22.9.20

Bố trí lại hay di dời nhà xưởng? Khi các công ty nước ngoài rời khỏi Trung Quốc

BỐ TRÍ LẠI HAY DI DỜI NHÀ XƯỞNG? KHI CÁC CÔNG TY NƯỚC NGOÀI RỜI KHỎI TRUNG QUỐC

Công nhân Trung Quốc trong một nhà máy sản xuất khẩu trang ở Thượng Hải, ngày 31/1/2020. (Nguồn: Echos)
Việc các công ty Mỹ và Nhật Bản di dời nhà xưởng có thể được giải thích theo hai động thái. Động thái thứ nhất xuất phát từ việc Hoa Kỳ tăng thuế quan đối với một số sản phẩm được sản xuất tại Trung Quốc. Động thái thứ hai đã được khởi động bởi các thông báo từ chính quyền Trump kêu gọi tách rời hai nền kinh tế Trung Quốc và Mỹ. Nó còn được củng cố bởi đại dịch, khi cho thấy sự phụ thuộc nặng nề của nhiều lĩnh vực sản xuất vào nguồn cung của Trung Quốc. Mục tiêu của việc di dời các nhà xưởng này hiếm khi là việc chuyển các nhà xưởng sản xuất tại Trung Quốc đó về lại Hoa Kỳ hoặc Nhật Bản, mà là tổ chức lại các chuỗi sản xuất toàn cầu ở Đông Nam Á, đặc biệt là ở Indonesia.
Trong những năm 1980, Đông Nam Á đã chuyển biến khi có sự định giá lại đồng yên, endaka [đồng yên lên giá]. Tự thân điều này đã dẫn đến việc đồng won Hàn Quốc và đồng đô-la Đài Loan cũng lên giá. Sự định giá lại này đã thúc đẩy việc di dời các nhà xưởng từ Đông Bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan) đến Đông Nam Á, và định hướng lại hoạt động xuất khẩu của các công ty con Nhật Bản đã hiện diện trong khu vực này.
Indonesia là nền kinh tế bị biến đổi nhiều nhất bởi endaka. Đầu những năm 1980, hoạt động xuất khẩu của thành viên sáng lập OPEC này đã bị chi phối bởi dầu mỏ, vượt xa các sản phẩm khai thác mỏ và các sản phẩm nông nghiệp. Mười năm sau, các sản phẩm chế biến chiếm hơn một nửa xuất khẩu của nước này và tỷ trọng của công nghiệp chế biến trong GDP đã tăng từ 15% lên gần 30%. Năm 1997, tại Davos, Indonesia được giới thiệu như là “Goliath của các nước mới nổi. Mười tám tháng sau, nền kinh tế của Indonesia, nạn nhân chính của cuộc khủng hoảng châu Á, sụp đổ và tạo ra tình trạng bất định khi Suharto từ nhiệm, khiến rất nhiều công ty nước ngoài phải bỏ chạy. Sau đó, việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và việc Hoa Kỳ và Việt Nam ký kết hiệp ước thương mại đã thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Trung Quốc và Việt Nam gây bất lợi cho các sản phẩm sản xuất tại Indonesia.
Vị trí của ngành sản xuất trong nền kinh tế Indonesia. (Nguồn: Ngân hàng Thế giới / Đại học Groningen)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã quay trở lại trong thập kỷ 2010: Indonesia là quốc gia thu hút nhiều nhất nguồn vốn đầu tư FDI ở Đông Nam Á. Các nguồn vốn đầu tư FDI đó đến từ đâu? Theo Ủy ban điều phối đầu tư Indonesia (BKPM), chỉ có 7 tỷ US$ đến từ Hoa Kỳ trong giai đoạn 2013-2017, nhưng BKPM không tính các nguồn vốn đầu tư trong lĩnh vực dầu mỏ, và quy cho Singapore hoặc Hồng Kông, những khoản đầu tư của các công ty Mỹ có cơ sở tại hai vùng lãnh thổ này. Tuy thế, từ năm 2013 đến năm 2017, Hoa Kỳ đã là những nhà đầu tư đầu tiên, với 35 tỷ US$, vượt xa Nhật Bản (20 tỷ US$) và Trung Quốc (7 tỷ US$). Được tiến hành trước khi sự thù địch trong quan hệ Trung-Mỹ nổ ra, cuộc điều tra của phòng thương mại Mỹ dự đoán các công ty Mỹ sẽ đầu tư 65 tỷ US$ trong năm năm tới.
