1.7.22

Bước tiến nhỏ của Tạp chí Nature, bước nhảy vọt lớn vượt qua khoảng cách giới: tạp chí hàng đầu sẽ bắt buộc báo cáo về giới tính và giới trong nghiên cứu

BƯỚC TIẾN NHỎ CỦA TẠP CHÍ NATURE, BƯỚC NHẢY VỌT LỚN VƯỢT QUA KHOẢNG CÁCH GIỚI: TẠP CHÍ HÀNG ĐẦU SẼ BẮT BUỘC BÁO CÁO VỀ GIỚI TÍNH VÀ GIỚI TRONG NGHIÊN CỨU

Tác giả: Kelly Burrowes

Ảnh: Shutterstock

Giống như trong nhiều khía cạnh của cuộc sống, vẫn còn tồn tại thành kiến về giới tính đối với nữ giới trong các lĩnh vực STEM[1]. Và thành kiến này có tác động tiêu cực không chỉ đối với nữ giới, mà còn đối với nam giới - và cả những người nằm ngoài danh mục nhị phân[2].

Tạp chí Nature hiện đang thực hiện một bước nhảy vọt về bình đẳng giới tính và giới với các yêu cầu báo cáo mới và đó là một bước đi đúng hướng đáng hoan nghênh.

Tôi làm việc trong lĩnh vực kỹ thuật sinh học, và các nhà nghiên cứu như tôi hiểu trực tiếp được những thiệt hại có thể gây ra khi giới tính và giới không được đánh giá đúng - và báo cáo - trong nghiên cứu.

Một chính sách mới của Tạp chí Nature

Kể từ tháng 6, các nhà nghiên cứu nộp bài viết cho một mục phụ của các tạp chí theo chuyên đề của Tạp chí Nature (xem chi tiết tại đây) sẽ cần phải mô tả liệu giới tính và giới có được xem xét trong thiết kế nghiên cứu hay không và xem xét như thế nào.

Nếu không thực hiện phân tích giới tính và giới, các tác giả sẽ cần phải làm rõ lý do tại sao. Điều này sẽ áp dụng để làm việc với các bên tham gia là con người, cũng như với các động vật có xương sống khác và các nghiên cứu thử nghiệm tế bào. Vì vậy, theo cách tương tự như đối với sự chấp thuận về mặt đạo đức, đăng ký thử nghiệm lâm sàng hoặc sự đồng tình sau khi đã được thông báo đầy đủ thì việc xem xét giới tính và giới cũng phải được chứng minh khi có liên quan.

Nhưng giới tính và giới là gì?

“Giới tính” và “giới” là những thuật ngữ thường được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng chúng không giống nhau. Giới tính đề cập đến các thuộc tính sinh học, bao gồm di truyền và cơ quan sinh sản. Giới được định hình bởi những ảnh hưởng xã hội và văn hóa, và có thể phù hợp hoặc có thể không phù hợp với giới tính sinh học của một cá nhân. Cả giới tính và giới đều có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng ta.

Các tác giả viết cho Tạp chí Nature cũng sẽ cần trình bày “dữ liệu được chia tách theo giới tính và giới” nếu có liên quan. Điều này có nghĩa là thay vì (thường xuyên xảy ra) cách tiếp cận gộp dữ liệu nam và nữ lại với nhau, thì các dữ liệu sẽ cần được tách biệt.

Đây là một động thái cần thiết nhằm làm sáng tỏ sự khác biệt giữa nam và nữ. Các nhà nghiên cứu được khuyến khích tuân theo bản hướng dẫn về Giới tính và Bình đẳng Giới trong Nghiên cứu khi thiết kế các đề tài nghiên cứu.

