HỒI ỨC ĐẾN
TƯƠNG LAI
Trần Văn Thọ
Nguyễn Xuân Xanh giới thiệu

Nếu được sống lại cuộc đời mình một lần nữa,
tôi sẽ
đặt ra quy định là phải đọc một vài bài thơ
và nghe một vài bản nhạc ít nhất một
lần mỗi tuần.
— Charles Darwin
Lời dẫn nhập
Quyển sách Hồi Ức Đến
Tương Lai đã đưa ra hình ảnh trung thực và rõ nét hơn bao giờ hết về
cuộc hành trình, đời sống văn hóa, bao gồm thi ca, âm nhạc, hồi ức, lịch sử,
giáo dục pha lẫn tư duy kinh tế, tầm nhìn cho Việt Nam, những giá trị cần phải
sống, của tác giả Trần Văn Thọ. Anh không chỉ là một chuyên gia, một giáo sư
kinh tế của trường Waseda hàng đầu Nhật Bản, mà còn tỏ ra có tính cách đượm
tính nhân văn. Anh không phải chỉ leo lên những bậc thang khoa học, mà còn
trên đường đi tắm nước suối của thi ca và trải lòng với nhân thế. Dưới đây tôi
xin bàn một chút về một khía cạnh: cuộc sống tinh thần đa dạng của một nhà khoa
học, ở đây qua thi ca.
Anh Trần Văn Thọ như con một chim
không muốn hót chỉ ở một góc rừng, dù là nơi sang trọng, mà cho cả cánh rừng.
Anh không phải chỉ là “chuyên gia” đơn thuần, mà còn là con người nhân văn với
nhiều khía cạnh khác của đời sống tinh thần và nội tâm phong phú. Anh không
đóng khung mình vào chuyên môn đơn thuần để rồi có thể héo mòn ở đó. Anh là một
con người sống với totality của bản chất người một cách sống động.
Thi ca, văn hóa chính là chất sống, nhựa sống của anh.
Wolfgang von Goethe từng có hai
câu thơ rất hay (và ông có nhiều những câu thơ như thế):
Nếu bạn muốn
tiến về miền vô cực,
Hãy đi
trong hữu hạn về mọi hướng.
(Willst du ins
Unendliche schreiten,
Geh nur im
Endlichen nach allen Seiten.)
Ý tưởng nói lên triết lý giáo dục thời W. von Humboldt, Bildung — Giáo dục toàn diện, theo tinh thần của Tân-nhân văn. Goethe nói về Johann Georg Hamann, nhà tư tưởng của phong trào lãng mạn Đức: “Mọi thứ con người cố gắng đạt được đều phải xuất phát từ tất cả sức mạnh của mình kết hợp lại; mọi thứ đứng riêng lẻ là sai lầm.” Đó là sức mạnh tổng hợp của chủ nghĩa nhân văn.
Các nhà khoa học, tư tưởng lớn đều
là những con người như thế cả, Newton, A. Smith, Planck, Einstein, Heisenberg,
Schrödinger. Văn hóa, nghệ thuật, âm nhạc… đều là nhựa sống. Nói một cách tượng
trưng, một tay cầm bút một tay cầm đàn? Cuộc sống mà không có âm nhạc là một Irrtum,”sai
lầm” như Nietzsche nói. Họ không chịu sống khuất phục dưới những quy luật
phiến diện, ngay của lý tính, và khoa học. Họ không muốn là những chatbot thông
minh. Họ muốn là con người. Họ muốn sống thi vị (Hölderlin). Họ muốn đi về mọi
hướng như Goethe quan niệm. Trong mỗi con người cư ngụ một “thế giới khủng khiếp”
(Kafka) của năng lượng mà con người có thể từ đó tạo hình những tác phẩm vĩ đại.
Nhưng phần đông con người đã tự bỏ quên nó, bỏ quên ông Phật vàng ở chiều sâu để
chọn ông Phật đất trên mặt, nói như Thiền sư Jack Kornfield.
Đa phần con người muốn có hạnh
phúc, sự mãn nguyện, hòa bình trong cuộc sống. Nhưng cuộc sống không phải chỉ
có những giá trị “phàm trần” như thế. Nếu thế thì sẽ chẳng có Galilei, Newton,
Einstein, da Vinci, Michelangelo, Shakespeare, Goethe, Van Gogh. Có những người
khao khát mãnh liệt muốn sống khác đi, muốn thấy mọi khả năng thiên phú thôi
thúc bên trong của mình đều được phát huy và thực hiện dù phải chịu những thử
thách cam go. Họ muốn hiện diện bằng tác phẩm, dấu ấn, ý tưởng,
trên thế giới này. Họ muốn sống như một freier Künstler — nghệ
sĩ tự do. Nếu chỉ giam mình trong một khu vườn có đầy đủ những loại hạnh phúc
nói trên, có cả khoa học và triết học, thì đó là sự chấm dứt của cuộc sống của
anh ta. Đó không phải sống. Nếu xóa bỏ óc fantasy và ham muốn sáng tạo thì giống
như một kẻ “sát nhân” đối với chính mình. Con người “sinh ra theo hình ảnh
của Chúa”, nên có tất cả sự phong phú của Chúa, chứa đựng bên trong như kho
báu.
Charles Darwin vào cuối đời tỏ ra
rất hối hận là đã đánh mất những cảm xúc thi ca, âm nhạc mà ông từng có lúc còn
trẻ. Người ta thuật lại,
Giữa các giờ học về Euclid, cậu thiếu niên Charles ngồi hàng giờ đọc thơ Wordsworth, Coleridge, Shelley, Byron, Shakespeare, Milton. Sau đó, khi chỉ có thể mang theo một cuốn sách duy nhất trong chuyến hải hành của mình, Darwin đã mang theo cuốn Thiên đường đã mất (Paradise lost, John Milton).
Nhưng có lẽ ông đã một lần uống
nước giếng thi ca “no nê” đủ chất cho cả đời để rồi trên cuộc du hành vạn dặm
chinh phục khoa học gian khổ, ông không không thấy mình thiếu thốn explicit nữa.
