12.12.21

Trung hoà các-bon, thế lưỡng nan về than đá, khí mê-tan: kết quả nào cho châu Á tại COP26?

TRUNG HÒA CÁC-BON, THẾ LƯỠNG NAN VỀ THAN ĐÁ, KHÍ MÊ-TAN: KẾT QUẢ NÀO CHO CHÂU Á TẠI COP26?

Hubert Testard

Bộ trưởng Môi trường Ấn Độ Bupender Yadav đến chào Chủ tịch COP26 Alok Sharma, tại Glasgow vào ngày 8 tháng 11 năm 2021. (Nguồn: Twitter/@AlokSharma_RDG)

COP26 có rất nhiều sáng kiến ​​mới, ngay cả khi kết quả tổng thể vẫn thấp hơn mức mà người ta có thể mong đợi về khá nhiều chủ đề. Đối với châu Á, hội nghị đã đánh dấu một bước ngoặt lớn về những ý định, mà từ nay phải được chuyển thành thực tế. Mức đóng góp [về giảm phát thải] của các quốc gia đến năm 2030 vẫn còn rất thấp, nhưng các nước châu Á chính đã đưa ra các cam kết dài hạn về [mức] trung hòa các-bon, và họ đã tích cực đóng góp vào một loạt các tuyên bố chung, đặc biệt về vấn đề than đá và khí mê-tan. COP26 cũng là cơ hội để Trung Quốc và Hoa Kỳ thể hiện mong muốn hợp tác về biến đổi khí hậu, trái ngược với những căng thẳng song phương gay gắt trong hai năm qua.

Trên toàn cầu, châu Á đang bắt đầu tham chiến chống lại hiện tượng biến đổi khí hậu, ngay cả khi vẫn còn một số quốc gia chậm trễ, chẳng hạn như Úc hay Singapore, và ngay cả khi vấn đề than đá vẫn là trở ngại chính. Sự thay đổi quan trọng nhất liên quan đến các mục tiêu dài hạn.

CHÂU Á ĐƯA RA CÁC CAM KẾT VỀ MỨC TRUNG HÒA CÁC-BON TỪ NĂM 2050 ĐẾN NĂM 2070

Trong số những thành tựu lớn của COP26 có sự nhân rộng các cam kết về trung hòa các-bon. Đây là một thay đổi cơ bản trong các chính sách được theo đuổi cho đến nay. Do các nước đang phát triển châu Á, cho đến nay, đã đưa ra những cam kết mang tính dữ liệu “tương đối”, nói chung dưới hình thức cường độ các-bon trên một đơn vị GDP, còn tương thích với một sự gia tăng nhanh mức khí thải của họ. Ví dụ, Trung Quốc, ngay năm 2009, đã đưa ra cam kết giảm từ 40 đến 45% mức phát thải trên một đơn vị GDP từ năm 2005 đến năm 2020. Trung Quốc đã tuân thủ cam kết đó, nhưng điều đó vẫn không ngăn được mức phát thải CO2 của họ tăng 84% trong thời kỳ nói trên, sự tăng trưởng của GDP Trung Quốc còn lớn hơn so với mức bù đắp cho các nỗ lực làm giảm cường độ các-bon của nước này.

Trong số các nước phát triển châu Á, một số nước như Singapore cũng đã áp dụng chính sách cải thiện [mức giảm phát thải] một cách tương đối. Chính sách đó đã dẫn đến một mức tăng phát thải về giá trị tuyệt đối là 35% trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2020. Singapore là một nước giàu, nhưng vẫn được hưởng quy chế nước đang phát triển tại Liên Hợp Quốc, khi quy chế này vẫn còn có lợi cho mình. Một số nước khác như Nhật Bản và Úc đã đưa ra các cam kết có giới hạn mà họ không tuân thủ. Tuy nhiên, Nhật Bản đã cố gắng giảm được phần nào mức phát thải khí nhà kính của họ, trong khi mức phát thải của Úc tăng 30% trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2018 (dữ liệu có sẵn của năm gần nhất đối với toàn bộ mức phát thải khí nhà kính). Giờ đây, chuẩn mực mới là chuẩn mực trung hòa các-bon, có thể biến động từ năm 2050 đến năm 2070, đối với một số nước, đặc biệt là Trung Quốc, còn có hạn định đỉnh điểm phát thải.

