi bạo lực và sự bóc lột. Do đó trong phần kết luận, rất nhanh và rất trừu tượng, tôi sẽ cố gắng phác thảo một số định hướng để suy nghĩ về những cuộc đấu tranh này, dựa trên một cảm nhận được cập nhật hóa về cấu trúc thống trị mà trong hơn năm thế kỷ, thế giới của chúng ta đã phải phục tùng, và ngày nay dường như đang dẫn thế giới tới một thảm họa cho toàn hành tinh.

Cho dù chúng có thể trừu tượng đến đâu (và tôi rất tiếc vì không thể làm tốt hơn trong khuôn khổ này), các đề xuất của tôi sẽ không thể thoát khỏi áp lực của hoàn cảnh của cuộc gặp gỡ của chúng ta. Hoàn cảnh đơn giản là bi thảm. Phát biểu dưới sự viện dẫn Edward Said, làm sao tôi có thể không bị ám ảnh bởi những hình ảnh về sự diệt chủng và sự hủy diệt đến với chúng ta hàng ngày từ Palestine (và bây giờ cũng từ Liban)? Và làm sao tôi có thể không bị ám ảnh bởi câu hỏi tại sao “thế giới” (còn được gọi là “cộng đồng quốc tế”) không muốn hoặc không thể chấm dứt sự man rợ này?

Nhưng tất nhiên tôi có những suy nghĩ khác, những ký ức khác về khu vực mà Ai Cập là trung tâm... Đến lượt bắt đầu cuộc “Hành trình về Phương Đông”, tôi nghĩ về những gì khu vực này thực sự độc đáo, bởi sự đóng góp của nó cho nền văn minh cũng như sự bạo lực của những trải nghiệm mà nó đã trải qua. Một vùng mà, ngay từ những ngày đầu của cái mà chúng ta gọi là “lịch sử”, các đế chế đã tranh giành quyền bá chủ (một trong những luận điểm của tôi là chủ nghĩa đế quốc hiện đại, với tất cả những nét đặc trưng của nó, vẫn tiếp tục lịch sử lâu dài này). Một vùng, trong suốt thế kỷ 19 và 20, tiếp tục là tâm điểm của sự cạnh tranh giữa các đế chế, nhưng cũng là nơi diễn ra các cuộc nổi dậy anh hùng nhằm đảo ngược tiến trình lịch sử và tưởng tượng ra tương lai dưới ngọn cờ của tự do, tuy nhiên, quá thường xuyên bị đè bẹp bởi sự đàn áp và ưu thế của các thế lực bảo thủ từ bên trong và từ bên ngoài. Vì vậy, các bạn có thể dễ dàng hình dung được việc tôi phát biểu hôm nay ngay bên cạnh Quảng trường Tahrir[**] có ý nghĩa như thế nào! Và tôi không thể quên điều bi thảm nhất: ba vụ diệt chủng đã xảy ra ở đó trong những năm gần đây, ở Darfour, Syrie và Gaza. Chúng ta không thể nói rằng bàn luận về chủ nghĩa đế quốc ở đây chỉ liên quan đến khoa học lịch sử!

Chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh

Tôi xin trình bày luận điểm đầu tiên của tôi. Tôi sẽ tập trung vào sự kết nối giữa chủ nghĩa đế quốc với chiến tranh, và đây là lý do. Vào đầu thế kỷ 20, sau những tiểu luận mở đầu cho việc đặt vấn đề về chủ nghĩa đế quốc từ góc độ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa Mác: Hobson, Hilferding, Rosa Luxemburg, Kautsky, Lenin, Trotsky và những người khác, đã chưa bao giờ có điểm dừng. Vấn đề đã không ngừng phát triển.

Nhưng đã có những sự “quay trở lại” định kỳ về với những điểm dị giáo quan trọng, như khi David Harvey, trong phân tích của ông về “Chủ nghĩa Đế quốc Mới” dựa trên “sự tích lũy bằng sự tước đoạt” (mà từ đó tôi sẽ có một số cảm hứng) đã tái lập tầm quan trọng của những ý tưởng của Rosa Luxemburg trong The Accumulation of Capital (1913) về việc tước đoạt bạo lực của giai cấp nông dân ở các “vùng ngoại vi” thuộc địa của tư bản công nghiệp[3]. Và nhất là có một sự căng thẳng thường xuyên giữa các lý thuyết đã đặt vào hàng đầu hiện tượng chính trị của chủ nghĩa đế quốc (tức là hành động của Nhà nước với “các dấu hiệu chủ quyền” của nó, như Bodin và Hobbes nói[4]), và các lý thuyết (chủ yếu là mác xít) quan niệm chủ nghĩa đế quốc như là sự phát triển của một “giai đoạn” hay “phương thức” phát triển của chủ nghĩa tư bản với những mặt đối kháng đặc trưng của nó.

Nhưng ngay từ đầu, đối với tôi, sự căng thẳng này dường như được thúc đẩy bởi nhu cầu giải thích một hiện tượng là sự xuất hiện của chiến tranh ngay tại trung tâm của nền kinh tế của một xã hội mà nguyên tắc tổ chức và tiến bộ (“thương mại” trong nghĩa rộng nhất) được cho là thúc đẩy hòa bình. Chính (để dùng cách nói của Lenin) “thảm họa sắp xảy ra” của Chiến tranh thế giới năm 1914 đã kết tinh các cuộc tranh luận xung quanh mối quan hệ của chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa dân tộc, sự xâm chiếm các thuộc địa, chủ nghĩa quân phiệt và chiến tranh.[5] Và chính niềm tin rằng sự kết hợp này đã đẩy xã hội “tư sản” đến một giới hạn tuyệt đối, không thể chịu đựng được, khiến các lý thuyết gia cấp tiến nhất thời đó đề xuất giải pháp thay thế: chủ nghĩa đế quốc hay cách mạng, dựa trên cơ sở niềm tin kép rằng chủ nghĩa đế quốc tạo ra những vấn đề mà nó không thể nào giải quyết được, và chính cách mạng sẽ đưa ra giải pháp (hoặc ít nhất là mở ra khả năng). Tất nhiên là tôi sẽ quay lại vấn đề này.

Nhưng hiện tại, tôi muốn bảo vệ quan điểm cho rằng, đối với một lý thuyết về chủ nghĩa đế quốc, chiến tranh không thể được coi là một hậu quả đặc biệt của hiện tượng được nghiên cứu. Chính chiến tranh tạo nên vấn đề cơ bản, câu hỏi đầu tiên làm nảy sinh ra khái niệm này. Do đó, chúng ta phải quay lại với khái niệm để đánh giá những gì, trong cấu trúc của chủ nghĩa đế quốc và trong cấu hình của các “xu hướng” của chủ nghĩa ấy, đã thay đổi hay tồn tại lâu dài và ở mức độ nào. Không có gì ngẫu nhiên trong sự kết hợp giữa chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh. Nhưng sự kết nối này cũng không thể được suy ra từ một định nghĩa đơn giản.

Do đó, khi chúng ta đặt câu hỏi về sự kết nối này, chúng ta không chỉ nói về “các cuộc chiến tranh đế quốc”, hay “các cuộc chiến tranh của thời đại đế quốc”, mà còn về mối liên hệ nội tại giữa chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh. Về điểm này tôi sẽ đưa ra hai giả thuyết.