Thi ca đã đi vào tiềm thức và trú ngụ ở đó để nuôi dưỡng tâm hồn ông một cách
vô thức. Ông cảm thấy yên tâm, và không còn thiếu thốn trên cuộc hành trình.
Trong khi đó, anh Trần Văn Thọ vẫn tiếp tục và tiếp tục chăm thêm bình rượu ấm
văn hóa của anh.
Xem thêm chi tiết ở đây về
Charles Darwin, một sự luyến tiếc:
https://rosetta.vn/nguyenxuanxanh/tiec-nuoi-lon-nhat-cua-darwin/
Chắc chắn Darwin sẽ rất vui mừng
và ganh tị với quyển sách mới của anh Trần Văn Thọ. Mặt khác, trong chừng mực,
anh Thọ cũng có phần nghiêng về Phong trào
lãng mạn Đức, nếu không muốn nói anh cũng chính là thành viên.
Xin xem Báo Tuổi Trẻ,
có lịch các buổi ra mắt sách của anh Thọ:
Cảm ơn anh chị. Tôi chỉ có vài lời
từ cảm hứng như thế. Chắc chắn còn rất nhiều điều để viết về một nghệ
sĩ tự do, anh Trần Văn Thọ của chúng ta. Tôi xin giới thiệu Hồi ức
đến tương lai nồng nhiệt đến bạn đọc, nhất là các bạn trẻ, để khi
nào bận bịu thì vẫn nhớ phần văn hóa cho cuộc hành trình của mình như nhựa sống.
Tôi đã từng thiếu thốn nó đến khủng hoảng, nên giống như chú ốc hermit đi tìm
cái vỏ văn hóa mới để chui vào nương thân. Có thể gọi đó là cách làm disruptive
của tôi, trong khi cách làm của anh Thọ là organic, dễ thấy hơn.
Xin cảm ơn anh Thọ đã cho độc giả
Việt Nam một quyển sách rất có giá trị và truyền cảm hứng chứa đựng nhiều motif,
nội dung thi vị và được viết rất công phu. Tác phẩm có thể được xem là một autobiography của
anh, thành công xuất sắc.
Chắc chắn có nhiều thiếu sót của
tôi, xin anh chị miễn thứ.
Thân mến,
Nguyễn Xuân Xanh
Bìa sau và tay gấp
MỤC LỤC
Vài hồi tưởng và lời cảm ơn
Đọc Trần Văn Thọ (Hà Dương Tường)
Đại sứ Nhật Bản Umeda Kunio phát
biểu về Trần Văn Thọ
Phần I Nhớ về kỷ
niệm
Ông nội tôi
Người anh kết nghĩa thuở hàn vi
Tập vở Quốc Văn theo thầy giáo suốt
30 năm
Những kỷ niệm về sách
Tìm lại dấu xưa Tự lực văn đoàn
Thuở chép thơ Đinh Hùng
Gặp những câu thơ hay
Chiều mưa biên giới ở hai đầu đất
nước
Nhớ lại một thời Bolero
Kandagawa dòng sông đi vào thi ca
Nhật Bản
Kỷ niệm với tình khúc Người yêu dấu
ơi
Câu thơ hy vọng vượt đại lục
xuyên thế kỷ
Tiếng thu Việt Nam và Tiếng thu
Nhật Bản
Lần đầu viết báo, viết sách tại
Nhật
Hai mươi năm với một tuần báo
kinh tế
Một đầu xuân khai bút
Bài giảng cuối cùng ở Đại học
Waseda
Có hai quê hương để về
Phần II Gương sáng
xưa nay
Xác lập tinh thần Nguyễn Trãi
trong quan hệ Việt Trung
Từ xuân Quang Trung đến Thế kỷ 21
Thời bình của Trần Hưng Đạo và Võ
Nguyên Giáp
Tinh thần Võ Văn Kiệt
Tưởng nhớ Giáo sư Phan Huy Lê
Kỷ niệm với Giáo sư Okita Saburo
và quá trình hình thành VAPEC
Kỷ niệm với nhà văn Võ Hồng
Kỷ niệm với nhà thơ Việt Phương
Anh Trần Đức Nguyên: Công tâm,
trí tuệ, tình cảm
Giáo sư Cao Huy Thuần và xứ Quảng
Tiếc thương bạn quý Huỳnh Bửu Sơn
Đọc hồi ký Phan Chánh Dưỡng
Đọc hồi ký Võ Quang Huệ
Phần III Những nẻo đường
gần xa
Văn hóa, nhân cách lãnh đạo và vận
mệnh đất nước
Tốc độ xoay chuyển vận mệnh đất
nước
Cuộc cách mạng Tháng tư đã cứu
LDP Nhật Bản
Nhà nước pháp quyền và quốc gia
thượng đẳng
Anh hùng trong thời đại phát triển
Quan chức Nhật khi công du nước
ngoài
Tinh thần võ sĩ đạo Nhật Bản
Dịch thuật và tinh thần cầu học
thời Minh Trị
Lãnh đạo và trí thức
Một trăm bao gạo vì sự nghiệp
giáo dục
Một đại học tư lý tưởng thời Minh
Trị
Tính ưu việt của Đại học Harvard
Câu chuyện tầu Titanic và thư viện
ở Harvard
Trường Tiểu học Junko và tôi
Shibusawa Eiichi: Đỉnh cao tinh
thần doanh nghiệp
Văn hóa kinh doanh
Từ Maybach 62 nghĩ về Matsushita
Konosuke
Mùa nhân sự tại một tổ chức Nhật
Bản
Đọc hồi ký Abe Shinzo
Hoàng Sa bị ngụy tạo lịch sử
Bài học minh định chủ quyền biển
đảo
Việt Nam cần nhìn thế giới rộng
hơn
Phong trào Đông Du xưa và nay
Từ Tokyo nhìn lại 40 năm
Từ Seoul nhìn về Việt Nam
Chút tâm tình với ASEAN
Một thoáng Manila
Olympic và sức mạnh quốc gia
Vị trí của Việt Nam trong đối ngoại
Nhật Bản
Phần IV Để đất nước
đi lên
Nhà nước kiến tạo phát triển
Nghệ thuật xây dựng, thực thi
chính sách
Thi tuyển quan chức nhà nước
Tự trọng của quan chức
Đào tạo và cấp bằng tiến sĩ: Ý kiến
từ 1997
Giáo dục đại học: Ý kiến từ 1997
Đổi mới sáng tạo và nhân tài người
Việt ở nước ngoài
Đả phá một cách sáng tạo
Tinh thần dân tộc của doanh nhân
Kinh tế tự chủ trong thời đại mới
Suy nghĩ về vấn đề an ninh kinh tế
Điều chỉnh hội nhập và củng cố nội
lực
Quan hệ Việt Trung thời đại mới
Thoát Á xưa và nay
Sức mạnh cứng, sức mạnh mềm
Một xã hội nhân văn
Văn hóa thuốc lá
Điều kiện của một đô thị lý tưởng
Đạo đức và kinh tế thị trường
Phát triển và hạnh phúc
Lời bạt: Phạm Chi
Lan, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Nam, Nguyễn Hồng Sơn, Phúc Tiến, Huỳnh Văn Hoa.
