7.6.25

Hồi ức đến tương lai (Trần Văn Thọ)

HỒI ỨC ĐẾN TƯƠNG LAI

Trần Văn Thọ

Nguyễn Xuân Xanh giới thiệu

Nếu được sống lại cuộc đời mình một lần nữa,
tôi sẽ đặt ra quy định là phải đọc một vài bài thơ
và nghe một vài bản nhạc ít nhất một lần mỗi tuần.

— Charles Darwin

Lời dẫn nhập

Quyển sách Hồi Ức Đến Tương Lai đã đưa ra hình ảnh trung thực và rõ nét hơn bao giờ hết về cuộc hành trình, đời sống văn hóa, bao gồm thi ca, âm nhạc, hồi ức, lịch sử, giáo dục pha lẫn tư duy kinh tế, tầm nhìn cho Việt Nam, những giá trị cần phải sống, của tác giả Trần Văn Thọ. Anh không chỉ là một chuyên gia, một giáo sư kinh tế của trường Waseda hàng đầu Nhật Bản, mà còn tỏ ra có tính cách đượm tính nhân văn. Anh không phải chỉ leo lên những bậc thang khoa học, mà còn trên đường đi tắm nước suối của thi ca và trải lòng với nhân thế. Dưới đây tôi xin bàn một chút về một khía cạnh: cuộc sống tinh thần đa dạng của một nhà khoa học, ở đây qua thi ca.

Anh Trần Văn Thọ như con một chim không muốn hót chỉ ở một góc rừng, dù là nơi sang trọng, mà cho cả cánh rừng. Anh không phải chỉ là “chuyên gia” đơn thuần, mà còn là con người nhân văn với nhiều khía cạnh khác của đời sống tinh thần và nội tâm phong phú. Anh không đóng khung mình vào chuyên môn đơn thuần để rồi có thể héo mòn ở đó. Anh là một con người sống với totality của bản chất người một cách sống động. Thi ca, văn hóa chính là chất sống, nhựa sống của anh. 

Wolfgang von Goethe từng có hai câu thơ rất hay (và ông có nhiều những câu thơ như thế):

Nếu bạn muốn tiến về miền vô cực,

Hãy đi trong hữu hạn về mọi hướng.

(Willst du ins Unendliche schreiten, 

Geh nur im Endlichen nach allen Seiten.)

Ý tưởng nói lên triết lý giáo dục thời W. von Humboldt, Bildung — Giáo dục toàn diện, theo tinh thần của Tân-nhân văn. Goethe nói về Johann Georg Hamann, nhà tư tưởng của phong trào lãng mạn Đức: “Mọi thứ con người cố gắng đạt được đều phải xuất phát từ tất cả sức mạnh của mình kết hợp lại; mọi thứ đứng riêng lẻ là sai lầm.” Đó là sức mạnh tổng hợp của chủ nghĩa nhân văn.

Các nhà khoa học, tư tưởng lớn đều là những con người như thế cả, Newton, A. Smith, Planck, Einstein, Heisenberg, Schrödinger. Văn hóa, nghệ thuật, âm nhạc… đều là nhựa sống. Nói một cách tượng trưng, một tay cầm bút một tay cầm đàn? Cuộc sống mà không có âm nhạc là một Irrtum,”sai lầm” như Nietzsche nói. Họ không chịu sống khuất phục dưới những quy luật phiến diện, ngay của lý tính, và khoa học. Họ không muốn là những chatbot thông minh. Họ muốn là con người. Họ muốn sống thi vị (Hölderlin). Họ muốn đi về mọi hướng như Goethe quan niệm. Trong mỗi con người cư ngụ một “thế giới khủng khiếp” (Kafka) của năng lượng mà con người có thể từ đó tạo hình những tác phẩm vĩ đại. Nhưng phần đông con người đã tự bỏ quên nó, bỏ quên ông Phật vàng ở chiều sâu để chọn ông Phật đất trên mặt, nói như Thiền sư Jack Kornfield. 

Đa phần con người muốn có hạnh phúc, sự mãn nguyện, hòa bình trong cuộc sống. Nhưng cuộc sống không phải chỉ có những giá trị “phàm trần” như thế. Nếu thế thì sẽ chẳng có Galilei, Newton, Einstein, da Vinci, Michelangelo, Shakespeare, Goethe, Van Gogh. Có những người khao khát mãnh liệt muốn sống khác đi, muốn thấy mọi khả năng thiên phú thôi thúc bên trong của mình đều được phát huy và thực hiện dù phải chịu những thử thách cam go. Họ muốn hiện diện bằng tác phẩm, dấu ấn, ý tưởng, trên thế giới này. Họ muốn sống như một freier Künstler — nghệ sĩ tự do. Nếu chỉ giam mình trong một khu vườn có đầy đủ những loại hạnh phúc nói trên, có cả khoa học và triết học, thì đó là sự chấm dứt của cuộc sống của anh ta. Đó không phải sống. Nếu xóa bỏ óc fantasy và ham muốn sáng tạo thì giống như một kẻ “sát nhân” đối với chính mình. Con người “sinh ra theo hình ảnh của Chúa”, nên có tất cả sự phong phú của Chúa, chứa đựng bên trong như kho báu. 

Charles Darwin vào cuối đời tỏ ra rất hối hận là đã đánh mất những cảm xúc thi ca, âm nhạc mà ông từng có lúc còn trẻ. Người ta thuật lại, 

Giữa các giờ học về Euclid, cậu thiếu niên Charles ngồi hàng giờ đọc thơ Wordsworth, Coleridge, Shelley, Byron, Shakespeare, Milton. Sau đó, khi chỉ có thể mang theo một cuốn sách duy nhất trong chuyến hải hành của mình, Darwin đã mang theo cuốn Thiên đường đã mất (Paradise lost, John Milton).