Sau đây là giả thuyết đầu tiên: theo ý nghĩa thống trị (mác xít hay hậu mác xít) của nó ngày nay, vốn không tách bạch với chủ nghĩa tư bản như một phương thức sản xuất dựa trên sự tích lũy giá trị tiền tệ, không còn nghi ngờ gì nữa rằng chủ nghĩa đế quốc trùng khớp với một phương thức mới của sự xâm chiếm đế quốc, được đánh dấu một cách tượng trưng bằng việc mở cửa Châu Mỹ vào năm 1492 cho cuộc xâm chiếm thực dân của Châu Âu, sau đó sẽ mở rộng ra toàn thế giới. Tuy nhiên, điều này không đánh dấu sự gián đoạn nào trong lịch sử của các đế chế và sự cạnh tranh giữa chúng. Ngược lại, đó là sự khởi đầu của một thời kỳ mà đế quốc với tư cách là một hình thức chính trị giành được sức sống chưa từng có.

Chủ nghĩa đế quốc không tạo nên sự đoạn tuyệt với sự nối tiếp của các đế chế, nó đánh dấu một thời điểm mới trong một lịch sử rất dài. Điều này có thể đơn giản có nghĩa là các chủ nghĩa đế quốc hiện đại luôn bao gồm sự xâm chiếm và sự thống trị, thậm chí được thúc đẩy bởi giấc mơ đế quốc về quyền lực phổ quát, điều này rõ ràng là đúng trong trường hợp này, không chỉ đối với Đế quốc Anh mà còn đối với các Đế quốc “cộng hòa” của Pháp hay của Mỹ.

Nhưng chúng ta có thể tiến thêm một bước nữa, bởi vì đế chế với tư cách là một hình thức chính trị có mối liên hệ thể chế với chiến tranh và với chức năng chính trị mà nó đảm nhận. Tôi sẽ thể hiện điều đó bằng cách tạo ra một tiên đề “La Mã” vẫn còn giá trị ở thời hiện đại: các đế quốc vẫn luôn tiến hành chiến tranh ở “biên giới” của chúng (mà chúng liên tục di chuyển) để tạo không gian cho thương mại, luật pháp và văn hóa, nói cách khác là “hòa bình”, nhưng điều ngược lại cũng đúng: chúng thiết lập hòa bình và phát triển các thể chế để có thể chuẩn bị và tiến hành chiến tranh.

Mệnh đề thứ hai không kém phần đúng so với mệnh đề thứ nhất, thậm chí nó còn cấu thành sự thật theo quan điểm duy vật. Chiến tranh gắn liền với chủ nghĩa đế quốc cũng như nó đã gắn liền với các đế chế. Ubi solitudinem faciunt, Pacem appelant/Où ils font un désert, ils disent qu'ils ont fait la paix/Nơi nào đã bị chúng biến thành sa mạc, thì nơi đó được gọi là hòa binh: việc đọc lại Tacitus[6] luôn là điều thích hợp.

Đối với giả thuyết thứ hai, giả thuyết quan trọng nhất, tôi sẽ cố gắng tạo cơ sở cho nó dựa trên sự trình bày mượn từ hai tác giả – Lenin và Carl Schmitt – những người không thể hòa giải về mặt chính trị, nhưng có chung quan điểm thực tế về các cuộc xung đột quyền lực trong thế kỷ 20. Trọng tâm trong tiểu luận của Lênin: Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản[7] là ý tưởng về sự “phân chia thế giới” giữa các cường quốc thực dân, một sự phân chia mà đặc trưng là tính bất ổn nội tại, do đó hoàn toàn không dẫn đến một sự vĩnh viễn hay “cân bằng” trong sự phân phối các thành phần của chủ nghĩa đế quốc giữa các chủ quyền tương đương, mà ngược lại bao hàm một cuộc đấu tranh bạo lực để phân chia lạithế giới.

Nếu có một ý tưởng của Lênin mà lịch sử đã xác nhận một cách xuất sắc thì đó rõ ràng là điều được thể hiện qua lịch sử của các cuộc xung đột không ngừng diễn ra từ Hội nghị Berlin (1885) khi Châu Phi được khám phá và chưa được khám phá (“lục địa đen”) bị phân chia giữa các cường quốc thực dân Châu Âu, cho đến khi xuất hiện các cường quốc đế quốc ngoài Châu Âu ở Châu Mỹ và Châu Á và “cuộc chiến tranh lạnh” (“sự phân chia ở Yalta”), qua đến hai cuộc chiến tranh thế giới (trong đó có Hiệp ước Đức-Xô),để rồi cuối cùng dẫn đến việc xây dựng một “trật tự tự do” quân sự hóa duy nhất sau năm 1989.

Do đó, một trong những câu hỏi mang tính quyết định đối với cuộc điều tra của chúng tôi là liệu ý tưởng trên có thể áp dụng được cho tình hình hiện tại và các xu hướng đang phát triển của nó hay không và bằng cách nào, đặc biệt là để làm sáng tỏ ý nghĩa của khẩu hiệu “chủ nghĩa đa phương”. Tuy nhiên, rõ ràng là cuộc thảo luận này giả định sự mở rộng đáng kể cách lý giải của Lênin vốn dựa trên chức năng quyết định của các lãnh thổ và các biên giới lãnh thổ, như chúng có thể được xác định trên bản đồ thế giới. Tuy nhiên, các đế chế mà chúng ta đang đề cập ở đây đặt cơ sở cho quyền lực của chúng trên đầu tư và khả năng sinh lời của tư bản.

Các lãnh thổ quan trọng đối với chúng không phải là những thực thể không gian thuần túy, mà là những không gian được mở ra bằng vũ lực để độc quyền chiếm đoạt các nguồn tài nguyên: tài nguyên năng lượng (than, dầu, uranium, v.v.), tài nguyên khai thác mỏ và nông nghiệp (mà sự khai thác làm cho môi trường bị đảo lộn), tài nguyên nhân lực (các nhóm dân cư có nguy cơ bịến thành nô lệ, phải di dời, đi làm, nhập ngũ, v.v.). Nhưng một điều nhanh chóng được xác định là phần lớn các nguồn tài nguyên này có thể được kiểm soát và khai thác mà không cần phải dùng đến sự thống trị trực tiếp (hoặc “chủ quyền” được thực thi trên lãnh thổ) tất nhiên với điều kiện là có được các phương tiện (tiền tệ và quân sự) cung cấp một sự dư thừa sức mạnh không thể chống lại được.

Như chúng ta biết, đây là bí mật của chủ nghĩa đế quốc Mỹ, khiến cho việc “phân chia thế giới” trở nên trừu tượng hơn, bị che dấu trên bản đồ nếu không phải là trên thực địa, kiểm soát các lãnh thổ không phải như là những thuộc địa (có ngoại lệ) mà như là những thị trường, nhằm xây dựng một đế chế toàn cầu mà phạm vi chỉ bị giới hạn bởi khả năng của Hoa Kỳ trong việc trấn áp các cuộc nổi dậy và trong sự đầu tư vốn vào bất kỳ nơi nào trên thế giới.