Tổng luận
HỒI ỨC ĐẾN
TƯƠNG LAI
Trần Văn Thọ
Xong trung học, vào đại học khoảng
nửa năm là tôi rời Việt Nam sang Nhật Bản du học vào mùa hoa anh đào năm 1968.
Học xong, do thời thế đẩy đưa, tôi ở lại Nhật nghiên cứu và giảng dạy nhưng rất
may là vẫn gắn bó mật thiết với quê hương, đất nước nơi mình sinh ra và lớn
lên. Từ thuở ra đi đến nay đã hơn nửa thế kỷ. Lúc đi mang theo tâm tình của một
đất nước còn nghèo khó trong chiến tranh nên trong suốt thời gian dài, mối quan
tâm lớn nhất của tôi là làm sao để Việt Nam phát triển, điều kiện để một nước
phát triển là gì. Hiện nay, Việt Nam đã thành nước thu nhập trung bình và có mục
tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Do đó, mối quan tâm lúc này
của tôi là đi tìm hình ảnh lý tưởng của một nước phát triển, làm sao xây dựng một
đất nước mà người dân có đời sống cao, hạnh phúc và được thế giới nể trọng.
Cuốn sách này tập hợp những bài
viết trên báo trong vài chục năm qua (lần này có cập nhật thông tin và bổ sung)
thuộc nhiều đề tài khác nhau nhưng ngẫu nhiên là phần lớn các bài viết có thể
phân thành hai nhóm, tương ứng với mối quan tâm của tôi trong nửa thế kỷ qua
(tìm điều kiện phát triển) và quan tâm hiện nay liên quan tầm nhìn về tương lai
của Việt Nam (hình ảnh lý tưởng của một đất nước phát triển). Nói là ngẫu nhiên
nhưng chắc trong tiềm thức luôn ẩn hiện hai vấn đề ấy nên đã thể hiện trong khi
chọn đề tài viết cho các báo ở Việt Nam và có kết quả như thế. Ngoài ra có nhiều
bài viết về kỷ niệm, về thơ văn, về tiền bối và bạn bè nhưng tất cả đều gói
ghém tâm tình về quê hương thời chưa phát triển hoặc trên đường phát triển.
HỒI ỨC HÀNH TRÌNH NỬA THẾ KỶ: TỪ TÂM
TÌNH VỚI QUÊ HƯƠNG ĐẾN NGHIÊN CỨU TÌM ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN
Tôi sinh ra ở nông thôn miền
Trung, một trong những vùng nghèo của đất nước. Thời tôi còn nhỏ, thập niên
1950 và 1960, cha mẹ, bà con và hàng xóm ai cũng đầu tắt mặt tối, vất vả ngoài
đồng ruộng. Mùa đông gió rét mặc không đủ ấm, mùa hè nóng không ngủ được. Qua
sách vở, tôi cũng thấy những hình ảnh đó ở hầu hết các vùng khác của đất nước.
Từ nhỏ, tôi biết nhiều nhạc khúc ca tụng đồng quê, nhưng phần lớn nói lên cuộc
sống nghèo khó của người dân Việt Nam. Những ca khúc như Nắng lên xóm
nghèo, Quê nghèo, Tình nghèo, v.v. đều phản ánh tình trạng đó. Tôi luôn
mong đất nước sẽ phát triển, người dân được sống ấm no, hạnh phúc. Tôi nghĩ
mong ước đó cũng thể hiện lòng yêu quê hương đất nước một cách cụ thể. Thời
trung học, đọc tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh, qua suy
nghĩ của nhân vật Dũng, tôi bắt gặp một định nghĩa về lòng yêu nước rất phù hợp
với mục tiêu phát triển cần có của Việt Nam lúc ấy: “Chiều hôm ấy, Dũng như cảm
thấy tâm hồn của đất nước, mà biểu hiện cho đất nước ấy không phải là những bậc
vua chúa danh nhân, chính là đám dân hèn không tên không tuổi. Dân là nước. Yêu
nước chính là yêu chung đám thường dân, nghĩ đến sự đau khổ của đám thường
dân”. Đây là định nghĩa về lòng yêu nước rất hay, rất thiết thực, in sâu vào
tâm trí tôi, cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ gần như nguyên văn.