Nhưng có lẽ ông đã một lần uống nước giếng thi ca “no nê” đủ chất cho cả đời để rồi trên cuộc du hành vạn dặm chinh phục khoa học gian khổ, ông không không thấy mình thiếu thốn explicit nữa. Thi ca đã đi vào tiềm thức và trú ngụ ở đó để nuôi dưỡng tâm hồn ông một cách vô thức. Ông cảm thấy yên tâm, và không còn thiếu thốn trên cuộc hành trình. Trong khi đó, anh Trần Văn Thọ vẫn tiếp tục và tiếp tục chăm thêm bình rượu ấm văn hóa của anh.

Xem thêm chi tiết ở đây về Charles Darwin, một sự luyến tiếc:

https://rosetta.vn/nguyenxuanxanh/tiec-nuoi-lon-nhat-cua-darwin/

Chắc chắn Darwin sẽ rất vui mừng và ganh tị với quyển sách mới của anh Trần Văn Thọ. Mặt khác, trong chừng mực, anh Thọ cũng có phần nghiêng về Phong trào lãng mạn Đức, nếu không muốn nói anh cũng chính là thành viên.

Xin xem Báo Tuổi Trẻ, có lịch các buổi ra mắt sách của anh Thọ:

https://tuoitre.vn/giao-su-tran-van-tho-gap-go-doc-gia-ba-mien-voi-hoi-uc-den-tuong-lai-20250521205123728.htm

Cảm ơn anh chị. Tôi chỉ có vài lời từ cảm hứng như thế. Chắc chắn còn rất nhiều điều để viết về một nghệ sĩ tự do, anh Trần Văn Thọ của chúng ta. Tôi xin giới thiệu Hồi ức đến tương lai nồng nhiệt đến bạn đọc, nhất là các bạn trẻ, để khi nào bận bịu thì vẫn nhớ phần văn hóa cho cuộc hành trình của mình như nhựa sống. Tôi đã từng thiếu thốn nó đến khủng hoảng, nên giống như chú ốc hermit đi tìm cái vỏ văn hóa mới để chui vào nương thân. Có thể gọi đó là cách làm disruptive của tôi, trong khi cách làm của anh Thọ là organic, dễ thấy hơn.

Xin cảm ơn anh Thọ đã cho độc giả Việt Nam một quyển sách rất có giá trị và truyền cảm hứng chứa đựng nhiều motif, nội dung thi vị và được viết rất công phu. Tác phẩm có thể được xem là một autobiography của anh, thành công xuất sắc.

Chắc chắn có nhiều thiếu sót của tôi, xin anh chị miễn thứ.

Thân mến,

Nguyễn Xuân Xanh

Bìa sau và tay gấp

MỤC LỤC

Vài hồi tưởng và lời cảm ơn

Đọc Trần Văn Thọ (Hà Dương Tường)