Nhưng đến lượt nó, phương thức này ngày nay bị “vượt qua” bởi một mô hình phân chia thế giới hoàn toàn khác (và cuộc đấu tranh để phân chia lại), không liên quan đến những không gian trên mặt đất mà đến những không gian “ảo” (hoặc phi vật chất mà sự tập hợp tạo thành cái métavers/vũ trụ ảo), được phân phối (và phân phối lại hoặc bị tranh chấp) giữa các đế chế truyền thông[8]. Sự phân chia như vậy tạo ra các “lãnh thổ” của riêng mình bằng cách chiếm đoạt chúng và “các chủ nhân” của nó không phải là các Quốc gia mà là các công ty đa quốc gia với các “mạng lưới” của chúng để phân phối và thu thập dữ liệu, kiểm soát hoạt động của các Quốc gia hơn là bị các Quốc gia kiểm soát.

Liệu hình thái “lãnh thổ” mang tính cách mạng này có giành được đủ quyền tự chủ để đẩy lùi vào hạng thứ yếu cuộc đấu tranh giành quyền bá chủ mà ngày nay dường như có khả năng cấu trúc trật tự thế giới “về mặt địa chính trị” (giữa các đế chế công nghiệp, phát triển các mô hình “chủ nghĩa tư bản” khác nhau, vừa là đối thủ vừa bổ sung cho nhau, như Trung Quốc và Hoa Kỳ) hay không? Và bản chất của những xung đột phát sinh từ đó là gì? Đây rõ ràng là những vấn đề mà tương lai trước mắt của chúng ta phụ thuộc vào.

Tại thời điểm này, đường vòng qua sự nghiệp của Carl Schmitt là điều cần thiết. Sự hội tụ là không thể phủ nhận giữa “sự phân chia thế giới” của chủ nghĩa Lênin và ý tưởng của chính Schmitt về Landnahme (“chiếm” đất) được phát triển trong cuốn sách năm 1950: Nomos of the Land and International Law of the Jus Publicum Europaeum/Cái pháp lý của Trái Đất và Luật Pháp Quốc tế của Bộ Luật Pháp của các Quốc Gia Châu Âu trong đó mối tương quan giữa lịch sử hình thành của các Quốc gia-dân tộc của Châu Âu (sau khi các cuộc chiến tranh tôn giáo kết thúc vào thế kỷ 17, dẫn đến “trật tự Westphalie”) được xác thực là chính các quốc gia này đang trong tình trạng chiến tranh thường xuyên để mở rộng đế chế và tước đoạt thuộc địa của nhau[9].

Tất nhiên Lênin và Schmitt không “kết luận” chẩn đoán của họ về cuộc khủng hoảng của hiện tượng này theo cùng một cách: đối với Lênin, cuộc cách mạng là hệ quả trực tiếp, tất yếu của cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa đế quốc, trong khi đối với Schmitt (tự thừa nhận là phản cách mạng), thì kết quả của cuộc khủng hoảng này là một hình học mới của chủ nghĩa đế quốc, mà đặc trưng là sự thiết lập những Grossräume (“không gian địa chính trị rộng lớn”) là một loại hình mới của các đế chế khu vực (mà sự âm vang với một số vấn đề đương đại: “tính đa cực” và “cuộc xung đột giữa các nền văn minh” thật sự là đáng kinh ngạc)[10].

Nhưng điều tôi thấy sáng tỏ nhất trong các phân tích của Schmitt là ý tưởng cho rằng sự phân chia thế giới không chỉ là sự (tái) phân bố đất đai, tài nguyên, dân cư mà còn là sự phân bố các hình thái chiến tranh (và nói chung hơn là các phương thức bạo lực) giữa các khu vực trên hành tinh[11]. Sự phân bố này diễn ra đồng thời trên hai cấp độ: đó là sự phân bố giữa các nước đế quốc, và sự phân bố giữa khu vực nơi các “chủ nhân” (hoặc “các dân tộc-chủ nhân”) sinh sống và khu vực nơi các “thần dân” (hoặc các thần dân trong tương lai, những người đã mang dấu ấn của sự xâm chiếm) – cái mà sau này sẽ được gọi là “trung tâm” và “ngoại vi”.

Bạo lực được triển khai ở trung tâm và sự được mất là quyền lực tối cao (Herrschaft) và bạo lực được triễn khai ở ngoại vi để thường xuyên thiết lập và củng cố sự thống trị của các ông chủ đối với những kẻ man rợ mà họ (các ông chủ) phải khuất phục, giáo dục và ép buộc làm việc, khác nhau về chất và lượng: bạo lực ở ngoại vi phải thường xuyên, tàn bạo và dã man, trong khi bạo lực ở trung tâm thì không liên tục (được ngăn cách bởi các hiệp ước hòa bình) và còn tự cho là vẫn văn minh (dựa trên “luật chiến tranh”). Nó được “kiềm chế” (Hegung des Krieges) trong khi bạo lực ở ngoại vi thì được kích động.

Sự ổn định, và thậm chí tính đáng tin của sự phân bố này còn lâu mới được đảm bảo (mà bằng chứng là những hành động tàn bạo đã xảy ra trong Thế chiến thứ hai, hoặc hiện nay ở Ukraina), nhưng tôi thấy khả năng sử dụng nó theo chiều ngược lại: Tôi sẽ đặt ra một quan điểm hậu Schmitt (cũng là chống lại quan điểm của Schmitt) rằng sự phân bố không đồng đều của các hình thái bạo lực không đồng nhất tự nó là một trong những cơ chế tạo nên ranh giới ngăn cách “hai thế giới” trong cùng một “thế giới” (và do đó có hai “nhân loại” hoặc hai “chủng tộc” trong cùng một “loài người”). Nhưng đây chính xác là hình tượng của chủ nghĩa đế quốc với tư cách là một hình thái xã hội và nhân học trong thời kỳ hiện đại. Đã nhiều lần, nó đã bị bóp méo và di chuyển (và chắc chắn điều đó sẽ còn xảy ra nữa, với cái giá phải trả là sự đau khổ khủng khiếp và sự tàn phá môi trường), nhưng nguyên tắc của nó vẫn được duy trì. Chúng ta đang chứng kiến điều đó ngay bây giờ ở Gaza.

Chúng ta hãy kết luận điểm này và quay trở lại những vấn đề hiểm nghèo hiện tại. Trong một thế giới hơn bao giờ hết được chia thành các quốc gia, các dân tộc và các chế độ cạnh tranh nhau, nhưng dường như cũng đã đạt đến mức độ phụ thuộc lẫn nhau vô song giữa các “bộ phận” cấu thành nên nó, và đang bị các sự kiện đa dạng như đại dịch, một cuộc khủng hoảng tiền tệ toàn cầu. nhưng nhất là thảm họa môi trường, buộc phải nhận thức về một số lợi ích sống còn chung của toàn thể nhân loại, do đó làm cho sự thống nhất của nó vượt lên trên sự chia rẽ của nó, chúng ta vẫn còn nhận ra những dấu hiệu của đế chế như thế nào? Và chúng ta xác định chế độ toàn cầu hóa của các cuộc chiến tranh đang diễn ra như thế nào – trên bộ và trên không, ngay cả trong không gian “ảo” của tầng thông tin – nhân danh những giá trị không tương thích ngay trong cái thế giới “thống nhất”[12] này?