Chính vì bối cảnh này, khi sang
Nhật, tôi chọn học ngành kinh tế, chuyên ngành kinh tế phát triển và kinh tế quốc
tế. Dần dần, qua các nguyên lý và mô hình lý luận cơ bản, tôi hiểu được các điều
kiện sơ đẳng để một nền kinh tế phát triển. Các yếu tố sản xuất như lao động, đất
đai và tài nguyên cần được sử dụng có hiệu suất, phải đầu tư, tích lũy tư bản,
áp dụng công nghệ để tăng năng suất lao động. Một nước nông nghiệp muốn phát
triển phải công nghiệp hóa mới chuyển lao động dư thừa từ nông sang công nghiệp,
điều kiện để năng suất lao động toàn xã hội tăng lên, để sản xuất đa dạng các mặt
hàng nâng cao mức sống dân chúng và thay đổi cơ cấu ngoại thương. Để công nghiệp
hóa, phải có công nghệ, phải tích lũy tư bản qua đầu tư hạ tầng của chính phủ
và đầu tư sản xuất của doanh nghiệp. Là nước đi sau, Việt Nam có thể tận dụng vốn
và công nghệ nước ngoài để phát triển nhanh. Ngoài ra, phải đẩy mạnh giáo dục
và đào tạo mới biến lao động nông nghiệp giai đoạn thấp thành lao động công
nghiệp và chất lượng lao động phải ngày càng cao mới chuyển dịch cơ cấu công
nghiệp lên cao. Mặt khác, thị trường các yếu tố sản xuất như vốn, đất đai và
lao động phải phát triển lành mạnh để phân bổ các nguồn lực ấy đến các ngành,
các lĩnh vực có năng suất cao.
Học tập và làm việc tại Nhật, tôi
được chứng kiến giai đoạn phát triển thần kỳ của nước này và hiện tượng lan tỏa
kinh tế từ Nhật sang Hàn Quốc, Đài Loan, rồi đến một số nước ASEAN và Trung Quốc,
tạo nên vùng kinh tế năng động châu Á-Thái Bình Dương. Việt Nam nằm giữa vùng
năng động này, nhưng chỉ từ khi có đổi mới chuyển sang thể chế kinh tế thị trường,
chúng ta mới có điều kiện tham gia vào quá trình phân công quốc tế này. Trong bối
cảnh đó, tôi xuất bản các cuốn Công nghiệp hóa Việt Nam trong thời đại
châu Á-Thái Bình Dương (Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, 1996) và Biến
động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt Nam, (Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia phát hành năm 2005, và Nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 2006), đồng
thời kiến nghị trong Tổ Tư vấn cải cách kinh tế và hành chính của Thủ tướng Võ
Văn Kiệt, sau đó là cộng tác trong Ban nghiên cứu chính sách của Thủ tướng Phan
Văn Khải. Để thúc đẩy giao lưu học thuật và nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển
của các nước trong vùng, tôi đã vận động thành lập Trung tâm Kinh tế châu
Á-Thái Bình Dương Việt Nam (VAPEC) năm 1993 (bắt đầu vận động năm 1989, chỉ vài
năm sau khi công cuộc đổi mới bắt đầu).
Tuy nhiên, Việt Nam tiến hành cải
cách quá chậm, một phần do một số lãnh đạo lo ngại phát triển chệch hướng, nhiều
quan chức thì muốn duy trì những lợi ích từ thể chế cũ. Việt Nam để bỏ lỡ nhiều
thời cơ nên thành quả phát triển bị hạn chế nhiều. Trong khi các nước chung
quanh, nhất là Trung Quốc, phát triển mạnh mẽ. Trong bối cảnh đó, tôi đã viết
hai cuốn sách tiếp theo: Việt Nam từ năm 2011: Vượt lên sự nghiệt ngã của
thời gian (Nhà xuất bản Tri Thức, 2011) và Cú sốc thời gian và
kinh tế Việt Nam (Nhà xuất bản Tri Thức, 2015). Cả hai cuốn sách đều
nhấn mạnh yếu tố thời gian, cho thấy các nước chung quanh đi rất nhanh, trong
khi Việt Nam vẫn chậm chân vì bị các yếu tố thể chế ràng buộc. Hai cuốn sách
này cũng bàn về các nguy cơ như bẫy thu nhập trung bình, tình trạng “chưa giàu
đã già”, FDI và phân hóa nền kinh tế (nội lực yếu nhất là doanh nghiệp trong nước
yếu nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào tư bản nước ngoài), v.v..
Ở phần trên, tôi đã bàn về các điều
kiện để kinh tế phát triển, như công nghiệp hóa, tích lũy tư bản, v.v.. Thoạt
nhìn, những vấn đề này có vẻ không phức tạp, hầu như nước nào cũng có thể phát
triển nếu thỏa mãn các điều kiện tưởng như đơn giản ấy. Nhưng trên thực tế, hiện
nay (năm 2022), chỉ có 16% dân số sống thế giới sống ở những nước phát triển
tiên tiến với thu nhập cao, trong khi tới 50% dân số thuộc những nước thu nhập
thấp và trung bình thấp. Tình hình đi chậm của Việt Nam nói trên cũng cho thấy
câu chuyện phát triển kinh tế không đơn giản.
Thế là tôi suy nghĩ về những điều
kiện sâu xa hơn, cơ bản hơn của phát triển, những điều kiện thuộc phạm trù văn
hóa, tình tự, khát vọng, hoài bão. Nghiên cứu trường hợp Nhật Bản, tôi rút ra một
khái niệm tổng hợp nhất: năng lực xã hội. Năng lực xã hội là
năng lực và tố chất của các nhân tố cấu thành xã hội, cụ thể là chính trị gia,
quan chức, lãnh đạo kinh doanh, trí thức và tầng lớp lao động. Mỗi nhân tố này
phải có những tố chất nào để thúc đẩy kinh tế phát triển. Dĩ nhiên, tố chất
quan trọng của chính trị gia là năng lực lãnh đạo, của quan chức là năng lực quản
lý hành chính, của giới kinh doanh là tinh thần doanh nghiệp. Nhưng trong trường
hợp Nhật Bản, không phải chỉ có các tố chất đó. Tôi nghiệm thấy rằng tố chất
chung nhất của chính trị gia, của quan chức, của nhà kinh doanh Nhật Bản là
lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc và phải là những người có văn hóa, có giáo
dưỡng. Tố chất này biểu hiện rất rõ qua những câu chuyện về lãnh đạo chính trị,
quan chức, và những nhà kinh doanh tiêu biểu thời Minh Trị, cũng như thời phục
hưng hậu chiến và khởi đầu giai đoạn phát triển thần kỳ 1955-1973.
Hàn Quốc cũng vậy nên đã làm nên
kỳ tích phát triển. Lúc bắt đầu kế hoạch phát triển (năm 1962) của một trong những
nước nghèo nhất thế giới đến khi trở thành thành viên của tổ chức các nước tiên
tiến (1996), Hàn Quốc chỉ mất có 35 năm! Nếu kể từ khi Chiến tranh Triều Tiên
chấm dứt thì cũng chỉ 43 năm.