Đại sứ Nhật Bản Umeda Kunio phát biểu về Trần Văn Thọ

Phần I   Nhớ về kỷ niệm  

Ông nội tôi

Người anh kết nghĩa thuở hàn vi

Tập vở Quốc Văn theo thầy giáo suốt 30 năm

Những kỷ niệm về sách

Tìm lại dấu xưa Tự lực văn đoàn

Thuở chép thơ Đinh Hùng

Gặp những câu thơ hay

Chiều mưa biên giới ở hai đầu đất nước

Nhớ lại một thời Bolero

Kandagawa dòng sông đi vào thi ca Nhật Bản

Kỷ niệm với tình khúc Người yêu dấu ơi

Câu thơ hy vọng vượt đại lục xuyên thế kỷ

Tiếng thu Việt Nam và Tiếng thu Nhật Bản

Lần đầu viết báo, viết sách tại Nhật

Hai mươi năm với một tuần báo kinh tế

Một đầu xuân khai bút

Bài giảng cuối cùng ở Đại học Waseda

Có hai quê hương để về

Phần II  Gương sáng xưa nay

Xác lập tinh thần Nguyễn Trãi trong quan hệ Việt Trung

Từ xuân Quang Trung đến Thế kỷ 21

Thời bình của Trần Hưng Đạo và Võ Nguyên Giáp

Tinh thần Võ Văn Kiệt

Tưởng nhớ Giáo sư Phan Huy Lê

Kỷ niệm với Giáo sư Okita Saburo và quá trình hình thành VAPEC

Kỷ niệm với nhà văn Võ Hồng

Kỷ niệm với nhà thơ Việt Phương

Anh Trần Đức Nguyên: Công tâm, trí tuệ, tình cảm

Giáo sư Cao Huy Thuần và xứ Quảng

Tiếc thương bạn quý Huỳnh Bửu Sơn

Đọc hồi ký Phan Chánh Dưỡng

Đọc hồi ký Võ Quang Huệ

Phần III Những nẻo đường gần xa

Văn hóa, nhân cách lãnh đạo và vận mệnh đất nước

Tốc độ xoay chuyển vận mệnh đất nước

Cuộc cách mạng Tháng tư đã cứu LDP Nhật Bản

Nhà nước pháp quyền và quốc gia thượng đẳng

Anh hùng trong thời đại phát triển

Quan chức Nhật khi công du nước ngoài

Tinh thần võ sĩ đạo Nhật Bản

Dịch thuật và tinh thần cầu học thời Minh Trị

Lãnh đạo và trí thức

Một trăm bao gạo vì sự nghiệp giáo dục

Một đại học tư lý tưởng thời Minh Trị

Tính ưu việt của Đại học Harvard

Câu chuyện tầu Titanic và thư viện ở Harvard

Trường Tiểu học Junko và tôi

Shibusawa Eiichi: Đỉnh cao tinh thần doanh nghiệp

Văn hóa kinh doanh

Từ Maybach 62 nghĩ về Matsushita Konosuke

Mùa nhân sự tại một tổ chức Nhật Bản

Đọc hồi ký Abe Shinzo

Hoàng Sa bị ngụy tạo lịch sử

Bài học minh định chủ quyền biển đảo

Việt Nam cần nhìn thế giới rộng hơn

Phong trào Đông Du xưa và nay

Từ Tokyo nhìn lại 40 năm

Từ Seoul nhìn về Việt Nam

Chút tâm tình với ASEAN

Một thoáng Manila

Olympic và sức mạnh quốc gia

Vị trí của Việt Nam trong đối ngoại Nhật Bản

Phần IV  Để đất nước đi lên

Nhà nước kiến tạo phát triển

Nghệ thuật xây dựng, thực thi chính sách

Thi tuyển quan chức nhà nước

Tự trọng của quan chức

Đào tạo và cấp bằng tiến sĩ: Ý kiến từ 1997

Giáo dục đại học: Ý kiến từ 1997

Đổi mới sáng tạo và nhân tài người Việt ở nước ngoài

Đả phá một cách sáng tạo

Tinh thần dân tộc của doanh nhân

Kinh tế tự chủ trong thời đại mới

Suy nghĩ về vấn đề an ninh kinh tế

Điều chỉnh hội nhập và củng cố nội lực

Quan hệ Việt Trung thời đại mới

Thoát Á xưa và nay

Sức mạnh cứng, sức mạnh mềm

Một xã hội nhân văn

Văn hóa thuốc lá

Điều kiện của một đô thị lý tưởng

Đạo đức và kinh tế thị trường

Phát triển và hạnh phúc

Lời bạt: Phạm Chi Lan, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Nam, Nguyễn Hồng Sơn, Phúc Tiến, Huỳnh Văn Hoa.

Tổng luận

HỒI ỨC ĐẾN TƯƠNG LAI

Trần Văn Thọ

Xong trung học, vào đại học khoảng nửa năm là tôi rời Việt Nam sang Nhật Bản du học vào mùa hoa anh đào năm 1968. Học xong, do thời thế đẩy đưa, tôi ở lại Nhật nghiên cứu và giảng dạy nhưng rất may là vẫn gắn bó mật thiết với quê hương, đất nước nơi mình sinh ra và lớn lên. Từ thuở ra đi đến nay đã hơn nửa thế kỷ. Lúc đi mang theo tâm tình của một đất nước còn nghèo khó trong chiến tranh nên trong suốt thời gian dài, mối quan tâm lớn nhất của tôi là làm sao để Việt Nam phát triển, điều kiện để một nước phát triển là gì. Hiện nay, Việt Nam đã thành nước thu nhập trung bình và có mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Do đó, mối quan tâm lúc này của tôi là đi tìm hình ảnh lý tưởng của một nước phát triển, làm sao xây dựng một đất nước mà người dân có đời sống cao, hạnh phúc và được thế giới nể trọng.

Cuốn sách này tập hợp những bài viết trên báo trong vài chục năm qua (lần này có cập nhật thông tin và bổ sung) thuộc nhiều đề tài khác nhau nhưng ngẫu nhiên là phần lớn các bài viết có thể phân thành hai nhóm, tương ứng với mối quan tâm của tôi trong nửa thế kỷ qua (tìm điều kiện phát triển) và quan tâm hiện nay liên quan tầm nhìn về tương lai của Việt Nam (hình ảnh lý tưởng của một đất nước phát triển). Nói là ngẫu nhiên nhưng chắc trong tiềm thức luôn ẩn hiện hai vấn đề ấy nên đã thể hiện trong khi chọn đề tài viết cho các báo ở Việt Nam và có kết quả như thế. Ngoài ra có nhiều bài viết về kỷ niệm, về thơ văn, về tiền bối và bạn bè nhưng tất cả đều gói ghém tâm tình về quê hương thời chưa phát triển hoặc trên đường phát triển.

HỒI ỨC HÀNH TRÌNH NỬA THẾ KỶ: TỪ TÂM TÌNH VỚI QUÊ HƯƠNG ĐẾN NGHIÊN CỨU TÌM ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN

Tôi sinh ra ở nông thôn miền Trung, một trong những vùng nghèo của đất nước. Thời tôi còn nhỏ, thập niên 1950 và 1960, cha mẹ, bà con và hàng xóm ai cũng đầu tắt mặt tối, vất vả ngoài đồng ruộng. Mùa đông gió rét mặc không đủ ấm, mùa hè nóng không ngủ được. Qua sách vở, tôi cũng thấy những hình ảnh đó ở hầu hết các vùng khác của đất nước. Từ nhỏ, tôi biết nhiều nhạc khúc ca tụng đồng quê, nhưng phần lớn nói lên cuộc sống nghèo khó của người dân Việt Nam. Những ca khúc như Nắng lên xóm nghèo, Quê nghèo, Tình nghèo, v.v. đều phản ánh tình trạng đó. Tôi luôn mong đất nước sẽ phát triển, người dân được sống ấm no, hạnh phúc. Tôi nghĩ mong ước đó cũng thể hiện lòng yêu quê hương đất nước một cách cụ thể. Thời trung học, đọc tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh, qua suy nghĩ của nhân vật Dũng, tôi bắt gặp một định nghĩa về lòng yêu nước rất phù hợp với mục tiêu phát triển cần có của Việt Nam lúc ấy: “Chiều hôm ấy, Dũng như cảm thấy tâm hồn của đất nước, mà biểu hiện cho đất nước ấy không phải là những bậc vua chúa danh nhân, chính là đám dân hèn không tên không tuổi. Dân là nước. Yêu nước chính là yêu chung đám thường dân, nghĩ đến sự đau khổ của đám thường dân”. Đây là định nghĩa về lòng yêu nước rất hay, rất thiết thực, in sâu vào tâm trí tôi, cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ gần như nguyên văn.

