KINH TẾ HỌC MÔI TRƯỜNG
Environmental Economics
è Giải Nobel : COASE, 1991 – LEONTIEF, 1973
![]() |
Arthur Cecil Pigou (1877-1959) |
Ngày nay các nhà kinh tế đặt vấn đề những điều kiện cho một sự phát triển bền vững có tính đến sở thích của các thế hệ tuơng lai, nguyên lí công bằng giữa các thế hệ bổ sung cho tiêu chí hiệu quả. Điều rõ ràng khác là các chỉ báo tăng trưởng phải được chỉnh sửa để tính đến suy giảm chất lượng của một số tài sản thiên nhiên.
Những điều lợi của việc bảo vệ tài sản thiên nhiên
![]() |
Harold Hotelling (1895-1973) |
![]() |
John V. Krutilla (1922-2003) |
![]() |
Kenneth Arrow (1921-2017) |
![]() |
Burton A. Weisbrod (1931-) |
Bằng cách tái hiện lại giá trị mà xã hội gán cho những tài sản thiên nhiên, nhà kinh tế làm cho việc sử dụng những tài sản này có tính duy lí và những thiệt hại gây nên cho môi trường, và cả cho sức khoẻ con người được đánh giá đúng đắn, và do đó mở hướng cho việc mở rộng những tài khoản quốc gia, đôi lúc được gọi là tài khoản xanh.
Việc quản lí những tài sản thiên nhiên
Sự lựa chọn những công cụ điều tiết việc sử dụng những tài sản thiên nhiên phần lớn dựa trên những kết luận của lí thuyết những ngoại ứng. Khuôn khổ phân tích nhất quán này được các nhà kinh tế thiết kế trong những năm 1920 cho phép đề nghị những giải pháp tối ưu về mặt lí thuyết cho những vấn đề mà sự xuống cấp của môi trường đặt ra. Trong mô hình lí thuyết thuần tuý, thất bại của thị trường phải được khắc phục bằng một thuế bằng với thiệt hại xã hội cận biên do hoạt động gây ô nhiễm tạo ra. Vào đầu những năm 1960, việc tính đến những chi phí trừ khử ô nhiễm và những ràng buộc môi trường đã cho phép mở rộng trường phân tích. Tối đa hoá phúc lợi qui lại là tối thiểu hoá chi phí xã hội của những chất thải, tổng của những chi phí xử lí và của chi phí các thiệt hại. Việc đánh một sắc thuế làm phát sinh một tỉ suất trừ khử ô nhiễm sao cho chi phí trừ khử ô nhiễm cận biên bằng với thiệt hại xã hội cận biên. Hệ thống này được ưa chuộng hơn việc đánh một sắc thuế trừ khử ô nhiễm đồng đều vốn tỏ ra tốn kém hơn cho xã hội. Trở ngại chính cho việc thiết lập một hệ thống thuế tối ưu là việc tính thiệt hại xã hội cận biên. Chỉ gần đây Cộng đồng châu Âu mới thử thực hiện kiểu tính toán này để ước lượng chi phí ngoại lai (tổng những hiệu ứng trên sức khoẻ, các hệ sinh thái, mùa màng, công trình xây dựng, v.v. thể hiện bằng những đại lượng tiền tệ) do việc sản xuất điện phát sinh. Đây là chương trình bên ngoài. Khi thiếu thông tin này các giới chức buộc phải ấn định những chuẩn chất lượng thể hiện sự tập trung tối đa những chất gây ô nhiễm trong môi trường mà xã hội tạm chấp nhận được. Như thế ta có thể tính chất thải tối đa thoả mãn chuẩn này cũng như thuế hiệu quả tối thiểu hoá tổng chi phí trừ khử ô nhiễm.