Hàn Quốc thành công vì hai yếu tố
chính. Thứ nhất, ngay từ đầu đã có ngay sự đồng thuận của xã hội
về sự cần thiết phải phát triển, phải theo kịp các nước tiên tiến, nhất là theo
kịp Nhật (nước láng giềng từng đô hộ mình). Để có sự đồng thuận, năng lực, ý
chí và chính sách của lãnh đạo chính trị là quan trọng nhất. Dù dưới chế độ độc
tài (trước năm 1987), quyết tâm phát triển của lãnh đạo chính trị được thể hiện
bằng các chiến lược và chính sách do lớp kỹ trị xây dựng, quan chức được tuyển
chọn theo năng lực, người tài được trọng dụng. Thứ hai, Hàn Quốc
đã thực hiện công nghiệp hóa trên cơ sở của học tập (industrialization on the
basis of learning). Học tập nước ngoài và học tập để có điều kiện chuyển dịch
cơ cấu kinh tế lên cao, đưa vị trí đất nước lên cao trên vũ đài thế giới. Quả
đúng như vậy, nếu ta khảo sát nỗ lực của chính phủ trong giáo dục, đào tạo,
trong việc tạo ra cơ chế để đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ, và nỗ lực
của doanh nghiệp trong quá trình học hỏi nước ngoài, sẽ thấy là phi thường.
Những điểm chung của Nhật Bản và
Hàn Quốc hay những nước đi sau khác thành công trong quá trình công nghiệp hóa
đều có những đặc điểm như sau:
Một là, lấy chủ nghĩa dân
tộc để xác định vị trí của mình trên thế giới, để đề ra chiến lược có lợi nhất
cho đất nước mình và để động viên toàn dân hướng vào chiến lược đuổi kịp các nước
đi trước.
Hai là, đề cao chủ nghĩa
phát triển (developmentalism), xem việc phát triển kinh tế là mục tiêu tối thượng,
là con đường duy nhất để đưa đất nước thoát khỏi những nguy cơ trước mắt và lâu
dài. Từ nhận thức đó, các chiến lược, chính sách, biện pháp về chính trị, xã hội,
và kinh tế đều tập trung vào việc phát triển. Trong quá trình đó, tầng lớp lãnh
đạo phải là những người yêu nước thực sự, có năng lực lãnh đạo, thanh liêm, được
đông đảo các tầng lớp nhân dân tin tưởng.
Ba là, tầng lớp trí thức,
kỹ trị (technocrats) có năng lực trong việc đề ra các chiến lược phát triển,
các biện pháp thực hiện chiến lược phát triển được trọng dụng, được trao quyền
hạn và trách nhiệm cao, được tôn vinh trong xã hội. Chính sách trọng dụng nhân
tài ở đây loại trừ tất cả các quan hệ họ hàng, huyết thống, bản vị địa phương
và giai tầng xuất thân trong xã hội.
Với suy nghĩ về yếu tố cốt lõi nhất
của phát triển, khi bàn chuyện Việt Nam, tôi cũng thường nối kết lịch sử, văn
hóa với phát triển. Chẳng hạn, trong bài viết vào buổi chuyển giao giữa hai
thiên niên kỷ, tôi tổng kết thiên niên kỷ trước là thời đại giữ nước, biểu hiện
bằng khí thế Quang Trung qua câu nói nổi tiếng “đả cho sử tri nam quốc anh hùng
chi hữu chủ”. Trong thiên niên kỷ mới, bắt đầu thế kỷ 21 là thời đại phát triển
và tôi đề khởi một khẩu hiệu mới để đối lại với câu nói của Quang Trung: Phát
triển cho thế giới biết người Việt Nam là dân tộc có trí tuệ.
Từ đầu năm 1994, Việt Nam nhấn mạnh
nguy cơ tụt hậu, xem đây là nguy cơ lớn nhất trong tất cả các nguy cơ. Ở đây
hàm chứa ý thức dân tộc và chiến lược ưu tiên phát triển. Đây là một ý thức, một
chiến lược đúng đắn. Bước vào thiên niên kỷ mới, ta có thể dấy lên một phong
trào mới trong dân chúng nhằm vào mục tiêu phát triển đất nước, rút ngắn khoảng
cách kinh tế với các nước chung quanh.
Đoạn kết trong bài viết chuyển
giao thiên niên kỷ nói trên là: Năm 1010, Lý Thái Tổ trong giấc mơ đã thấy rồng
bay. Ta phải làm sao để khi kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long (2010), cả dân tộc sẽ
thực sự thấy mình sắp hóa rồng trong phát triển kinh tế. Muốn vậy, ta sớm tạo
ra một khí thế Quang Trung nước lũ tràn[1] trong thời đại
mới, chúng ta phải thành công thời đại công nghiệp hóa, phải phát triển cho thế
giới biết người Việt Nam là dân tộc có trí tuệ.
Trong thời đại chống ngoại xâm,
Việt Nam có rất nhiều anh hùng nhưng trong thời đại phát triển, rất tiếc là ta
chưa thấy xuất hiện hoặc chưa phát hiện được những anh hùng mới. Tôi đã viết
nhiều bài về trường hợp của Nhật Bản. Đoạn cuối trong bài viết về anh hùng
trong thời đại phát triển, tôi có giấc mơ về anh hùng của Việt Nam thời đại mới
như sau: Các anh hùng dân tộc thời nhà Trần đã lập nên những chiến công hiển
hách, đuổi được quân Nguyên ra khỏi bờ cõi, làm nức lòng người dân. Hai câu thơ
của Trần Nhân Tông đã phản ảnh không khí hồ hởi kéo dài nhiều năm tháng: “Người
lính già đầu bạc/Kể mãi chuyện Nguyên phong”. Tôi mong rằng hai, ba
mươi năm nữa, những quan chức, những vị lãnh đạo đầu đã bạc ngồi ở quán cà phê
bên Hồ Hoàn Kiếm, trò chuyện về những ngày mà thời trung niên của họ đã hết
lòng vì nước, vì dân, giúp Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình, gia nhập
hàng ngũ những nước giàu mạnh trên thế giới.