Chính vì bối cảnh này, khi sang Nhật, tôi chọn học ngành kinh tế, chuyên ngành kinh tế phát triển và kinh tế quốc tế. Dần dần, qua các nguyên lý và mô hình lý luận cơ bản, tôi hiểu được các điều kiện sơ đẳng để một nền kinh tế phát triển. Các yếu tố sản xuất như lao động, đất đai và tài nguyên cần được sử dụng có hiệu suất, phải đầu tư, tích lũy tư bản, áp dụng công nghệ để tăng năng suất lao động. Một nước nông nghiệp muốn phát triển phải công nghiệp hóa mới chuyển lao động dư thừa từ nông sang công nghiệp, điều kiện để năng suất lao động toàn xã hội tăng lên, để sản xuất đa dạng các mặt hàng nâng cao mức sống dân chúng và thay đổi cơ cấu ngoại thương. Để công nghiệp hóa, phải có công nghệ, phải tích lũy tư bản qua đầu tư hạ tầng của chính phủ và đầu tư sản xuất của doanh nghiệp. Là nước đi sau, Việt Nam có thể tận dụng vốn và công nghệ nước ngoài để phát triển nhanh. Ngoài ra, phải đẩy mạnh giáo dục và đào tạo mới biến lao động nông nghiệp giai đoạn thấp thành lao động công nghiệp và chất lượng lao động phải ngày càng cao mới chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao. Mặt khác, thị trường các yếu tố sản xuất như vốn, đất đai và lao động phải phát triển lành mạnh để phân bổ các nguồn lực ấy đến các ngành, các lĩnh vực có năng suất cao.

Học tập và làm việc tại Nhật, tôi được chứng kiến giai đoạn phát triển thần kỳ của nước này và hiện tượng lan tỏa kinh tế từ Nhật sang Hàn Quốc, Đài Loan, rồi đến một số nước ASEAN và Trung Quốc, tạo nên vùng kinh tế năng động châu Á-Thái Bình Dương. Việt Nam nằm giữa vùng năng động này, nhưng chỉ từ khi có đổi mới chuyển sang thể chế kinh tế thị trường, chúng ta mới có điều kiện tham gia vào quá trình phân công quốc tế này. Trong bối cảnh đó, tôi xuất bản các cuốn Công nghiệp hóa Việt Nam trong thời đại châu Á-Thái Bình Dương (Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, 1996) và Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt Nam, (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát hành năm 2005, và Nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 2006), đồng thời kiến nghị trong Tổ Tư vấn cải cách kinh tế và hành chính của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, sau đó là cộng tác trong Ban nghiên cứu chính sách của Thủ tướng Phan Văn Khải. Để thúc đẩy giao lưu học thuật và nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển của các nước trong vùng, tôi đã vận động thành lập Trung tâm Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương Việt Nam (VAPEC) năm 1993 (bắt đầu vận động năm 1989, chỉ vài năm sau khi công cuộc đổi mới bắt đầu).

Tuy nhiên, Việt Nam tiến hành cải cách quá chậm, một phần do một số lãnh đạo lo ngại phát triển chệch hướng, nhiều quan chức thì muốn duy trì những lợi ích từ thể chế cũ. Việt Nam để bỏ lỡ nhiều thời cơ nên thành quả phát triển bị hạn chế nhiều. Trong khi các nước chung quanh, nhất là Trung Quốc, phát triển mạnh mẽ. Trong bối cảnh đó, tôi đã viết hai cuốn sách tiếp theo: Việt Nam từ năm 2011: Vượt lên sự nghiệt ngã của thời gian (Nhà xuất bản Tri Thức, 2011) và Cú sốc thời gian và kinh tế Việt Nam (Nhà xuất bản Tri Thức, 2015). Cả hai cuốn sách đều nhấn mạnh yếu tố thời gian, cho thấy các nước chung quanh đi rất nhanh, trong khi Việt Nam vẫn chậm chân vì bị các yếu tố thể chế ràng buộc. Hai cuốn sách này cũng bàn về các nguy cơ như bẫy thu nhập trung bình, tình trạng “chưa giàu đã già”, FDI và phân hóa nền kinh tế (nội lực yếu nhất là doanh nghiệp trong nước yếu nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào tư bản nước ngoài), v.v..

Ở phần trên, tôi đã bàn về các điều kiện để kinh tế phát triển, như công nghiệp hóa, tích lũy tư bản, v.v.. Thoạt nhìn, những vấn đề này có vẻ không phức tạp, hầu như nước nào cũng có thể phát triển nếu thỏa mãn các điều kiện tưởng như đơn giản ấy. Nhưng trên thực tế, hiện nay (năm 2022), chỉ có 16% dân số sống thế giới sống ở những nước phát triển tiên tiến với thu nhập cao, trong khi tới 50% dân số thuộc những nước thu nhập thấp và trung bình thấp. Tình hình đi chậm của Việt Nam nói trên cũng cho thấy câu chuyện phát triển kinh tế không đơn giản.

Thế là tôi suy nghĩ về những điều kiện sâu xa hơn, cơ bản hơn của phát triển, những điều kiện thuộc phạm trù văn hóa, tình tự, khát vọng, hoài bão. Nghiên cứu trường hợp Nhật Bản, tôi rút ra một khái niệm tổng hợp nhất: năng lực xã hội. Năng lực xã hội là năng lực và tố chất của các nhân tố cấu thành xã hội, cụ thể là chính trị gia, quan chức, lãnh đạo kinh doanh, trí thức và tầng lớp lao động. Mỗi nhân tố này phải có những tố chất nào để thúc đẩy kinh tế phát triển. Dĩ nhiên, tố chất quan trọng của chính trị gia là năng lực lãnh đạo, của quan chức là năng lực quản lý hành chính, của giới kinh doanh là tinh thần doanh nghiệp. Nhưng trong trường hợp Nhật Bản, không phải chỉ có các tố chất đó. Tôi nghiệm thấy rằng tố chất chung nhất của chính trị gia, của quan chức, của nhà kinh doanh Nhật Bản là lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc và phải là những người có văn hóa, có giáo dưỡng. Tố chất này biểu hiện rất rõ qua những câu chuyện về lãnh đạo chính trị, quan chức, và những nhà kinh doanh tiêu biểu thời Minh Trị, cũng như thời phục hưng hậu chiến và khởi đầu giai đoạn phát triển thần kỳ 1955-1973.