Bảng các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở châu Á và Mexico từ năm 1990 đến năm 2018, ngoại trừ những năm khủng hoảng châu Á 1997. (Nguồn: CNUCED)
Trung Quốc đã cưỡng lại áp lực của Mỹ nhằm nâng tỉ giá đồng nhân dân tệ, một điều sẽ dẫn đến sự ra đi của các công ty nước ngoài. Chính sự xuất hiện những căng thẳng trên thị trường lao động kể từ năm 2005 đã dẫn đến những vụ di dời nhà xưởng đầu tiên khỏi Trung Quốc. Bị gián đoạn bởi cuộc khủng hoảng năm 2008, động thái này đã khởi động lại từ năm 2010. Việc tìm ra một giải pháp thay thế cho Trung Quốc đã biện minh cho sự ra đi không những của các công ty con nước ngoài (Hàn Quốc, Đài Loan) mà còn của các công ty Trung Quốc, đến Việt Nam, Campuchia, Miến Điện và Bangladesh để hoạt động. Rất ít công ty di dời nhà xưởng đến Ấn Độ hoặc Indonesia, những nước có chi phí đơn vị sản xuất (chi phí lao động/năng suất) cao hơn ở Trung Quốc. Từ những vụ ra đi đó, thị phần một lượng nhỏ các sản phẩm giá rẻ (trong đó có các sản phẩm may mặc và giày dép) của đất nước của Tập Cận Bình đã giảm, trên thị trường thế giới.
Danh sách rút gọn
Cộng thêm vào động thái [di dời nhà xưởng] này, được thúc đẩy bởi việc Hoa Kỳ tăng thuế quan đối với các sản phẩm sản xuất tại Trung Quốc, là một động thái thứ hai được kích hoạt bởi các tuyên bố của chính quyền Trump, kêu gọi chia tách hai nền kinh tế Trung Quốc và Mỹ. Động thái thứ hai này còn được củng cố bởi đại dịch, cho thấy nhiều ngành sản xuất (ô-tô, điện tử, thiết bị y tế) của Mỹ và Nhật Bản phụ thuộc mạnh vào nguồn cung của Trung Quốc, đã khiến các chính phủ Mỹ và Nhật Bản phải áp dụng các biện pháp (Tokyo đã lên kế hoạch hỗ trợ 2 tỷ US$) khuyến khích các công ty rút khỏi Trung Quốc. Mục tiêu của động thái thứ hai này không phải là hoặc hiếm khi là việc chuyển các nhà máy sản xuất tại Trung Quốc đó về lại Hoa Kỳ hoặc Nhật Bản, mà là tổ chức lại các chuỗi sản xuất toàn cầu ở Đông Nam Á, đặc biệt là ở Indonesia nhằm hạn chế sự phụ thuộc vào Trung Quốc.
Các cuộc điều tra của công ty Kearney cho thấy cho đến năm 2018, mức chênh lệch chi phí là tiêu chí duy nhất được các nhà sản xuất Mỹ xem xét khi quyết định sản xuất tại Trung Quốc. Từ đó đến nay, cuộc xung đột giữa Bắc Kinh và Washington đã đưa vào một biến số mới: nguy cơ tăng thuế quan. Và kể từ đại dịch, các công ty còn tích hợp thêm nguy cơ bị gián đoạn nguồn cung. Do đó, không phải chỉ có các công ty Mỹ, mà còn có các công ty của châu Á hoặc châu Âu, đã quyết định tìm các nguồn cung mới. Tiêu chí lựa chọn không chỉ là chi phí đơn vị sản xuất như trong trường hợp sản xuất các sản phẩm giá rẻ. Các công ty lựa chọn những quốc gia nào có chi phí sản xuất thấp hơn ở Hoa Kỳ, và có một thị trường trong nước có thể trở thành một tiêu trường đối với một phần sản phẩm được sản xuất. Động thái này đang ở giai đoạn sơ khai và Indonesia nằm trong “danh sách rút gọn. Đây là quốc gia lớn nhất ở Đông Nam Á, dân số tiếp tục tăng và mức lương của những việc làm có tay nghề trung bình thấp hơn ở Việt Nam. Nói tóm lại, Indonesia thu hút, một lần nữa, các công ty Mỹ.