HƯỚNG VỀ TƯƠNG LAI: XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG
LÝ TƯỞNG VỀ MỘT ĐẤT NƯỚC PHÁT TRIỂN
Sau đổi mới, kinh tế
Việt Nam phát triển trung bình 6,5% mỗi năm, đạt mức thu nhập trung bình thấp
năm 2008 và hiện nay đang tiến đến mức thu nhập trung bình cao. Năm 2023, tổng
thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam là 4.316 USD, dự kiến sẽ đạt ngưỡng
trung bình cao trong vài năm tới. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ 13 (tháng
1/2021), Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định mục tiêu đưa Việt Nam trở thành
nước tiên tiến phát triển thu nhập cao vào năm 2045.
Để tránh bẫy thu nhập trung bình
và đạt mục tiêu thành nước tiên tiến thu nhập cao năm 2045, Việt Nam cần tăng
trưởng bình quân trên 6% trong 20 năm tới. Chính sách cụ thể liên quan tăng
năng suất lao động qua việc đẩy mạnh đầu tư theo hướng thâm sâu công nghiệp (cải
thiện cơ cấu lắp ráp gia công hiện nay) và nhấn mạnh các ngành dịch vụ chất lượng
cao kết hợp với đổi mới sáng tạo. Hiện nay, tuyệt đại đa số doanh nghiệp hoặc
đơn vị sản xuất kinh doanh còn rất nhỏ bé, không thể có khả năng đổi mới sáng tạo
hoặc đầu tư có hiệu quả. Do đó, cần tăng cường cải cách để biến phần lớn những
cơ sở, đơn vị sản xuất kinh doanh cá thể thành những doanh nghiệp có tổ chức. Mặt
khác, nuôi dưỡng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa để họ có khả năng liên kết với
doanh nghiệp có vốn nước ngoài (FDI), và tham gia tích cực hơn vào các chuỗi
cung ứng của doanh nghiệp đa quốc gia. Nỗ lực cải cách doanh nghiệp là để tăng
nội lực, tăng năng suất lao động và tạo điều kiện để nền kinh tế nói chung ít
phụ thuộc vào FDI như hiện nay.
Mấy điểm vừa phân tích mới chỉ
xét về mặt định lượng. Những mặt về chất cần phải được thay đổi hoặc xây dựng để
Việt Nam thành một quốc gia tiên tiến đúng nghĩa. Có hai nhóm vấn đề cần chú ý.
Nhóm thứ nhất là những vấn đề đã
tồn tại từ lâu nhưng chưa được giải quyết.
Một là, bộ máy công quyền
và tình trạng giáo dục như hiện nay rất xa lạ với một nước đang trên đường tiến
tới một quốc gia tiên tiến.
Thu nhập ngoài lương của công chức,
quan chức còn rất lớn, gây ra tệ nạn tham nhũng và làm cho bộ máy nhà nước kém
hiệu quả. Lương của giáo viên ở các bậc tiểu học và trung học cũng cần phải được
cải thiện để tránh tình trạng dạy thêm, học thêm miễn cưỡng và các tệ nạn khác
trong học đường. Cần phải chấm dứt tình trạng công chức (bao gồm cả giáo viên)
phải sống bằng thu nhập ngoài lương mà hậu quả là bộ máy quản lý kém hiệu suất
và đạo đức học đường cũng như đạo đức xã hội xuống cấp. Nhà nước phải đặt ra lộ
trình sớm giải quyết vấn đề này. Chẳng hạn, trong năm đến sáu năm tới, cần cải
cách hệ thống thuế (thuế bất động sản, thuế thừa kế, v.v.) để tăng nguồn thu,
thắt chặt quản lý nhằm tránh thất thoát trong đầu tư công, và cắt giảm hoặc trì
hoãn những hạng mục đầu tư, chi tiêu chưa cần thiết, v.v. Cần có một ủy ban cấp
nhà nước nghiên cứu thực trạng chi thu ngân sách trung ương và địa phương,
nghiên cứu hệ thống thuế và đề ra lộ trình tăng lương cho công nhân viên, bao gồm
cả giáo viên.
Hai là, chất lượng của
kinh tế thị trường cần được cải thiện sớm. Thị trường là một hình thái tổ chức
nơi người sản xuất và người tiêu dùng gặp nhau để trao đổi hàng hóa và dịch vụ.
Đặc tính cơ bản của thị trường là cạnh tranh và tự do tham gia. Trên cơ sở tự
do mua bán, thị trường mang lại lợi ích cho cả hai bên. Tuy nhiên, để thị trường
phát triển bền vững, đòi hỏi sự thành thật, trung thực, và sự tin cậy giữa những
người tham gia. Hiện nay, ở Việt Nam, nhiều người vẫn còn hiểu sai về kinh tế
thị trường. Họ không hiểu rằng giao dịch và trao đổi trong nền kinh tế thị trường
chỉ bền vững khi chất lượng của thị trường được đảm bảo. Chất lượng của thị trường
lại liên quan đến đạo đức, đến sự tin cậy giữa các bên tham gia. Đạo đức xã hội
bị xói mòn thì không thể có một thể chế thị trường bền vững. Thị trường có chất
lượng cao là nơi có nhiều người không chỉ có năng lực làm ra của cải mà còn có
tấm lòng vị tha. Đó là điều kiện để có hiệu suất và công bằng trong nền kinh tế
thị trường. Nền tảng văn hóa, đạo đức là cơ sở để kinh tế thị trường phát triển
lành mạnh, bền vững, đồng thời xây dựng một xã hội hài hòa, nhân ái.