Hàn Quốc cũng vậy nên đã làm nên kỳ tích phát triển. Lúc bắt đầu kế hoạch phát triển (năm 1962) của một trong những nước nghèo nhất thế giới đến khi trở thành thành viên của tổ chức các nước tiên tiến (1996), Hàn Quốc chỉ mất có 35 năm! Nếu kể từ khi Chiến tranh Triều Tiên chấm dứt thì cũng chỉ 43 năm.

Hàn Quốc thành công vì hai yếu tố chính. Thứ nhất, ngay từ đầu đã có ngay sự đồng thuận của xã hội về sự cần thiết phải phát triển, phải theo kịp các nước tiên tiến, nhất là theo kịp Nhật (nước láng giềng từng đô hộ mình). Để có sự đồng thuận, năng lực, ý chí và chính sách của lãnh đạo chính trị là quan trọng nhất. Dù dưới chế độ độc tài (trước năm 1987), quyết tâm phát triển của lãnh đạo chính trị được thể hiện bằng các chiến lược và chính sách do lớp kỹ trị xây dựng, quan chức được tuyển chọn theo năng lực, người tài được trọng dụng. Thứ hai, Hàn Quốc đã thực hiện công nghiệp hóa trên cơ sở của học tập (industrialization on the basis of learning). Học tập nước ngoài và học tập để có điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế lên cao, đưa vị trí đất nước lên cao trên vũ đài thế giới. Quả đúng như vậy, nếu ta khảo sát nỗ lực của chính phủ trong giáo dục, đào tạo, trong việc tạo ra cơ chế để đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ, và nỗ lực của doanh nghiệp trong quá trình học hỏi nước ngoài, sẽ thấy là phi thường.

Những điểm chung của Nhật Bản và Hàn Quốc hay những nước đi sau khác thành công trong quá trình công nghiệp hóa đều có những đặc điểm như sau:

Một là, lấy chủ nghĩa dân tộc để xác định vị trí của mình trên thế giới, để đề ra chiến lược có lợi nhất cho đất nước mình và để động viên toàn dân hướng vào chiến lược đuổi kịp các nước đi trước.

Hai là, đề cao chủ nghĩa phát triển (developmentalism), xem việc phát triển kinh tế là mục tiêu tối thượng, là con đường duy nhất để đưa đất nước thoát khỏi những nguy cơ trước mắt và lâu dài. Từ nhận thức đó, các chiến lược, chính sách, biện pháp về chính trị, xã hội, và kinh tế đều tập trung vào việc phát triển. Trong quá trình đó, tầng lớp lãnh đạo phải là những người yêu nước thực sự, có năng lực lãnh đạo, thanh liêm, được đông đảo các tầng lớp nhân dân tin tưởng.

Ba là, tầng lớp trí thức, kỹ trị (technocrats) có năng lực trong việc đề ra các chiến lược phát triển, các biện pháp thực hiện chiến lược phát triển được trọng dụng, được trao quyền hạn và trách nhiệm cao, được tôn vinh trong xã hội. Chính sách trọng dụng nhân tài ở đây loại trừ tất cả các quan hệ họ hàng, huyết thống, bản vị địa phương và giai tầng xuất thân trong xã hội.

Với suy nghĩ về yếu tố cốt lõi nhất của phát triển, khi bàn chuyện Việt Nam, tôi cũng thường nối kết lịch sử, văn hóa với phát triển. Chẳng hạn, trong bài viết vào buổi chuyển giao giữa hai thiên niên kỷ, tôi tổng kết thiên niên kỷ trước là thời đại giữ nước, biểu hiện bằng khí thế Quang Trung qua câu nói nổi tiếng “đả cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. Trong thiên niên kỷ mới, bắt đầu thế kỷ 21 là thời đại phát triển và tôi đề khởi một khẩu hiệu mới để đối lại với câu nói của Quang Trung: Phát triển cho thế giới biết người Việt Nam là dân tộc có trí tuệ.

Từ đầu năm 1994, Việt Nam nhấn mạnh nguy cơ tụt hậu, xem đây là nguy cơ lớn nhất trong tất cả các nguy cơ. Ở đây hàm chứa ý thức dân tộc và chiến lược ưu tiên phát triển. Đây là một ý thức, một chiến lược đúng đắn. Bước vào thiên niên kỷ mới, ta có thể dấy lên một phong trào mới trong dân chúng nhằm vào mục tiêu phát triển đất nước, rút ngắn khoảng cách kinh tế với các nước chung quanh.

Đoạn kết trong bài viết chuyển giao thiên niên kỷ nói trên là: Năm 1010, Lý Thái Tổ trong giấc mơ đã thấy rồng bay. Ta phải làm sao để khi kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long (2010), cả dân tộc sẽ thực sự thấy mình sắp hóa rồng trong phát triển kinh tế. Muốn vậy, ta sớm tạo ra một khí thế Quang Trung nước lũ tràn[1] trong thời đại mới, chúng ta phải thành công thời đại công nghiệp hóa, phải phát triển cho thế giới biết người Việt Nam là dân tộc có trí tuệ.

Trong thời đại chống ngoại xâm, Việt Nam có rất nhiều anh hùng nhưng trong thời đại phát triển, rất tiếc là ta chưa thấy xuất hiện hoặc chưa phát hiện được những anh hùng mới. Tôi đã viết nhiều bài về trường hợp của Nhật Bản. Đoạn cuối trong bài viết về anh hùng trong thời đại phát triển, tôi có giấc mơ về anh hùng của Việt Nam thời đại mới như sau: Các anh hùng dân tộc thời nhà Trần đã lập nên những chiến công hiển hách, đuổi được quân Nguyên ra khỏi bờ cõi, làm nức lòng người dân. Hai câu thơ của Trần Nhân Tông đã phản ảnh không khí hồ hởi kéo dài nhiều năm tháng: “Người lính già đầu bạc/Kể mãi chuyện Nguyên phong”Tôi mong rằng hai, ba mươi năm nữa, những quan chức, những vị lãnh đạo đầu đã bạc ngồi ở quán cà phê bên Hồ Hoàn Kiếm, trò chuyện về những ngày mà thời trung niên của họ đã hết lòng vì nước, vì dân, giúp Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình, gia nhập hàng ngũ những nước giàu mạnh trên thế giới.