Cam kết của các nước Đông Bắc Á tại CPP26

Quốc gia

Đỉnh điểm phát thải

Cam kết cho năm 2030

Trung hòa các-bon (năm)

Trung Quốc

Trước năm 2030

Giảm 65% cường độ các-bon trên một đơn vị GDP kể từ năm 2005

2060

Nhật Bản

Năm 2013

Giảm 45% mức phát thải so với năm 2005

2050

Hàn Quốc

Năm 2018

Giảm 24,4% mức phát thải so với năm 2017, tức là giảm 8% so với năm 2005 (mức phát thải của Hàn Quốc tăng hơn 20% từ năm 2005 đến 2017)

2050

Cam kết của các nước Đông Nam Á tại CPP26

Quốc gia

Đỉnh điểm phát thải

Cam kết cho năm 2030

Trung hòa các-bon (năm)

Indonesia

Không xác định

Giảm từ 29% đến 41% cường độ các-bon so với năm 2010, tức là tăng 26% mức phát thải về giá trị tuyệt đối (giả định thuận lợi nhất). 50% mức phát thải do phá rừng.

2060

Malaysia

Không xác định

Giảm 45% cường độ các-bon so với năm 2005.

2050

Thái Lan

Không xác định

Giảm từ 29% đến 41% cường độ các-bon so với năm 2005, tức là tăng từ 14% đến 22% mức phát thải về giá trị tuyệt đối.

2065

Singapore

Năm 2030, ở mức 27% cao hơn so với năm 2005

Giảm 36% cường độ các-bon so với năm 2005.

2060

Philippines

Không xác định

Tránh tăng 3/4 mức phát thải dự kiến từ nay đến năm 2020 so với năm 2020, tức là tăng 10% mức phát thải về giá trị tuyệt đối, nếu nhận đủ nguồn viện trợ của quốc tế (nếu không, thì tăng 40%).

Không cam kết.

Việt Nam

Không xác định

Giảm từ 9% đến 27% cường độ các-bon từ năm 2020 đến năm 2030, tức là tăng từ 55% đến 69% mức phát thải về giá trị tuyệt đối.

2050

Cam kết của các nước Nam Á tại CPP26

Quốc gia

Đỉnh điểm phát thải

Cam kết cho năm 2030

Trung hòa các-bon (năm)

Ấn Độ

Không xác định. Một số chuyên gia gợi ý vào năm 2040.

Giảm 45% cường độ năng lượng kể từ năm 2005 và 500GW công suất điện từ các nguồn năng lượng tái tạo vào năm 2030.

2070

Pakistan

Không xác định. Tăng 51% mức phát thải từ năm 2005 đến năm 2018.

Đạt 60% công suất điện từ các nguồn năng lượng tái tạo. Giảm từ 15 đến 50% cường độ các-bon vào năm 2030 so với năm 2018 (50% nếu giả định nhận được nguồn viện trợ của quốc tế cao hơn 100 tỷ US$)

Không cam kết

Trung Quốc đã phát động phong trào hướng tới trung hòa các-bon vào tháng 9 năm 2020 trong bài phát biểu của [Chủ tịch] Tập Cận Bình trước Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Hàn Quốc và Nhật Bản cũng đã đưa ra cam kết vào tháng 10 năm 2020. Các thông báo khác [về năm đạt mức trung hoà các-bon] đã được đưa ra trong thời gian rất gần đây. Một số nước mới vừa đưa ra cam kết về mức giảm phát thải ngay trước hoặc trong thời gian diễn ra COP26. [Thủ tướng Ấn Độ] Narendra Modi đã gây bất ngờ, trong bài phát biểu của ông tại Glasgow, khi tuyên bố mức cam kết trung hòa các-bon của Ấn Độ đến năm 2070, khiến toàn bộ giới chính trị Ấn Độ phải ngạc nhiên, do cho đến giờ họ vẫn kiên quyết chống lại các áp lực quốc tế về chủ đề này.

Các nhà lãnh đạo châu Á khác còn đi xa hơn Modi. Việt Nam, trước giờ không mấy tích cực, cũng đã cam kết đạt mức trung hoà các-bon vào năm 2050, giống thời hạn của các nước đã phát triển, cùng với Malaysia và Sri Lanka, trong khi Nepal còn đi xa hơn khi đưa ra cam kết đạt mức này vào năm 2045 (giống thời hạn của Đức). Cam kết đạt mức trung hoà các-bon của Indonesia giống với Trung Quốc (năm 2060), còn Thái Lan đã có những tuyên bố mâu thuẫn, khi cam kết đạt mức trung hoà các-bon vào năm 2065 và sau đó là năm 2050.