Đối với câu hỏi đầu tiên, tôi sẽ trả lời theo giả thuyết: Chính các đế chế đang suy tàn mới là những quốc gia bạo lực nhất (hoặc tàn ác nhất trong cách tiến hành chiến tranh), bởi vì chúng cảm thấy bị dồn vào chân tường do sự xói mòn các đặc quyền của mình và bởi sự sụp đổ của tham vọng của mình về “sự vĩ đại” (hay “được tuyển chọn”)[13]. Nga và Hoa Kỳ ngày nay minh họa luận điểm này, mặc dù ở những cấp độ đế quốc khác nhau[14]: đối với Nga, cần phải “khôi phục lại sự thống nhất của Russkyi Mir/thế giới của Nga” mà Liên Xô đã bảo tồn nhưng đã tan rã khi Liên Xô sụp đổ, đối với Hoa Kỳ, chúng ta phải “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại/Make America Great Again”…

Đối với vấn đề thứ hai, tôi sẽ trả lời rằng chúng ta đã đạt đến giai đoạn của chủ nghĩa hủy diệt/ exterminisme tổng quát. Tôi mượn thuật ngữ này từ bài tiểu luận nổi tiếng vào thời đó của nhà sử học Edward P. Thompson (một trong những người lãnh đạo phong trào Đông-Tây giải trừ vũ khí hạt nhân): Notes on Exterminism, the Last Stage of Civilization (1980)[15], có tiêu đề giễu nhại Lênin. Được viết trong bối cảnh “cuộc chạy đua vũ trang” trong Chiến tranh Lạnh, tiểu luận này nhấn mạnh ý tưởng rằng nguy cơ hủy diệt hành tinh không chỉ xuất phát từ chính sách và hệ tư tưởng đế quốc của hai “siêu cường”, mà còn từ quy mô của các ngành công nghiệp vũ khí và vị trí trung tâm của chúng trong nền kinh tế.

Điều này vẫn đúng, nhưng tôi tin rằng chúng ta có thể đẩy khái niệm chủ nghĩa hủy diệt đi xa hơn để mô tả sự bình thường hóa tình trạng ngoại lệ mà chiến tranh đã trở thành trong thế giới ngày nay: Tôi không chỉ bao gồm các cuộc chiến được định nghĩa chính thức là “chiến tranh giữa các quốc gia” (như chiến tranh Ukraina - về phía Ukraina nhiều hơn là về phía Nga), mà cả các “cuộc nội chiến” và thậm chí là “riêng tư” (nếu chúng ta nghĩ về tính có nhiều lỗ hổng của sự tách biệt giữa chiến tranh và tội phạm ở một số nơi trên thế giới), “khủng bố” và “chống khủng bố” mà các quốc gia thực hiện chống lại kẻ thù bên trong hoặc bên ngoài.

Tất nhiên, tất cả các hình thái này đều có lịch sử và nguyên nhân riêng, nhưng kết hợp lại với nhau (với hậu cảnh là sự sản xuất và phổ biến vũ khí), chúng tạo thành một sự phân bố bạo lực vũ trang toàn cầu hóa bao gồm mọi mức độ bạo lực và không chừa một xã hội hay khu vực nào trên thế giới, một sự liên tục giữa hai thái cực: một bên là nạn diệt chủng được thực hiện đối với toàn bộ dân cư bởi những đám phân biệt chủng tộc “không có tổ chức” hoặc (nhất là) bởi các quốc gia và quân đội có tính tổ chức cao (như Israel); ở đầu bên kia khả năng bị tiêu diệt trong một chiến tranh hạt nhân được tuyên bố hoặc do “sự leo thang” không kiểm soát được.

Do đó, chủ nghĩa hủy diệt không phải là giai đoạn cuối cùng, mà là giai đoạn gần đây nhất và “thấp nhất” của chủ nghĩa đế quốc, mà bạo lực đa phương có nghĩa là chúng ta thực sự không thể hình dung được sự xuất hiện của một thế giới khác. Chẳng có gì đáng vui cả về điều đó...

Chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản “tuyệt đối”

Có lẽ tôi đã hơi dài dòng về điểm đầu tiên này, vì đối với tôi nó đặc biệt mang tính thời sự. Bây giờ tôi xin chuyển sang điểm thứ hai, liên quan đến ý tưởng về chủ nghĩa đế quốc như một “giai đoạn” hay “thời kỳ” trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản, và do đó câu hỏi về hình thái chủ nghĩa tư bản mà chúng ta đang sống ngày nay.

Tính từ tiếng Nga xuất hiện trong tiêu đề của Lenin (vyschaia) thường được dịch là “tối cao” hoặc “cao cấp”, nhưng đôi khi nó được hiểu như là giai đoạn “tột cùng” hoặc “cuối cùng” (theo nghĩa gần đây hơn). Điều này cho thấy rõ rằng tư tưởng của Lênin chứa đựng một sự mơ hồ, gắn ngay với niềm tin rằng chủ nghĩa đế quốc (“thời đại của các cuộc chiến tranh và các cuộc cách mạng”) tương ứng với thảm họa cuối cùng trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản với tư cách là một hình thái kinh tế xã hội: khi đó mở ra một thời điểm thiên sai trong đó nhân loại phải đối mặt với lựa chọn tự hủy diệt hoặc tái thiết trên những nền tảng hoàn toàn khác (khẩu hiệu của Rosa Luxemburg: “chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa man rợ”)[16].

Chúng ta hãy chấp nhận rằng rất khó khăn để duy trì tầm nhìn theo thuyết hậu thế/eschatologique này về xu hướng của lịch sử - thậm chí và đặc biệt nếu nó phải tạo nên “cái chân trời của sự mong đợi” (Erwartungshorizont) trong đó các nhà cách mạng suy nghĩ, những người coi rằng việc xem chủ nghĩa tư bản như là hình thức không thể vượt qua được về sự tồn tại của con người là một ý tưởng không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là ý tưởng liên kết sự phản ánh về chủ nghĩa đế quốc với việc phân tích các giai đoạn hoặc các hình thái liên tiếp trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản là không có cơ sở. Nhưng từ quan điểm này, tôi sẽ nói rất nhanh rằng đã có hai sự điều chỉnh liên quan đến cách đặt vấn đề của Lênin mà chúng ta phải tính đến. Chúng nhìn theo những hướng thời gian trái ngược nhau.

Chiều hướng đầu tiên là đề xuất của các nhà lý thuyết về “hệ thống-thế giới/système-monde tư bản”[17]: họ điều chỉnh lại ý tưởng rằng các đặc điểm cơ bản (hoặc các xu hướng lịch sử) của chủ nghĩa tư bản hoàn toàn có thể nắm bắt được từ việc phân tích các hình thái “tiến bộ” mà nó khoác ở “trung tâm” của nền kinh tế thế giới[18], bởi điều quyết định sự phát triển của chủ nghĩa tư bản chính là mối quan hệ phụ thuộc giữa trung tâm và ngoại vi (trong đó các phương thức sản xuất khác ngoài hình thức làm công ăn lương chiếm ưu thế, cũng không kém phần “tư bản”, nhưng lại dựa trên các phương thức bóc lột sức lao động khác). Đây là một sự phụ thuộc lẫn nhau nhưng không đối xứng. Nó luôn tồn tại như sự tương liên của chủ nghĩa tư bản. Điều này có nghĩa là chủ nghĩa đế quốc tư bản có tính nguyên thủy, nó không phải là giai đoạn muộn (và còn hơn nữa không phải là “cuối cùng”) trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Chưa bao giờ có chủ nghĩa tư bản mà không phải là chủ nghĩa đế quốc, mặc dù các hình thái của nó không ngừng thay đổi. Do đó, chủ nghĩa đế quốc không phải là một khái niệm cứu rỗi tổng quát, nó là một khái niệm biến thể (hoặc khác biệt).