HƯỚNG VỀ TƯƠNG LAI: XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG LÝ TƯỞNG VỀ MỘT ĐẤT NƯỚC PHÁT TRIỂN

 Sau đổi mới, kinh tế Việt Nam phát triển trung bình 6,5% mỗi năm, đạt mức thu nhập trung bình thấp năm 2008 và hiện nay đang tiến đến mức thu nhập trung bình cao. Năm 2023, tổng thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam là 4.316 USD, dự kiến sẽ đạt ngưỡng trung bình cao trong vài năm tới. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ 13 (tháng 1/2021), Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước tiên tiến phát triển thu nhập cao vào năm 2045.

Để tránh bẫy thu nhập trung bình và đạt mục tiêu thành nước tiên tiến thu nhập cao năm 2045, Việt Nam cần tăng trưởng bình quân trên 6% trong 20 năm tới. Chính sách cụ thể liên quan tăng năng suất lao động qua việc đẩy mạnh đầu tư theo hướng thâm sâu công nghiệp (cải thiện cơ cấu lắp ráp gia công hiện nay) và nhấn mạnh các ngành dịch vụ chất lượng cao kết hợp với đổi mới sáng tạo. Hiện nay, tuyệt đại đa số doanh nghiệp hoặc đơn vị sản xuất kinh doanh còn rất nhỏ bé, không thể có khả năng đổi mới sáng tạo hoặc đầu tư có hiệu quả. Do đó, cần tăng cường cải cách để biến phần lớn những cơ sở, đơn vị sản xuất kinh doanh cá thể thành những doanh nghiệp có tổ chức. Mặt khác, nuôi dưỡng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa để họ có khả năng liên kết với doanh nghiệp có vốn nước ngoài (FDI), và tham gia tích cực hơn vào các chuỗi cung ứng của doanh nghiệp đa quốc gia. Nỗ lực cải cách doanh nghiệp là để tăng nội lực, tăng năng suất lao động và tạo điều kiện để nền kinh tế nói chung ít phụ thuộc vào FDI như hiện nay.

Mấy điểm vừa phân tích mới chỉ xét về mặt định lượng. Những mặt về chất cần phải được thay đổi hoặc xây dựng để Việt Nam thành một quốc gia tiên tiến đúng nghĩa. Có hai nhóm vấn đề cần chú ý.

Nhóm thứ nhất là những vấn đề đã tồn tại từ lâu nhưng chưa được giải quyết.

Một là, bộ máy công quyền và tình trạng giáo dục như hiện nay rất xa lạ với một nước đang trên đường tiến tới một quốc gia tiên tiến.

Thu nhập ngoài lương của công chức, quan chức còn rất lớn, gây ra tệ nạn tham nhũng và làm cho bộ máy nhà nước kém hiệu quả. Lương của giáo viên ở các bậc tiểu học và trung học cũng cần phải được cải thiện để tránh tình trạng dạy thêm, học thêm miễn cưỡng và các tệ nạn khác trong học đường. Cần phải chấm dứt tình trạng công chức (bao gồm cả giáo viên) phải sống bằng thu nhập ngoài lương mà hậu quả là bộ máy quản lý kém hiệu suất và đạo đức học đường cũng như đạo đức xã hội xuống cấp. Nhà nước phải đặt ra lộ trình sớm giải quyết vấn đề này. Chẳng hạn, trong năm đến sáu năm tới, cần cải cách hệ thống thuế (thuế bất động sản, thuế thừa kế, v.v.) để tăng nguồn thu, thắt chặt quản lý nhằm tránh thất thoát trong đầu tư công, và cắt giảm hoặc trì hoãn những hạng mục đầu tư, chi tiêu chưa cần thiết, v.v. Cần có một ủy ban cấp nhà nước nghiên cứu thực trạng chi thu ngân sách trung ương và địa phương, nghiên cứu hệ thống thuế và đề ra lộ trình tăng lương cho công nhân viên, bao gồm cả giáo viên.

Hai là, chất lượng của kinh tế thị trường cần được cải thiện sớm. Thị trường là một hình thái tổ chức nơi người sản xuất và người tiêu dùng gặp nhau để trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Đặc tính cơ bản của thị trường là cạnh tranh và tự do tham gia. Trên cơ sở tự do mua bán, thị trường mang lại lợi ích cho cả hai bên. Tuy nhiên, để thị trường phát triển bền vững, đòi hỏi sự thành thật, trung thực, và sự tin cậy giữa những người tham gia. Hiện nay, ở Việt Nam, nhiều người vẫn còn hiểu sai về kinh tế thị trường. Họ không hiểu rằng giao dịch và trao đổi trong nền kinh tế thị trường chỉ bền vững khi chất lượng của thị trường được đảm bảo. Chất lượng của thị trường lại liên quan đến đạo đức, đến sự tin cậy giữa các bên tham gia. Đạo đức xã hội bị xói mòn thì không thể có một thể chế thị trường bền vững. Thị trường có chất lượng cao là nơi có nhiều người không chỉ có năng lực làm ra của cải mà còn có tấm lòng vị tha. Đó là điều kiện để có hiệu suất và công bằng trong nền kinh tế thị trường. Nền tảng văn hóa, đạo đức là cơ sở để kinh tế thị trường phát triển lành mạnh, bền vững, đồng thời xây dựng một xã hội hài hòa, nhân ái.