Cuối cùng, Úc cũng đã tham gia sự đồng thuận với các nước đã phát triển về đỉnh điểm [phát thải] đến năm 2050, trong khi Singapore đã làm theo Trung Quốc với đỉnh điểm [phát thải] vào năm 2030 và mức trung hòa các-bon vào năm 2060. Trong một số ít nước còn nằm ngoài động thái này có Philippines. Đất nước của [tổng thống] Rodrigo Duterte đã chờ đến tháng 4 năm 2021 để trình bày mức đóng góp đầu tiên của họ (NDC hay “mức đóng góp do quốc gia tự quyết định” theo biệt ngữ của Liên hợp quốc), theo đó 97% nỗ lực hạn chế phát thải sẽ dựa vào nguồn hỗ trợ của quốc tế. Một số nước khác như Pakistan hay Bangladesh vẫn chưa đưa ra cam kết, nhưng đang tiếp tục tranh luận nội bộ về chủ đề này.

Nhìn chung, những cam kết dài hạn về khí hậu của các nước châu Á đã bị COP26 làm xáo trộn. Nhưng đó không phải là những cam kết liên quan đến thập kỷ 2020-2030.

KHOẢNG CÁCH GIỮA CÁC CAM KẾT TRUNG VÀ DÀI HẠN TRỞ NÊN XA VỜI VỢI

Các chuyên gia của Liên hợp quốc nhấn mạnh rằng những cam kết mới của các nước chỉ được cải thiện một chút đến năm 2030 so với những cam kết đã được đưa ra tại COP21 ở Paris. Theo tính toán của họ, quỹ đạo nhiệt độ thời tiết đến năm 2100 vẫn tiếp tục tăng thêm vào khoảng 2,7 độ, gần gấp đôi so với mục tiêu 1,5 độ được ấn định vào năm 2015.

Phân tích này của các chuyên gia Liên hợp quốc liên quan đặc biệt đến châu Á. Một trong những chỉ báo quan trọng là thời hạn đỉnh điểm phát thải theo từng nước. Các nước phát triển châu Á đã trải qua đỉnh điểm phát thải gần đây (từ năm 2012 đến năm 2018, thậm chí cả đến năm 2030 đối với Singapore), trái ngược với trường hợp của Liên minh châu Âu, những nước có mức phát thải giảm chậm nhưng liên tục kể từ năm 1990.

Trong số các nước đang phát triển, thì chỉ có Trung Quốc cam kết đạt đỉnh điểm [phát thải] trước năm 2030, nhưng về cơ bản nước này đã không thay đổi kế hoạch hành động cho thập kỷ 2020. Thông báo của Modi về đỉnh điểm [phát thải] của Ấn Độ vẫn còn mơ hồ (người ta không biết đỉnh điểm đó có bao gồm toàn bộ khí nhà kính hay không) và cũng không kèm theo bất kỳ kế hoạch hành động nào ở giai đoạn này. Trường hợp của Việt Nam minh họa một cách hoàn hảo những mâu thuẫn của châu Á: đỉnh điểm [phát thải] năm 2030 của nước này, được mô tả trong đóng góp [giảm phát thải] của quốc gia, đã không hề thay đổi kể từ năm 2015 và vẫn còn tương thích với một sự gia tăng phát thải đáng kể mới (trên 50%) trong khi mức trung hòa các-bon, từ nay, được nhắm đến cho gần hai mươi năm sau. Tuyên bố Glasgow kêu gọi các nước thành viên của hiệp định cải thiện kế hoạch hành động cho COP27, sẽ diễn ra vào cuối năm 2022 tại Sharm-el-Sheikh, Ai Cập. Rõ ràng là các nước châu Á cần phải làm nhiều hơn, nếu muốn bắt đầu làm cho các mục tiêu [giảm phát thải] dài hạn mới của họ trở nên đáng tin.

THẾ LƯỠNG NAN CỦA THAN ĐÁ

Sự căng thẳng giữa mục tiêu và thực tế đặc biệt gay gắt đối với than đá. Tại COP26, đã có 46 nước cùng ký tuyên bố ”chuyển đổi toàn cầu từ than đá sang năng lượng sạch”. Tuyên bố này đặc biệt dự kiến chấm dứt hoạt động của các nhà máy nhiệt điện than vào những năm 2030 đối với các nước phát triển, và vào những năm 2040 đối với các nước khác, đồng thời chấm dứt việc cấp phép xây dựng các nhà máy nhiệt điện than mới.