Do đó, tầm quan trọng của sự điều chỉnh thứ hai, nhìn theo hướng ngược lại, và các tác giả của nó ít nhiều khẳng định một cách rõ ràng là lấy cảm hứng từ Gramsci[19]. Nó liên quan đến ý tưởng rằng các giai đoạn hoặc kỷ nguyên mới trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản, mà đặc trưng là một cấu hình giai cấp và đấu tranh giai cấp mới, bị ngăn cách bởi những khoảnh khắc lịch sử không chắc chắn (hơn là sự “quá độ”), trong đó những mâu thuẫn không được giải quyết mà không có các cuộc cách mạng ảnh hưởng đến toàn bộ cái khung thể chế của xã hội[20]. Ý tưởng này, có vẻ tầm thường, trở thành vấn đề, nhưng đối với tôi, nó cũng có vẻ sáng tỏ nếu chúng ta thừa nhận rằng cuộc cách mạng có thể đi theo những chiều hướng ngược nhau.

Chính Gramsci đã phác thảo ý tưởng này (khó chấp nhận đối với một người cộng sản!) thông qua phạm trù nghịch lý của “cuộc cách mạng thụ động” (mượn từ một nhà sử học người Ý của đầu thế kỷ 19) mà ông sử dụng đặc biệt để mô tả các biến đổi công nghiệp, xã hội và văn hóa của “chế độ Ford” ở Mỹ, mà ta có thể dễ dàng mở rộng sang các thỏa hiệp giai cấp, ở Mỹ dưới tên gọi “New Deal/Thỏa thuận mới” và ở Châu Âu dưới tên gọi “nền dân chủ xã hội”, vốn đã cải cách chủ nghĩa tư bản với sự hỗ trợ của một bộ phận đáng kể của giai cấp công nhân có tổ chức[21].

Các chính sách tân tự do bắt đầu hình thành từ những năm cuối của Chiến tranh Lạnh và thống trị trên phạm vi toàn cầu sau sự sụp đổ của các chế độ cộng sản (trừ Trung Quốc, một điểm quyết định), cho phép chúng ta tiến thêm một bước nữa đối với ý tưởng này: sự biến đổi của hệ thống tư bản đế quốc vào cuối thế kỷ 20, hệ thống chi phối toàn bộ cuộc sống của chúng ta ngày nay, thực sự là một cuộc phản cách mạng. Nhưng phải thừa nhận rằng các cuộc phản cách mạng cũng là những cuộc cách mạng, ngoại trừ (và đây không phải là một điểm nhỏ) chúng nhằm mục đích khôi phục lại cơ cấu thứ bậc của xã hội chứ không phải để “đảo lộn xã hội”.[22]

Sau đó, tôi sẽ giới thiệu phạm trù mà tôi đã sử dụng trong thời gian gần đây (cùng với những phạm trù khác) để định nghĩa chủ nghĩa tư bản mà chúng ta đang sống ngày nay: chủ nghĩa tư bản tuyệt đối[23]. Tôi biết rằng nó có thể gây ra sự mơ hồ, nhưng tôi tin rằng là đáng làm để làm nổi bật các vấn đề được đặt ra. Tôi coi tính từ này, “tuyệt đối”, thông qua sự loại suy với “chế độ quân chủ tuyệt đối” (để chỉ một chủ nghĩa tư bản thống trị hoàn toàn, hoặc ít nhất đã ép các đối thủ cổ điển của nó vào thế phòng thủ) và theo một phương thức biện chứng (gần như mang tính Hegel), đối lập với những gì Immanuel Wallerstein gọi là “chủ nghĩa tư bản lịch sử”: cái chủ nghĩa tư bản tương ứng với các hình thức phân cực nối tiếp nhau của thế giới giữa “trung tâm” và “ngoại vi”. Chủ nghĩa tư bản tuyệt đối “nâng cao” chủ nghĩa tư bản lịch sử. Bạn có thể hỏi tại sao lại không bằng lòng với phạm trù chủ nghĩa tân tự do?

Bởi vì theo tôi, phạm trù tân tự do chỉ tương ứng với một phần các nét đặc trưng của chủ nghĩa tư bản mới, và gợi ý rằng để giải thích chúng, trước hết chúng ta phải quay trở lại cuộc xung đột xa xưa giữa các chính sách kinh tế dành ưu thế hoặc cho các chính sách điều tiết và các công ty của Nhà nước, hoặc cho hoạt động của “sự cạnh tranh tự do” và các lực lượng của thị trường[24]. Điều còn lại trong bóng tối là cách thức mà các hình thái đối kháng giai cấp và xung đột xã hội trước đây đã bị “vượt qua” hoặc bị loại bỏ. Ngược lại, tôi nghĩ rằng chúng ta phải phân tích chủ nghĩa tư bản tuyệt đối về bản chất là hậu xã hội chủ nghĩa hậu thuộc địa.

Chủ nghĩa tư bản tuyệt đối mang tính chất hậu xã hội chủ nghĩa vì nó thành công trong việc sử dụng các thể chế và quyền lực Nhà nước đã được củng cố trong “thời điểm xã hội chủ nghĩa” của nền kinh tế-thế giới (1917-1968) trong khi vẫn tiến hành phá bỏ hoặc giải thể hệ thống các quyền xã hội được các Quốc gia sáp nhập trong thế kỷ 20. (một cách khác nhau tùy theo chế độ) trong sự cấu tạo vật chất về “tính công dân” của mình. Điều đáng chú ý ở đây là tầm quan trọng đặc biệt của việc nghiên cứu những chuyển biến “hậu xã hội chủ nghĩa” ở Trung Quốc cộng sản, quốc gia ngày càng xuất hiện với tư cách là quốc gia lãnh đạo sự tiến hóa của thế giới. Trung Quốc vừa điển hình vừa đặc biệt trong cách thức “vượt quá” chủ nghĩa xã hội để tiến tới một chủ nghĩa tư bản mới. Đã từng mang tính chất xã hội chủ nghĩa sâu sắc, Trung Quốc đang đi đầu trong việc xây dựng chủ nghĩa tư bản mới.[25]

Nhưng chủ nghĩa tư bản tuyệt đối cũng mang tính hậu thuộc địa vì xu hướng hướng tới sự hàng hóa hóa hoàn toàn sự tồn tại và sự phân tán các quá trình sản xuất (sự hình thành các “chuỗi giá trị” toàn cầu), đặc trưng của nó, chỉ có thể thành hiện thực nhờ vào việc phá bỏ các rào cản của các đế chế. và sự mở cửa của các nền kinh tế ngoại vi cho dòng hàng hóa và tư bản (hoặc thậm chí cả dân số) do quá trình phi thực dân hóa hính thức gây nên (quá trình của các “nền độc lập”).[26]