Nhóm vấn đề thứ hai liên quan đến
hình ảnh lý tưởng của một đất nước, nơi người dân sống hạnh phúc, được thế giới
nể trọng, những mặt về chất của một đất nước mà không phải nước tiên tiến nào
cũng đã đạt được. Có thể tóm tắt mấy điểm sau:
Thứ nhất, tăng sức mạnh mềm
(soft power) của quốc gia. Cho đến nay, sức mạnh kinh tế và quân sự thường được
sử dụng để ảnh hưởng đến nước khác thông qua các quan hệ quốc tế về chính trị,
quân sự, kinh tế, gọi là sức mạnh cứng (hard power). Tuy nhiên, có một loại sức
mạnh khác cũng có thể nâng cao vị thế quốc tế của một nước, đó là sức mạnh mềm,
thể hiện qua sức mạnh văn hóa, uy tín quốc tế, và sự lôi cuốn, hấp dẫn của một
quốc gia, một dân tộc trên trường thế giới.
Về lâu dài, Việt Nam có thể tăng
sức mạnh mềm qua các sản phẩm văn hóa như phim ảnh, thơ văn, ca nhạc, v.v. hoặc
qua hoạt động thể thao, ngoại giao,… trên vũ đài thế giới. Lĩnh vực kinh tế thường
được xem là sức mạnh cứng, nhưng nếu các chính sách và chiến lược phát triển được
kết hợp với yếu tố văn hóa và đạt chất lượng cao, thì sức mạnh mềm cũng sẽ được
phát huy. Việt Nam có thể thu hút sự quan tâm của thế giới, lôi cuốn khách du lịch
quốc tế, hấp dẫn người nước ngoài đến kinh doanh, tạo ra sự khâm phục, đồng
tình của dư luận quốc tế bằng chiến lược chú trọng chất lượng phát triển, thực
hiện phát triển trong sự hài hòa với thiên nhiên và xã hội, và có thái độ tự trọng,
tự lập song song với việc tiếp thu thành quả phát triển nước ngoài.
Tôi có viết một bài về vấn đề này
và in lại trong sách. Một vài điểm cần được nhấn mạnh lại ở đây. Một
là, song song với phát triển nếu ưu tiên tạo môi trường sống hài hòa,
thân thiện với thiên nhiên và tử tế, ưu ái với con người thì không những chất
lượng cuộc sống của người dân Việt Nam tăng lên mà còn hấp dẫn người nước ngoài
đến nhiều hơn. Đặc biệt, các đô thị cần bảo đảm tối đa về cả hai mặt an ninh xã
hội và an toàn giao thông, đồng thời xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, giàu
văn hóa. Hai là, Việt Nam còn phải vay mượn và nhận viện trợ
(ODA) trong thời gian trước mắt, một thái độ tự trọng và có trách nhiệm trong
việc dùng ODA là rất cần thiết. Mọi người Việt Nam, nhất là các quan chức, cần
ý thức rằng vay mượn và nhận viện trợ là để phát triển nhanh hơn và để không
còn phải nhận ODA trong tương lai không xa. Thái độ tự trọng và có trách nhiệm
này thể hiện trong việc quản lý vốn ODA, trong việc bài trừ tham nhũng và tránh
lãng phí. Tham nhũng và lãng phí, kể cả những vụ không liên quan trực tiếp đến vốn
ODA, cũng nằm trong phạm trù tự trọng đối với nước ngoài trong việc vay mượn và
nhận viện trợ. Ba là, Việt Nam đang trong quá trình rút ngắn
khoảng cách phát triển với các nước đi trước, đang trong nỗ lực xóa bỏ tình trạng
nghèo nàn lạc hậu và tiến lên một nước công nghiệp hiện đại. Hiện nay, trên thế
giới có hơn một trăm quốc gia khác cũng đang hoặc sẽ bắt đầu một quá trình
tương tự như ta, trong đó không ít quốc gia đang mò mẫm tìm mô hình tối ưu để
phát triển trong thời đại này. Nếu Việt Nam thực hiện thành công mô hình kết hợp
hiệu quả nội lực và ngoại lực, đồng thời phát triển trong sự hài hòa với thiên
nhiên và xã hội, tự nó sẽ trở thành một tài sản quý giá, một mô hình mà nhiều
nước sẽ tham khảo và học hỏi.
Sức mạnh mềm, như đã phân tích, vừa
có tác dụng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân vừa lôi cuốn sự mến mộ
của thế giới. Song song với đầu tư cho phát triển kinh tế, cần chú trọng đầu tư
nhiều hơn cho vốn văn hóa, vốn xã hội – con đường vừa tăng sức mạnh cứng vừa
tăng sức mạnh mềm của Việt Nam.
Thứ hai, cần làm cho
thành quả phát triển mang lại hạnh phúc cho tuyệt đại đa số dân chúng. Nhìn
chung, kinh tế càng phát triển, con người càng được hạnh phúc vì thỏa mãn được
các nhu cầu trong cuộc sống. Tuy nhiên cần thêm hai điều kiện: môi trường sống
và tình hình phân phối thu nhập. Ô nhiễm môi trường, ách tắc giao thông, v.v…
làm giảm chất lượng cuộc sống. Phân phối thu nhập quá bất bình đẳng làm cho tầng
lớp thu nhập thấp chẳng những chậm được cải thiện mà còn cảm thấy bất mãn khi
thấy xã hội bất công, không tạo cơ hội bình đẳng cho mọi thành phần. Kinh tế
tăng trưởng nhưng một thành phần xã hội không có cơ hội tham gia quá trình phát
triển, vẫn luẩn quẩn trong nghèo khó, còn là mầm mống gây bất ổn xã hội. Trong
một xã hội như vậy, ngay cả người có thu nhập cao cũng chưa hẳn đã cảm thấy hạnh
phúc. Hiện nay, ngay cả ở những nước tiên tiến vẫn còn một bộ phận dân chúng sống
trong tình trạng cực nghèo (extreme poverty). Theo Ngân hàng Thế giới, số người
đó chiếm khoảng 1% tổng số người cực nghèo của thế giới (người cực nghèo ở những
nước còn nghèo thì chiếm 37%).