Đã có mười một nước châu Á ký kết tuyên bố này, nhưng không có Trung Quốc, Ấn Độ hay Nhật Bản. Ngoài ra, Indonesia và Philippines chỉ ủng hộ một phần văn kiện nói trên, khi đặc biệt từ chối cam kết ngừng xây dựng các nhà máy nhiệt điện than mới. Việt Nam lại gây bất ngờ: mặc dù nước này vẫn phụ thuộc 50% vào than đá cho nguồn tiêu thụ năng lượng sơ cấp, nhưng nước này đã không ngần ngại ký kết bản tuyên bố chung. Singapore cũng đã ký văn kiện đó, với tất cả sự nhiệt tình vì thành phố-nhà nước này không có nhà máy nhiệt điện than nào trên lãnh thổ của họ. Úc đã nổi bật bởi sự miễn cưỡng của họ về tất cả các vấn đề liên quan đến năng lượng hóa thạch, đến mức nước này đã nhận được giải thưởng “hóa thạch khổng lồ” và “nước tồi tệ nhất của hội nghị” của tổ chức phi chính phủ Climate Action Network [Mạng lưới Hành động vì Khí hậu].

Jennifer Morgan

Một tình tiết khác của COP26 để minh họa cho những khó khăn của các nước lớn châu Á trong việc loại bỏ than đá. Để duy trì mục tiêu giới hạn nhiệt độ thời tiết tăng ở mức 1,5 độ, đoàn chủ tịch COP26 của Anh đã có sáng kiến ​​đề xuất một “hiệp định Glasgow vì khí hậu”, không phải là một văn kiện chính thức của COP, nhưng bổ sung thêm một điểm xuyết ý chí chính trị cho toàn bộ cuộc đàm phán. Người Anh đã đề xuất đưa vào Hiệp định Glasgow mục tiêu “đẩy nhanh việc loại bỏ dần than đá và các khoản trợ cấp cho năng lượng hóa thạch”. Nhưng vào phút cuối, Bộ trưởng Bộ Môi trường Ấn Độ, đặc biệt được sự ủng hộ của Trung Quốc, đã đưa ra một công thức ít mang tính bắt buộc hơn: “đẩy nhanh nỗ lực nhằm giảm thiểu vị trí của than đá và loại bỏ các khoản trợ cấp không hiệu quả cho năng lượng hóa thạch”. Jennifer Morgan, nữ Giám đốc của tổ chức Greenpeace International, đã tóm tắt phân tích của các nước tham gia tại COP26 như sau: “Họ đã thay đổi một vài từ, nhưng họ đã không thể thay đổi được tín hiệu. Kỷ nguyên than đá đang đến hồi kết.”

THẤT VỌNG VỀ SỰ VẬN ĐỘNG ĐỐI VỚI KHÍ MÊ-TAN

COP26 cũng là cơ hội để vận động giảm phát thải khí mê-tan, một loại khí nhà kính độc hại thứ hai sau CO2, chiếm khoảng 20% ​​mức phát thải khí nhà kính toàn cầu. Theo sáng kiến ​​của Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu, đã có hơn một trăm nước ký “cam kết toàn cầu về khí mê-tan”, với tham vọng giảm ít nhất 30% lượng phát thải khí mê-tan từ năm 2020 đến năm 2030. Châu Á-Thái Bình Dương chiếm một tỷ lệ phát thải khí mê-tan toàn cầu thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ phát thải CO2 (37% so với 50%). Tuy nhiên, sự vận động của châu Á về chủ đề này vẫn còn thất vọng. Chỉ có mười một nước châu Á-Thái Bình Dương đã ký cam kết về khí mê-tan. Trong số những nước lớn chưa ký cam kết đó có Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan.

VẤN ĐỀ TÀI TRỢ: ĐỘNG THÁI CỦA NHẬT BẢN

Ý chí tập thể nhằm thúc đẩy các nỗ lực chống lại sự biến đổi khí hậu đã dẫn đến những cuộc tranh luận rất sôi nổi về các vấn đề tài chính tại Glasgow. Các nước đang phát triển và các nước dễ bị tổn thương đã nhấn mạnh đến việc các nước phát triển không có khả năng đáp ứng các cam kết viện trợ tài chính của họ, và đặc biệt là mức viện trợ 100 tỷ US$ mỗi năm, vốn đã được ấn định tại hội nghị Stockholm năm 2009.

Như một trong những đại diện của Diễn đàn các nước dễ bị tổn thương vì khí hậu đã nhấn mạnh với trang Carbon Brief, “nếu lấy trường hợp của Covid-19, thì đã có hàng tỷ tỷ US$ được chi trong một thời gian rất ngắn để đối phó với cuộc khủng hoảng. Liệu Covid-19 có quan trọng hơn vấn nạn biến đổi khí hậu hay không?”