Để làm rõ mọi việc, chúng ta hãy chú ý đến một số đặc điểm nổi bật, cả về số lượng và chất lượng. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa ngày nay, sự phân cực của các điều kiện xã hội đã được phân phối lại, nhưng không hề giảm bớt: trái lại, nó đã đạt đến mức độ chưa từng có, với một bên là sự lan rộng của tình trạng nghèo đói đại chúng và sự bất an ninh, và bên kia là sự tập trung của của cải và quyền lực trong tay một thiểu số nhỏ các nhà tài chính hoặc những người hưởng lợi. Nhưng sự phân bố theo địa lý và theo quốc gia của nó thay đổi rất nhanh. Những ranh giới chia cắt thế giới của “chủ nghĩa tư bản lịch sử” đã được vẽ lại và nhân lên. Có thể, sự thiếu thốn cùng cực vẫn tập trung ở “Phương Nam” (và đặc biệt là ở Châu Phi và Đông Nam Á[27]), nhưng cũng chính ở “Phương Nam” xuất hiện những nhà vô địch hung hăng nhất của chủ nghĩa tư bản tài chính và công nghiệp mới.

Do đó, tính mơ hồ của ý tưởng về một chiến lược “chống chủ nghĩa đế quốc” sẽ tập hợp các quốc gia và quần chúng của “Phương Nam toàn cầu”, đại diện cho lợi ích chung của họ. Nhưng ngược lại, các quá trình khiến cho đời sông bấp bênh hơn và số người bị vô sản hóa tăng lên ở “Phương Bắc”, nơi người lao động ngày càng ít được bảo vệ bởi các thể chế của “nhà nước xã hội”[28] và ngày càng ít hưởng lợi hơn từ các đặc quyền của đế chế. Chúng ta biết, điều này không thể không gây ra những phản ứng xã hội bạo lực, được gọi là “dân túy” và thật sự hoàn toàn không tiến bộ. Do đó, có “Phương Bắc” trong “Phương Nam” và có “Phương Nam” trong “Phương Bắc”, điều mà tôi lý giải khi nói rằng sự phân chia loài người thành những hoàn cảnh bất bình đẳng, đặc trưng của chủ nghĩa tư bản và gắn liền với cơ cấu của chủ nghĩa đế quốc, vẫn còn tồn tại, nhưng cái địa hình của nó – hay cái “hình học” của nó – đã trải qua một cuộc cách mạng. Đây không chỉ là vấn đề phân phối lại các đại lượng kinh tế và dân số mà còn là vấn đề phân chia thế giới mới. Tôi sẽ quay lại vấn đề này.

Tôi sẽ kết thúc điểm này bằng một khía cạnh khác của hình học này đã dẫn đến việc xác định mâu thuẫn chính (như được diễn đạt trong ngôn từ Mác xít cũ) của “chủ nghĩa đế quốc mới” này (David Harvey). Một cách có ý nghĩa, nó đưa chúng ta quay trở lại thời điểm bắt đầu lịch sử của chủ nghĩa đế quốc từ thời hiên tại. Chủ nghĩa tư bản tuyệt đối, bị chi phối bởi các chính sách tiền tệ tân tự do và chiến lược lợi nhuận ngắn hạn trên các thị trường tài chính, trao chức năng trung tâm cho việc quản lý và khai thác nợ, biến việc quản lý và khai thác này thành công cụ thống trị chính đối với các cá nhân, công ty, Nhà nước.[29]

Nhưng các quốc gia và xã hội ở hai thái cực trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về tài chính rõ ràng phản ứng với vấn đề nợ theo những cách trái ngược nhau: một khoản nợ khổng lồ (công và tư) không có cùng một ý nghĩa đối với một nền kinh tế bị thống trị như Argentina, thường xuyên bị đe dọa phá sản và bị FMI áp đặt những kế hoạch phục hồi và những cuộc cải cách cơ cấu, và đối với Hoa Kỳ vay vốn bằng đồng tiền của mình - đồng tiền mà nước này đã thành công trong việc biến nó thành đồng tiền dự trữ của thế giới - và do đó hưởng được những điều kiện dễ dàng để vay vốn gần như không giới hạn. Còn đối với các quốc gia khác (bao gồm cả các quốc gia thuộc Liên Minh Châu Âu), ở những mức độ khác nhau, chúng di chuyển giữa hai cực, phải đối phó với “tính bền vững” của khoản nợ của mình[30]. Vậy đâu là giải giải pháp mà chủ nghĩa đế quốc đương thời đưa ra cho các quốc gia mắc nợ để chúng có thể tồn tại và tiếp tục đóng góp vào quá trình “tích lũy trên quy mô toàn cầu” (S. Amin)?

Câu trả lời không thể đơn giản (và tất nhiên là tôi hoàn toàn không có tham vọng trở thành một chuyên gia trong lĩnh vực này), nhưng đối với tôi có vẻ khó bỏ qua hoặc giảm thiểu khía cạnh sau: các quốc gia này thường xuyên bị đẩy vào tình trạng trở lại với những gì vốn luôn là “đặc sản” của vùng ngoại vi kể từ thời kỳ cách mạng công nghiệp và sự phát triển của công nghệ “cacbon”, tức là nền kinh tế khai thác trong khai thác mỏ, nông nghiệp quảng canh và ngành đánh cá công nghiệp, khai thác lâm nghiệp quá mức, xuất khẩu nguyên liệu thô ở khâu đầu của chuỗi giá trị. Nền kinh tế này không dựa trên sự “hủy diệt sáng tạo” của Schumpeter (đổi mới công nghệ làm lỗi thời các quy trình hiện có và tối đa hóa cái mà Marx gọi là “giá trị thặng dư tương đối”) mà dựa trên sự sản xuất mang tính hủy diệt các nguồn lực và phương tiện của chính nó.[31]

Điều này dẫn tôi tới ý tưởng rằng mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa đế quốc đương đại vì nó trùng khớp với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tuyệt đối, không thể được xác định như là mâu thuẫn xã hội “thuần túy” (như được minh họa bởi sự gia tăng bất bình đẳng trên toàn cầu), cũng như không thể được xác định như là mâu thuẫn sinh thái “thuần túy” (trong đó chủ nghĩa khai khoáng là một yếu tố thiết yếu thông qua sự đóng góp trực tiếp của nó vào biến đổi khí hậu và cả sự liên hệ của nó với các công nghệ mới cực kỳ ô nhiễm và tiêu tốn năng lượng), mà là sự kết hợp đối kháng của cả hai.[32]

Trong một đoạn văn nổi bật của Tuyên ngôn Cộng sản, Marx và Engels đã giải thích rằng chủ nghĩa tư bản đã đạt đến giới hạn tuyệt đối với tư cách là một phương thức sản xuất khi đẩy những công nhân mà sự bóc lột khiến họ phải sống dưới mức sinh hoạt tối thiểu, do đó bắt đầu phá hủy điều kiện chính cho sự tái sản xuất của chính mình, cụ thể là lao động sống. Nhưng họ đã nghĩ ngay đến một giải pháp: “tước đoạt những kẻ tước đoạt”, hay việc công nhân chiếm đoạt lại tư liệu sản xuất và phương tiện tồn tại của họ.