Vốn xã hội (social capital) cũng
là yếu tố quyết định mức độ hạnh phúc của các cá nhân trong cộng đồng. Con người
cảm thấy hạnh phúc khi mình được cộng đồng tin tưởng, nể trọng và khi chính họ
cũng có thái độ tin tưởng, nể trọng, quý mến người khác trong cộng đồng. Nhiều
người nếu không nói là tất cả sẽ thấy hạnh phúc khi trong cộng đồng ai cũng
hành xử với thái độ tự trọng, đầy đủ trách nhiệm và năng lực được mọi người cho
là xứng đáng với công việc và vị trí đang có. Những biểu hiện khác như ganh
ghét, chèn ép, “xin-cho”, tham nhũng, v.v. dĩ nhiên cũng làm cho nhiều người
trong cộng đồng mất hạnh phúc.
Để tăng vốn xã hội trong trường hợp
này, một mặt, qua sách báo, qua các phương tiện truyền thông đại chúng cần làm
cho mọi người hiểu rằng kinh tế thị trường rất cần đạo đức, cần sự tin tưởng,
tin cậy lẫn nhau; mặt khác cần luôn đề cao lối sống văn hóa, đạo đức. Trong dài
hạn, phải chú trọng giáo dục văn hóa, đạo đức ở học đường để giới trẻ khi lớn
lên trở thành người hành xử có trách nhiệm và tự trọng.
Tự do cũng là một yếu tố để có hạnh
phúc.
Tự do ở đây là tự do chọn lựa của
cá nhân và bao gồm phạm vi rất rộng, từ kinh tế đến xã hội, chính trị. GDP tăng
và phân phối bình đẳng, chế độ giáo dục và y tế cộng đồng phổ cập sẽ làm tăng tự
do kinh tế, giúp con người thoát khỏi nghèo túng, bệnh tật và kém hiểu biết.
Các quyền công dân như quyền về ngôn luận, thảo luận công khai, lập hội, tham
chính, tín ngưỡng v.v. là thuộc phạm trù tự do về chính trị. Một đất nước nếu
con người được bảo đảm an ninh cá nhân và các quyền tự do chính trị, tự do hành
động trong khuôn khổ pháp luật thì hạnh phúc của họ tăng theo. Pháp luật cũng cần
được hoàn thiện không ngừng theo hướng tăng tự do cho con người.
Mục tiêu phát triển của Việt Nam
hiện nay là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là một khẩu
hiệu hay vì bao gồm hầu hết các tiêu chí phát triển nói trên. Nhưng cho đến
nay, hầu như ba vế sau ít được chú ý và hai vế trước cũng đang còn là mục tiêu
phải nhắm tới. Trong gần 40 năm đổi mới, Việt Nam trên căn bản đã thoát nghèo
và tiến gần vị trí một nước có thu nhập trung bình cao.
Nhưng đối với một bộ phận khá lớn
dân chúng, nhất là người dân ở nông thôn và vùng núi, tự do kinh tế vẫn còn ở
xa tầm tay, khi không có đủ những điều kiện để bảo đảm cuộc sống tối thiểu về
ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục. Nhiều người phải bất đắc dĩ ra nước ngoài lao động
hoặc lập gia đình trong điều kiện về vật chất và tinh thần hoàn toàn không đem
lại hạnh phúc cho họ. Người có trách nhiệm với đất nước phải luôn bức xúc về vấn
đề này. Yêu nước ngày nay là yêu những người còn khó khăn trong cuộc sống, và mục
tiêu phát triển lớn nhất trước mắt là đem lại hạnh phúc cho những người đó.
Thứ ba, giữ vững độc
lập tự chủ về kinh tế. Độc lập tự chủ về kinh tế là làm sao để tránh được các
cú sốc từ sự thay đổi đột ngột trên thị trường thế giới, làm sao để kinh tế
không phụ thuộc nhiều vào một nước lớn qua các kênh nhập, xuất khẩu, vay nợ, đầu
tư,… vì phụ thuộc kinh tế trong trường hợp này có thể ảnh hưởng đến an ninh quốc
gia. Đặc biệt, Việt Nam nằm cạnh một nước rất lớn và đã qua một quá trình phát
triển mạnh mẽ. Hiện nay (2023), dân số Trung Quốc đông gấp 14 lần Việt Nam, GDP
lớn gấp 41 lần và tiềm lực về công nghệ, giáo dục, và quốc phòng nằm ở vị trí
siêu cường. Với sự chênh lệch lớn đó và với sự gần gũi về văn hóa, địa lý, Việt
Nam dễ bị ảnh hưởng từ Trung Quốc. Chỉ xét mặt thông thường trong quan hệ kinh
tế, nếu Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc (qua đầu tư, mậu dịch,…) thì
khi kinh tế Trung Quốc có biến động, có sốc, sẽ làm kinh tế Việt Nam bất ổn. Việc
vay vốn nhiều từ Trung Quốc cũng có thể gây ảnh hưởng về chính trị.
Nói chung, Việt Nam cần phát huy
tinh thần dân tộc trong phát triển kinh tế, xây dựng một nước Việt Nam vừa phát
triển theo chất lượng nói trên vừa giữ độc lập, tự chủ với nước láng giềng to lớn
là con đường bền vững lâu dài và được thế giới nể trọng. Vào đầu thế kỷ 15, sau
khi thắng quân Minh, giành lại chủ quyền cho đất nước, trong Bình
Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi nhấn mạnh thực thể độc lập, hiên ngang của nước
Đại Việt, một đất nước đã sánh vai được với cường quốc phương Bắc: “Trải Triệu,
Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một
phương”… Trong thời đại ngày nay, về phương diện phát triển kinh tế,
khí phách Nguyễn Trãi được thể hiện ở quan hệ đối đẳng giữa hai nước Việt-Trung.
Cuốn sách này gói ghém tâm tình
và suy ngẫm, phân tích của tác giả trong hồi ức về nửa thế kỷ qua và hướng về
tương lai Việt Nam hai thập niên tới.
Trần Văn Thọ
[1] Ý trong một bài thơ về khí thế của đoàn quân do Quang Trung chỉ huy tiến đánh đồn Hạ Hồi và Ngọc Hồi của quân Thanh: “Băng băng đuốc lửa rừng gươm giáo / Khí thế quân Nam nước lũ tràn”,…)
Nguồn bài đăng: Hồi ức đến Tương lai (Trần Văn Thọ), rosetta.vn, 24 Tháng Năm, 2025.