Nhóm vấn đề thứ hai liên quan đến hình ảnh lý tưởng của một đất nước, nơi người dân sống hạnh phúc, được thế giới nể trọng, những mặt về chất của một đất nước mà không phải nước tiên tiến nào cũng đã đạt được. Có thể tóm tắt mấy điểm sau:

Thứ nhất, tăng sức mạnh mềm (soft power) của quốc gia. Cho đến nay, sức mạnh kinh tế và quân sự thường được sử dụng để ảnh hưởng đến nước khác thông qua các quan hệ quốc tế về chính trị, quân sự, kinh tế, gọi là sức mạnh cứng (hard power). Tuy nhiên, có một loại sức mạnh khác cũng có thể nâng cao vị thế quốc tế của một nước, đó là sức mạnh mềm, thể hiện qua sức mạnh văn hóa, uy tín quốc tế, và sự lôi cuốn, hấp dẫn của một quốc gia, một dân tộc trên trường thế giới.

Về lâu dài, Việt Nam có thể tăng sức mạnh mềm qua các sản phẩm văn hóa như phim ảnh, thơ văn, ca nhạc, v.v. hoặc qua hoạt động thể thao, ngoại giao,… trên vũ đài thế giới. Lĩnh vực kinh tế thường được xem là sức mạnh cứng, nhưng nếu các chính sách và chiến lược phát triển được kết hợp với yếu tố văn hóa và đạt chất lượng cao, thì sức mạnh mềm cũng sẽ được phát huy. Việt Nam có thể thu hút sự quan tâm của thế giới, lôi cuốn khách du lịch quốc tế, hấp dẫn người nước ngoài đến kinh doanh, tạo ra sự khâm phục, đồng tình của dư luận quốc tế bằng chiến lược chú trọng chất lượng phát triển, thực hiện phát triển trong sự hài hòa với thiên nhiên và xã hội, và có thái độ tự trọng, tự lập song song với việc tiếp thu thành quả phát triển nước ngoài.

Tôi có viết một bài về vấn đề này và in lại trong sách. Một vài điểm cần được nhấn mạnh lại ở đây. Một là, song song với phát triển nếu ưu tiên tạo môi trường sống hài hòa, thân thiện với thiên nhiên và tử tế, ưu ái với con người thì không những chất lượng cuộc sống của người dân Việt Nam tăng lên mà còn hấp dẫn người nước ngoài đến nhiều hơn. Đặc biệt, các đô thị cần bảo đảm tối đa về cả hai mặt an ninh xã hội và an toàn giao thông, đồng thời xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, giàu văn hóa. Hai là, Việt Nam còn phải vay mượn và nhận viện trợ (ODA) trong thời gian trước mắt, một thái độ tự trọng và có trách nhiệm trong việc dùng ODA là rất cần thiết. Mọi người Việt Nam, nhất là các quan chức, cần ý thức rằng vay mượn và nhận viện trợ là để phát triển nhanh hơn và để không còn phải nhận ODA trong tương lai không xa. Thái độ tự trọng và có trách nhiệm này thể hiện trong việc quản lý vốn ODA, trong việc bài trừ tham nhũng và tránh lãng phí. Tham nhũng và lãng phí, kể cả những vụ không liên quan trực tiếp đến vốn ODA, cũng nằm trong phạm trù tự trọng đối với nước ngoài trong việc vay mượn và nhận viện trợ. Ba là, Việt Nam đang trong quá trình rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước đi trước, đang trong nỗ lực xóa bỏ tình trạng nghèo nàn lạc hậu và tiến lên một nước công nghiệp hiện đại. Hiện nay, trên thế giới có hơn một trăm quốc gia khác cũng đang hoặc sẽ bắt đầu một quá trình tương tự như ta, trong đó không ít quốc gia đang mò mẫm tìm mô hình tối ưu để phát triển trong thời đại này. Nếu Việt Nam thực hiện thành công mô hình kết hợp hiệu quả nội lực và ngoại lực, đồng thời phát triển trong sự hài hòa với thiên nhiên và xã hội, tự nó sẽ trở thành một tài sản quý giá, một mô hình mà nhiều nước sẽ tham khảo và học hỏi.

Sức mạnh mềm, như đã phân tích, vừa có tác dụng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân vừa lôi cuốn sự mến mộ của thế giới. Song song với đầu tư cho phát triển kinh tế, cần chú trọng đầu tư nhiều hơn cho vốn văn hóa, vốn xã hội – con đường vừa tăng sức mạnh cứng vừa tăng sức mạnh mềm của Việt Nam.

Thứ hai, cần làm cho thành quả phát triển mang lại hạnh phúc cho tuyệt đại đa số dân chúng. Nhìn chung, kinh tế càng phát triển, con người càng được hạnh phúc vì thỏa mãn được các nhu cầu trong cuộc sống. Tuy nhiên cần thêm hai điều kiện: môi trường sống và tình hình phân phối thu nhập. Ô nhiễm môi trường, ách tắc giao thông, v.v… làm giảm chất lượng cuộc sống. Phân phối thu nhập quá bất bình đẳng làm cho tầng lớp thu nhập thấp chẳng những chậm được cải thiện mà còn cảm thấy bất mãn khi thấy xã hội bất công, không tạo cơ hội bình đẳng cho mọi thành phần. Kinh tế tăng trưởng nhưng một thành phần xã hội không có cơ hội tham gia quá trình phát triển, vẫn luẩn quẩn trong nghèo khó, còn là mầm mống gây bất ổn xã hội. Trong một xã hội như vậy, ngay cả người có thu nhập cao cũng chưa hẳn đã cảm thấy hạnh phúc. Hiện nay, ngay cả ở những nước tiên tiến vẫn còn một bộ phận dân chúng sống trong tình trạng cực nghèo (extreme poverty). Theo Ngân hàng Thế giới, số người đó chiếm khoảng 1% tổng số người cực nghèo của thế giới (người cực nghèo ở những nước còn nghèo thì chiếm 37%).