Thật dễ bị cám dỗ bởi việc thấy trong xu hướng chủ nghĩa tư bản tuyệt đối ngày nay, một hình thức tự hủy diệt thậm chí còn triệt để hơn, vì không phải chỉ cuộc sống của vô số người liên tục bị hủy diệt, mà cả các điều kiện sinh học và sinh thái mà nếu thiếu đơn giản là bất kỳ cuộc sống nào (của con người hay sinh vật khác)cũng không thể tồn tại được nữa. Với chiến thắng của chủ nghĩa tư bản tuyệt đối, chính nền tảng hoạt động của nó cũng dần biến đi - dù dưới hình thái lãnh thổ, môi trường hay đế chế. Và tuy rằng ngày càng nhiều người trong chúng ta ý thức được mức độ nghiêm trọng của mối đe dọa này và sự cấp bách của việc đối đầu với nó bằng mọi cách, nhưng sự kết nối ý thức đó với các phong trào chính trị sẽ tấn công vào sự bất bình đẳng trên thế giới là điều thực tế không thể hình dung được, ít nhất là cho đến khi chính các quốc gia và các xã hội tiếp tục bị chi phối bởi quy luật lợi nhuận tối đa chứ không phải quy luật để bảo toàn sự sống.

Cả đến khi không có chương trình đáng tin cậy nào kết hợp mục tiêu giảm tăng trưởng hợp lý với mục tiêu xóa đói giảm nghèo chưa bắt đầu thành hình. Một chương trình như vậy có thể được gọi là chủ nghĩa xã hội hậu đế quốc. Nhưng dường như cả ngôn ngữ lẫn các thế lực có thể áp đặt chương trình này đều không (chưa) có. Bạn thấy rằng phần thứ hai trong bài trình bày của tôi cũng không kết thúc theo cách lạc quan hơn phần đầu tiên.

Chú thích

[*] Cựu giáo sư tại Đại học Paris-Nanterre (triết học đạo đức và chính trị, hiện là giáo sư thỉnh giảng về triết học châu Âu hiện đại tại Đại học Kingston, London. Ông cũng đã hoặc đang giảng dạy tại Hoa Kì (Columbia, UC Irvine), Algeria, Hà Lan, Mehico, Argentina và Italia.

Các tác phẩm của ông bao gồm Lire Le Capital (hợp tác với L. Althusser, P. Macherey, J. Rancière, R. Establet), François Maspéro, 1965; Race, Nation, Classe. Les identités ambigües (hợp tác với L. Wallenstein), Éditions La Découverte, 1988; và gần đây hơn Des universels. Essais et conférences, Éditions Galilée, 2016;Spinoza politique. Le transindividuel, Presses universitaires de France, 2018; Libre parole, Éditions Galilée, 2018; Ecrits I: Histoire interminable. D’un siècle l’autre, Éditions La Découverte, 2020; Ecrits II: Passion du concept, Éditions La Découverte, 2020.

Ông chủ yếu quan tâm đến lý thuyết chính trị, nhận thức luận của khoa học xã hội, nhân học triết học. Ông là thành viên của Liên đoàn Nhân quyền. Năm 2017 ông cũng nhận được Giải thưởng Hannah Arendt về Tư tưởng Chính trị do Thành phố Bremen và Quỹ Henrich Boll trao tặng.

[**] Quảng trường Tahrir là nơi tụ họp của hầu hết các cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ, chống độc tài, tham nhũng ở Ai Cập. Nó đã trở thành biểu tượng của Cách Mạng sau những cuộc biểu tình khổng lồ đã tập hợp hàng trăm nghìn người suốt tháng 1 và tháng 2 năm 2011 và trong những tháng sau đó đã dẫn đến sự lật đổ của chính quyền Moubarak – ND.

Phạm Như Hồ dịch

Nguồn:Géométries de l’imperialisme au XXIè siècle (1)”,AOC, 25.11.2024.


[1] Văn bản này là bản chuyển thể bằng tiếng Pháp của Bài giảng Tưởng niệm Edward Saïd năm 2024, được giảng tại Đại học Hoa Kỳ ở Cairo, vào ngày 2 tháng 11 năm 2024, theo lời mời của Khoa Tiếng Anh và Văn học So sánh.

[2] Giovanni Arrighi, The Geometry of Imperialism. The limits of Hobson’s Paradigm (1978), Revised Edition, with a new Afterword, Verso Editions 1983.

[3] David Harvey, The New Imperialism, Oxford University Press 2005.

[4] Xem Etienne Balibar, “Prolégomènes à la souveraineté”, in Nous, citoyens d’Europe? les frontières, l’Etat, le peuple, NXB La Découverte, Paris 2001.

[5] Văn bản nổi tiếng nhất là “La catastrophe imminente et les moyens de la conjurer/Thảm họa sắp xảy ra và các biện pháp ngăn chặn nó” có từ tháng 9 năm 1917 (ngay trước Cách mạng Tháng Mười), tiếp nối và nhấn mạnh các chủ đề được Lênin phát triển từ năm 1915 (tại Œuvres, Paris-Moscou, 1959). Tập 24.

[6] Tacite, Vie d’Agricola, 30.

[7] Phụ đề “Essai de Vulgarisation”, viết vào năm 1916 và xuất bản vào năm sau, vào tháng 4 năm 1917 giữa hai “cuộc cách mạng”. Xem Œuvres, Tập 22.

[8] Xem bài viết của tôi “Sur la catastrophe informatique: une fin de l’historicité?”, trong Les Temps Qui Restent (tạp chí trực tuyến), tháng 4 năm 2024, trong đó tôi đặc biệt đề cập đến Benjamin Bratton, The Stack. Về Phần mềm và Chủ quyền, Cambridge, NXB MIT, 2015.

[9] Carl Schmitt: Der Nomos der Erde im Völkerrecht des Jus Publicum Europaeum (1950), bản dịch tiếng Pháp Peter Haggenmacher, PUF 2012. Schmitt vận dụng một cách có hệ thống ý nghĩa kép của từ nguyên “nomos” trong tiếng Hy Lạp: luật, chia sẻ hoặc phân phối.

[10] Về sự gần gũi giữa luận điểm của Schmitt về “Grossraum” và luận điểm của Samuel Huntington về “sự xung đột giữa các nền văn minh”, xem Etienne Balibar, L’Europe, l’Amérique, la Guerre. Réflexions sur la médiation européenne, NXB La Découverte, Paris 2003, Éclaircissement n° VIII.

[11] Điều đáng chú ý là trong cùng năm đó, một ý tưởng tương tự đã được đề xuất bởi Hannah Arendt (Les Origines du Totalitarisme) và Aimé Césaire (Discours sur le colonialisme).

[12] Ở đây tôi tự phân biệt mình một phần với luận điểm của Éric Alliez và Maurizio Lazzarato (đã lấy cảm hứng từ tác phẩm của Antonio Negri và Michael Hardt: Empire and Multitude, 2000-2004) trong Guerres et capital, NXB Amsterdam, 2016, đồng thời lấy cảm hứng trực tiếp từ tác phẩm này.