Về chủ đề này, thông báo mới quan trọng nhất đến từ Nhật Bản. Trong bài phát biểu trước khi diễn ra COP26, tân Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida đã cam kết bổ sung 10 tỷ US$ khoản viện trợ tài chính mà nước này đã hứa, nâng mức viện trợ tổng thể của Nhật Bản dành cho các nước đang phát triển lên 70 tỷ US$ trong 5 năm tới. Cùng với các khoản tài trợ bổ sung của Ngân hàng Thế giới, thông báo nói trên có thể góp phần đạt được mốc 100 tỷ US$ viện trợ cho các nước đang phát triển ngay từ năm 2022.

BẤT NGỜ VỚI TRUNG QUỐC VÀ HOA KỲ

John Kerry (1943-)
Xie Zhenhua (1949-)

Điều bất ngờ mới nhất của COP26 là sự hợp tác giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ về vấn đề khí hậu. Vào tháng 4 năm 2021, theo sự tham mưu của John Kerry đại diện của Mỹ về vấn đề khí hậu, hai nước đã ký một tuyên bố chung về cuộc khủng hoảng khí hậu, và đã tổ chức một cuộc họp song phương về chủ đề này tại Thiên Tân vào tháng 9. Xie Zhenhua đại diện về vấn đề khí hậu của Trung Quốc đã bình luận về bản tuyên bố mới, cho biết hai nước đã có nhiều điểm nhất trí hơn là điểm bất đồng về vấn đề khí hậu và sẽ thành lập một nhóm công tác song phương để tăng cường hành động chung trong thập kỷ hiện tại.

Một trong những điểm cụ thể của bản tuyên bố chung này là sự nhấn mạnh đến khí mê-tan. Bắc Kinh không muốn ký cam kết toàn cầu về khí mê-tan (có lẽ vì các chuyên gia Trung Quốc không chắc có thể đáp ứng được cam kết đó), nhưng trong bản tuyên bố với Hoa Kỳ, Trung Quốc cam kết sẽ sớm xây dựng một kế hoạch hành động quốc gia về khí mê-tan, sẽ mang tính “toàn cầu và đầy tham vọng”, và sẽ lên kế hoạch cho một cuộc họp song phương mới về chủ đề này vào nửa đầu năm 2022. Thế nên, chủ đề biến đổi khí hậu được khẳng định như là một lĩnh vực hợp tác chính, thay cho bầu không khí ngờ vực và đối đầu chung, đang chi phối các mối quan hệ giữa hai nước. Một ngoại lệ cần thiết và đáng hoan nghênh.

Nhìn chung, COP26 chắc chắn là hội nghị về sự nhận thức đầy đủ của các nước Châu Á về các thách thức khí hậu. Nhu cầu hành động của mỗi nước nhằm hướng tới việc trung hòa các-bon là điều không còn gây tranh cãi, và việc loại bỏ dần các nguồn năng lượng hóa thạch, từ nay, được coi là một ràng buộc thực sự. Thập kỷ 2020 sẽ là thập kỷ của một sự điều chỉnh các quỹ đạo [giảm phát thải], và các nước đang phát triển ở châu Á cần phải triển khai các kế hoạch hành động để đạt được đỉnh điểm phát thải các-bon và bắt đầu đảo ngược các xu hướng sử dụng năng lượng. Hẹn gặp lại ở Sharm el-Sheikh vào cuối năm 2022 để xem mức độ các ý định được chuyển hóa thành hành động như thế nào.

Giới thiệu tác giả

Hubert Testard

Hubert Testard

Hubert Testard là chuyên gia về các vấn đề châu Á và kinh tế quốc tế. Ông từng là cố vấn kinh tế và tài chính trong 20 năm ở các đại sứ quán Pháp tại Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và Singapore cho ASEAN. Ông cũng đã tham gia vào việc phát triển các chính sách của Châu Âu và đặc biệt là chính sách thương mại, cho dù đó là WTO hay các cuộc đàm phán với các nước Châu Á. Từ bốn năm nay, Hubert Testard là giảng viên về phân tích tương lai học của châu Á, tại trường Cao đẳng về các vấn đề quốc tế thuộc Học viện chính trị [Sciences Po]. Ông đã xuất bản cuốn sách có tựa đề “Pandémie, le basculement du monde [Đại dịch, sự chuyển hướng của thế giới]”, vào tháng 3 năm 2021, NXB Editions de l'Aube.

Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch

Nguồn: Neutralité các-bone, dilemme du charbon, méthane : quel bilan pour l'Asie à la COP26?, Asialyst, ngày 03/12/2021.

----

Bài có liên quan: Đọng lại điều gì từ COP26?

Print Friendly and PDF