Vốn xã hội (social capital) cũng là yếu tố quyết định mức độ hạnh phúc của các cá nhân trong cộng đồng. Con người cảm thấy hạnh phúc khi mình được cộng đồng tin tưởng, nể trọng và khi chính họ cũng có thái độ tin tưởng, nể trọng, quý mến người khác trong cộng đồng. Nhiều người nếu không nói là tất cả sẽ thấy hạnh phúc khi trong cộng đồng ai cũng hành xử với thái độ tự trọng, đầy đủ trách nhiệm và năng lực được mọi người cho là xứng đáng với công việc và vị trí đang có. Những biểu hiện khác như ganh ghét, chèn ép, “xin-cho”, tham nhũng, v.v. dĩ nhiên cũng làm cho nhiều người trong cộng đồng mất hạnh phúc.

Để tăng vốn xã hội trong trường hợp này, một mặt, qua sách báo, qua các phương tiện truyền thông đại chúng cần làm cho mọi người hiểu rằng kinh tế thị trường rất cần đạo đức, cần sự tin tưởng, tin cậy lẫn nhau; mặt khác cần luôn đề cao lối sống văn hóa, đạo đức. Trong dài hạn, phải chú trọng giáo dục văn hóa, đạo đức ở học đường để giới trẻ khi lớn lên trở thành người hành xử có trách nhiệm và tự trọng.

Tự do cũng là một yếu tố để có hạnh phúc.

Tự do ở đây là tự do chọn lựa của cá nhân và bao gồm phạm vi rất rộng, từ kinh tế đến xã hội, chính trị. GDP tăng và phân phối bình đẳng, chế độ giáo dục và y tế cộng đồng phổ cập sẽ làm tăng tự do kinh tế, giúp con người thoát khỏi nghèo túng, bệnh tật và kém hiểu biết. Các quyền công dân như quyền về ngôn luận, thảo luận công khai, lập hội, tham chính, tín ngưỡng v.v. là thuộc phạm trù tự do về chính trị. Một đất nước nếu con người được bảo đảm an ninh cá nhân và các quyền tự do chính trị, tự do hành động trong khuôn khổ pháp luật thì hạnh phúc của họ tăng theo. Pháp luật cũng cần được hoàn thiện không ngừng theo hướng tăng tự do cho con người.

Mục tiêu phát triển của Việt Nam hiện nay là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là một khẩu hiệu hay vì bao gồm hầu hết các tiêu chí phát triển nói trên. Nhưng cho đến nay, hầu như ba vế sau ít được chú ý và hai vế trước cũng đang còn là mục tiêu phải nhắm tới. Trong gần 40 năm đổi mới, Việt Nam trên căn bản đã thoát nghèo và tiến gần vị trí một nước có thu nhập trung bình cao.

Nhưng đối với một bộ phận khá lớn dân chúng, nhất là người dân ở nông thôn và vùng núi, tự do kinh tế vẫn còn ở xa tầm tay, khi không có đủ những điều kiện để bảo đảm cuộc sống tối thiểu về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục. Nhiều người phải bất đắc dĩ ra nước ngoài lao động hoặc lập gia đình trong điều kiện về vật chất và tinh thần hoàn toàn không đem lại hạnh phúc cho họ. Người có trách nhiệm với đất nước phải luôn bức xúc về vấn đề này. Yêu nước ngày nay là yêu những người còn khó khăn trong cuộc sống, và mục tiêu phát triển lớn nhất trước mắt là đem lại hạnh phúc cho những người đó.

Thứ ba, giữ vững độc lập tự chủ về kinh tế. Độc lập tự chủ về kinh tế là làm sao để tránh được các cú sốc từ sự thay đổi đột ngột trên thị trường thế giới, làm sao để kinh tế không phụ thuộc nhiều vào một nước lớn qua các kênh nhập, xuất khẩu, vay nợ, đầu tư,… vì phụ thuộc kinh tế trong trường hợp này có thể ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Đặc biệt, Việt Nam nằm cạnh một nước rất lớn và đã qua một quá trình phát triển mạnh mẽ. Hiện nay (2023), dân số Trung Quốc đông gấp 14 lần Việt Nam, GDP lớn gấp 41 lần và tiềm lực về công nghệ, giáo dục, và quốc phòng nằm ở vị trí siêu cường. Với sự chênh lệch lớn đó và với sự gần gũi về văn hóa, địa lý, Việt Nam dễ bị ảnh hưởng từ Trung Quốc. Chỉ xét mặt thông thường trong quan hệ kinh tế, nếu Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc (qua đầu tư, mậu dịch,…) thì khi kinh tế Trung Quốc có biến động, có sốc, sẽ làm kinh tế Việt Nam bất ổn. Việc vay vốn nhiều từ Trung Quốc cũng có thể gây ảnh hưởng về chính trị.

Nói chung, Việt Nam cần phát huy tinh thần dân tộc trong phát triển kinh tế, xây dựng một nước Việt Nam vừa phát triển theo chất lượng nói trên vừa giữ độc lập, tự chủ với nước láng giềng to lớn là con đường bền vững lâu dài và được thế giới nể trọng. Vào đầu thế kỷ 15, sau khi thắng quân Minh, giành lại chủ quyền cho đất nước, trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi nhấn mạnh thực thể độc lập, hiên ngang của nước Đại Việt, một đất nước đã sánh vai được với cường quốc phương Bắc: “Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương”… Trong thời đại ngày nay, về phương diện phát triển kinh tế, khí phách Nguyễn Trãi được thể hiện ở quan hệ đối đẳng giữa hai nước Việt-Trung.

Cuốn sách này gói ghém tâm tình và suy ngẫm, phân tích của tác giả trong hồi ức về nửa thế kỷ qua và hướng về tương lai Việt Nam hai thập niên tới.

Trần Văn Thọ

[1] Ý trong một bài thơ về khí thế của đoàn quân do Quang Trung chỉ huy tiến đánh đồn Hạ Hồi và Ngọc Hồi của quân Thanh: “Băng băng đuốc lửa rừng gươm giáo / Khí thế quân Nam nước lũ tràn”,…)

Nguồn bài đăng: Hồi ức đến Tương lai (Trần Văn Thọ)rosetta.vn, 24 Tháng Năm, 2025.

Print Friendly and PDF