[13] Không có đế chế nào không tập trung vào một quốc gia tự coi mình là “Đại quốc” (biểu hiện của Cách mạng Pháp đương đại về cuộc đối đầu với liên minh quân chủ và cuộc viễn chinh đến Ai Cập), hoặc được ban cho một vận mệnh hiển nhiên là chinh phục lục địa (1845: sáp nhập Texas và chiến tranh Mỹ-Mexico). Đây sẽ là chủ đề của một nghiên cứu đặc biệt. Xem thêm các khái niệm về “Greater Britain”, Grossdeutschland, “Monde russe”, v.v.

[14] Tôi mượn khái niệm này từ Mohamed Amer Meziane: Des empires sous la terre. Histoire écologique et raciale de la sécularisation, NXB La Découverte, Paris 2021. Xem thêm cuộc phỏng vấn với Emir Mahieddin: “Pour une anthropologie de l’impérialité”, trong Journal des anthropologues, 170-171, 2022.

[15] Bản dịch tiếng Pháp của E. P. Thompson và cộng sự, L’exterminisme. Armement nucléaire et pacifisme, Paris PUF 1983. brochure

[16] Công thức này xuất hiện trong “brochure de Junius”, La crise de la social-démocratie, được Rosa Luxemburg viết trong tù năm 1915.

[17] Xem: Samir Amin, L’accumulation à l’échelle mondiale (Anthropos, 1970); Immanuel Wallerstein: Historical Capitalism. London: Verso.1883; The Modern World-System, 4 vol. nhiều nhà xuất bản khác nhau, 1974-2011); Giovanni Arrighi: The Long Twentieth Century, Verso 1994.

[18] Như Marx đã nói trong ấn bản đầu tiên của cuốn Tư bản hướng tới người Đức và nói chung là tới các quốc gia chưa trải qua cuộc cách mạng công nghiệp: De te fabula narratur/Câu chuyên này cũng liên quan đến bạn (độc giả) … trong phân tích này về “mối quan hệ xã hội” do công nghiệp tư bản tạo ra, đó là về sự tương lai gần hoặc xa của chính bạn. Một ngày nào đó thế giới sẽ bị đồng nhất hóa dưới sự thống trị của tư bản, trừ khi trong khoảng thời gian đó xảy ra một cuộc cách mạng vô sản.

[19] Tôi đặc biệt nghĩ đến các tác giả người Pháp của “trường phái điều tiết”: Michel Aglietta, Robert Boyer, Alain Lipietz. Nhưng hãy xem thêm Geoff Mann, In the Long Run We Are All Dead: Keynesianism, Political Economy, and Revolution, Verso, 2017.

[20] Interregnum theo Gramsci, được ông định nghĩa bằng một phủ định kép: “Cái cũ đã chết, cái mới chưa ra đời”, ngày nay được trích dẫn ở khắp mọi nơi. Sự đối lập giữa cũ và mới dường như luôn bị chi phối bởi ý tưởng về mục tiêu hoặc một mục tiêu “đang chờ xuất hiện”, nhưng chính sự kỳ vọng này có thể ảnh hưởng đến nội dung của nó.

[21] Có lẽ thú vị nhất là ý tưởng có thể đọc được giữa những dòng trong Cahiers de la prison: chế độ Xô viết được Stalin tổ chức lại sau khi “Chính sách kinh tế mới” kết thúc và việc tập thể hóa nông nghiệp cưỡng bức cũng là một hình thức “cách mạng thụ động”.

[22] “The World Turned Upside Down”: Công thức của nhóm Levellers trong Cách mạng Anh lần thứ nhất. Xem đóng góp của tôi trong Une histoire Globale des Révolutions, dưới sự chủ biên của Ludivine Bantigny, Laurent Jeanpierre và cộng sự, NXB La Découverte 2023: “Échec des révolutions?”.

[23] Etienne Balibar: “Towards a new critique of political economy: from generalized surplus-value to total subsumption”, in Capitalism, concept, idea, image. Aspects of Marx’s Capital today, edited by Peter Osborne, Eric Alliez, Eric-John Russell, Kingston University London 2019; “Absolute Capitalism”, in Mutant Neoliberalism. Market Rule and Political Rupture, William Callison and Zachary Manfredi editors, Fordham University Press, 2020.

[24] Đây rõ ràng là sơ đồ được ưa chuộng bởi các “nhà lý thuyết” của chủ nghĩa đế quốc mới (như Hayek, Friedmann, v.v.), những người đã trình bày chính sách kinh tế và “cải cách cơ cấu” mà họ chủ trương là sự quay trở lại tính chính thống kinh tế, trái ngược với những phái dị giáo lấy cảm hứng từ Keynes và “nghiêng” theo Chủ nghĩa Bolchévik (kế hoạch hóa, đầu tư công, kiểm soát giá cả, đảm bảo quyền xã hội, v.v.).

[25] Xem Giovanni Arrighi, Adam Smith in Beijing. Lineages of the 21st Century, Verso 2009, và Benjamin Bürbaumer, Chine/États-Unis. Le capitalisme contre la mondialisation, NXB La Découverte, Paris 2024.

[26] Đây là chủ đề trong công trình của Sandro Mezzadra và Brett Neilsson từ Border as Method, or the Multiplication of Labor (Duke University Press 2013) đến The Politics of Operations. Excavating Contemporary Capitalism (Duke University press, 2019).

[27] Một dấu hiệu ngoạn mục về điều này đã được đưa ra trong đại dịch Covid-19 qua tuyên bố của Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, Tiến sĩ Tedros Adanom Ghebreyesus, tố cáo tình trạng “phân biệt chủng tộc về vắc xin” trên quy mô toàn cầu (xem bài tiểu luận của tôi “Un monde, une santé, une espèce. Pandémie et cosmopolitique”, in Ecrits, III: Cosmopolitique. Des frontières à l’espèce humaine, NXB la Découverte 2022.

[28] Điều mà tôi gọi chính xác hơn là: “Nhà nước xã hội quốc gia.”

[29] Etienne Balibar, “Politics of the Debt”, in Postmodern Culture, Volume 23, Number 3, May 2013.

[30] Tình hình của Trung Quốc một lần nữa lại khá đặc biệt vì trong nhiều năm, tuy là nạn nhân của những “bong bóng” đầu cơ bất động sản, Trung Quốc cũng là chủ sở hữu chính trên thị trường tài chính của các chứng khoán Mỹ (trái phiếu Nhà nước), điều này mang lại cho nước này khả năng tác động từ bên trong đến các chính sách của Mỹ, nhưng cũng có thể giải thích tại sao Trung Quốc cũng không có lợi ích gì để làm lung lay sự thống trị của đồng đô la (điểm này còn gây nhiều tranh cãi: xem Michel Aglietta, Guo Bai, Camille Macaire: La Course à la suprématie monétaire mondiale. À l’épreuve de la rivalité sino-américaine, NXB Odile Jacob, Paris 2022).

[31] Verónica Gago vầ Sandro Mezzadra: “A Critique of the Extractive Operations of Capital: Toward an Expanded Concept of Extractivism”, Rethinking Marxism, 29, no. 4, 2017.

[32] Chúng ta cũng có thể nghĩ đến khái niệm “đa khủng hoảng” như Adam Tooze và những người tiếp nối ông gần đây đã nhấn mạnh, nhưng theo cách “nhìn từ bên dưới”.

Print Friendly and PDF