Mặc dù các nước OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải chi nhưng những hệ thống đánh thuế được xây dựng trong những năm 1970 giống với những lệ phí (nguồn thu được phân bổ cho các hoạt động trừ khử ô nhiễm) hơn là những thuế (trên nguyên tắc không phân bổ). Mới đây duy chỉ có Thụy Điển đã thiết lập một hệ thống đánh thuế (CO2 và dioxyde lưu huỳnh) có thể được coi là tối ưu. Pháp vừa bỏ hệ thống lệ phí trên các tác nhân gây ô nhiễm và thay thế bằng một thuế chung đánh vào những hoạt động gây ô nhiễm. Nhưng mức thuế vẫn còn thấp rất nhiều so với mức tối ưu. Những ràng buộc chính đối với các ngành gây ô nhiễm có tính qui định: những ngành này phải tuân thủ luật về các cơ sở được xếp hạng, và mọi hoạt động mới hay qui hoạch lại có ảnh hưởng đến môi trường phải thông qua một nghiên cứu tác động của hoạt động hay qui hoạch này (luật ngày 19 tháng 7 1976).
![]() |
John H. Dales |
Phần lớn kinh văn về kinh tế học môi trường dựa trên giả thiết là các tác nhân một cách tự phát sẽ tuân thủ những chỉ thị được ban hành. Thế mà mọi giới hạn do một phương thức hành chính áp đặt có thể bị luồn lách. Do đó chính quyền phải triển khai một chiến lược kết hợp việc theo dõi và trừng phạt, với một giá thấp nhất cho xã hội. Việc đưa vào những nhận định này có thể làm thay đổi các phân tích không tính đến chúng và dẫn đến việc tương đối hoá tính hiệu quả của một số công cụ trong trường hợp có thông tin không hoàn hảo về những thiệt hại cho môi trường hay trong trường hợp có những chi phí để trừ khử ô nhiễm.
Nghiên cứu về các công cụ quản lí không chỉ liên quan đến các vấn đề ô nhiễm. Những nghiên cứu này cũng quan tâm đến việc phân bổ trong thời gian các tài sản thiên nhiên và việc quản lí những tài sản chung. Ngày nay việc quản lí những vấn đề môi trường toàn cầu như nguy cơ làm nóng hành tinh của khí đốt gây hiệu ứng nhà kính hay việc phá huỷ tầng ozone là bấy nhiêu thách thức đặt ra cho các nhà kinh tế. Việc lựa chọn những công cụ sửa sai phải được tiến hành ở cấp độ cao hơn cấp độ quốc gia và lựa chọn này không phải không tác động đến hoạt động kinh tế của các nước. Chính như thế mà Hoa Kì dường như thích hệ thống những giấy phép thương lượng được vì hệ thống này không đưa thêm những trưng thu mới vào nền kinh tế. Ngược lại Liên minh châu Âu cho rằng hệ thống lệ phí cho phép giảm áp lực thuế trên thu nhập hay tiêu dùng mà vẫn giữ ngân sách Nhà nước cân đối, đó là nguyên lí chia đôi gánh nợ (double dividende).
▶ BAUMOL W. J. & OATES W., The Theory of Environmental Policy, Cambridge, Cambridge University Press, 1988. – BONNIEUX F. & DESAIGUES B., Économie et politiques de l’environnement, Paris, Dalloz, 1998. – BRADEN J. B. & KOLSTAD C. D. (chủ biên), Measuring the Demand for Environmental Quality, Amsterdam, Elsevier Science Publ., North-Holland, 1991. – DESAIGUES B. & POINT P., Économie du patrimoine naturel, Paris, Economica, 1993. – HAUSSMAN J. A. (chủ biên), Contingent Valuation, a Critical Assessment, Amsterdam, Elsevier Science Publ., North-Holland, 1993. – Coll. : Externalities of Energy, European Commission DG XII, Science Research and Development, Luxembourg, Office of Official Publication of EC, 1995.
Brigitte Desaigues
Giáo sư đại học Panthéon-Sorbonne (Paris 1)
Nguyễn Đôn Phước dịch
® Đấu giá ; Giá cả và cấu trúc thị trường ; Kinh tế học công cộng ; Phân tích chi phí-lợi thế ; Tài nguyên thiên nhiên ; Thế hệ đan chéo.
Nguồn: Dictionnaire des sciences économiques do Claude Jessua, Christian Labrousse và Daniel Vitry chủ biên, Paris, Presses Universitaires de France, 2001.