Trong số 33 công ty Mỹ, trong đó có Microsoft, Google và Apple, đã rút khỏi Trung Quốc vào tháng 10 năm 2019, thì có 23 công ty (trong đó có thương hiệu quả táo) đã đến Việt Nam và mười công ty còn lại đến Malaysia, Thái Lan và Campuchia. Không có công ty nào đến Indonesia. Trong chuyến viếng thăm Kawasan Industri Terpadu Batang (KIT Batang), Tổng thống Jokowi đã rút kinh nghiệm từ sự thất bại này: “Sẽ có 119 công ty “di dời nhà xưởng [khỏi Trung Quốc]” và tôi không muốn Indonesia lặp lại sai lầm của năm trước”. Khu vực Batang tiếp nhận bảy công ty đã rời Trung Quốc, trong đó có công ty điện tử LG của Hàn Quốc, Denso của Nhật Bản (phụ tùng ô tô), Panasonic (điện tử) và các công ty sản xuất lốp vỏ. Mặt khác, công ty hóa chất LG cũng đang lên kế hoạch xây dựng một nhà máy sản xuất pin và một nhà máy luyện niken ở Batang.
Không gian đồng US$ và không gian đồng nhân dân tệ
Như vậy, Indonesia đang cạnh tranh với tất cả các nước ASEAN. Trong số đó, Việt Nam là nước thu hút nhiều nhất nguồn vốn đầu tư FDI (so với GDP). Indonesia còn cạnh tranh với Ấn Độ, quốc gia đã thấy trong động thái thứ hai này cơ hội để đạt được các mục tiêu của kế hoạch Sản xuất tại Ấn Độ, và cả với Mexico, cởi mở hơn với các nguồn vốn đầu tư FDI so với các nước châu Á.
Mặc dù việc di dời các nhà máy sản xuất sản phẩm giá rẻ sẽ tiếp tục diễn ra vì lý do kinh tế, bởi Trung Quốc sẽ ngày càng có ít khả năng sản xuất các loại sản phẩm đó, thì động năng của chuyển động tổ chức lại các chuỗi giá trị, vốn rất tốn kém đối với các công ty, sẽ phụ thuộc vào diễn biến của các mối quan hệ chính trị. Một ấn phẩm gần đây của Zhou Li, nguyên chủ nhiệm quan hệ quốc tế của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã nhắc đến việc di dời các chuỗi giá trị và phân chia thế giới thành không gian đồng US$ và không gian đồng nhân dân tệ.
Giới thiệu tác giả
Jean-Raphaël Chaponnière

Jean-Raphaël Chaponnière là thành viên nhóm Asie21 (Futuribles) và là cộng sự nghiên cứu tại Asia Centre [Trung tâm châu Á]. Ông là nhà kinh tế tại Cơ quan Phát triển của Pháp, Cố vấn kinh tế của Đại sứ quán Pháp tại Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ, và là kỹ sư nghiên cứu tại CNRS trong 25 năm. Tác phẩm mới nhất của ông, đồng tác giả với M. Lautier: “Economie de l'Asie du Sud-Est, au carrefour de la mondialisation” [Kinh tế Đông Nam Á, ở giao lộ toàn cầu hóa] (Bréal, 2018) và “Les économies émergentes d’Asie, entre Etat et marché [Các nền kinh tế mới nổi của châu Á, giữa Nhà nước và thị trường]” (Armand Colin, 270 trang, 2014).
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
Print Friendly and PDF