Bản hướng dẫn về Giới tính và Bình đẳng Giới trong Nghiên cứu là một thủ tục để báo cáo thông tin về giới tính và giới trong thiết kế nghiên cứu, phân tích dữ liệu và kết quả. Ảnh: SAGER

Thiếu quan tâm đến giới tính và giới khiến tất cả đều có nguy cơ

Việc không thực hiện phân tích giới tính và giới xảy ra trong một loạt các lĩnh vực. Ví dụ, trong lĩnh vực kỹ thuật, an toàn xe hơi được thiết kế cho cơ thể nam giới trung bình. Điều này khiến phụ nữ có nguy cơ bị thương và tử vong cao hơn trong trường hợp va chạm.

Một ví dụ khác đến với công nghệ nhận dạng khuôn mặt, trong đó các nghiên cứu đã phát hiện tỷ lệ sai sót ở nữ cao hơn ở nam (và cũng cao hơn đối với người da sẫm màu), khi phân loại “giới”.

Nhưng y học là một trong những lĩnh vực có lẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi tình trạng thiếu báo cáo dựa trên giới tính và giới.

Hậu quả cũng có thể rất nghiêm trọng trong y học, khi sự hiểu biết hạn chế về sự khác biệt giới tính trong sinh học và bệnh tật có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe. Giới tính sinh học của chúng ta có thể khiến chúng ta có nhiều khả năng mắc một số bệnh nhất định. Giới tính sinh học có thể khiến chúng ta phản ứng khác nhau với các yếu tố bên trong (chẳng hạn loại thuốc chúng ta đang dùng) hoặc các yếu tố bên ngoài (chẳng hạn căng thẳng đầu óc). Thậm chí giới tính sinh học có thể khiến chúng ta cảm thấy đau một cách khác nhau.

Giới tính của chúng ta có thể ảnh hưởng đến cách chúng ta biểu hiện các triệu chứng của các bệnh tương tự, chẳng hạn đau timđột quỵ. Ví dụ: các triệu chứng của cơn đau tim ở phụ nữ, chẳng hạn mệt mỏi, khó thở và buồn nôn được cho là “không điển hình” và dẫn đến việc điều trị và kết quả tồi tệ hơn.

Những thành kiến lớn về nam giới đã tồn tại trong tất cả các giai đoạn nghiên cứu y học. Có nhiều lý do cho việc này. Một là sinh học của nữ giới thường có thể làm phức tạp mọi thứ. Nội tiết tố của nữ giới dao động hàng tháng và trong suốt cuộc đời của cô ấy.

Một lý do khác, về mặt lịch sử, là chủ nghĩa bảo hộ. Mặc dù điều đó gần như không thể tin được (nhưng có thật), những phụ nữ “có khả năng sinh con” đã bị loại khỏi các thử nghiệm lâm sàng từ năm 1977 đến năm 1993, để bảo vệ đứa trẻ “tiềm năng chưa được sinh ra”.

Trên hết, đơn giản là sự thiếu nhận thức và một giả định lịch sử (mặc dù điều này cuối cùng đã thay đổi) rằng những gì áp dụng cho nam giới cũng áp dụng cho nữ giới.

Đàn ông cũng có thể bị hại

Định kiến giới tính trong y học không chỉ khiến sức khỏe của nữ giới gặp nguy hiểm; nó cũng có thể gây nguy hiểm cho nam giới. Ví dụ, loãng xương phổ biến hơn đến bốn lần ở nữ giới. Do đó, những người đàn ông được kiểm tra và chẩn đoán thiếu kỹ càng trong lĩnh vực này - nhưng họ có nguy cơ cao bị biến chứng hoặc tử vong sau khi bị gãy xương.

Virus COVID-19 cũng được chứng minh là có sự khác biệt giữa các giới, với nam giới có nhiều khả năng cần được đặc biệt điều trị chăm sóc và có nguy cơ tử vong cao hơn. Những khác biệt này dẫn đến những câu hỏi xung quanh (các) lý do đằng sau điều này.

Sự khác biệt giới tính cơ bản gây ra điều này là gì? Đó có phải là hệ thống miễn dịch? Đó có phải là sự khác biệt về nội tiết tố? Vẫn còn nhiều điều chưa biết.

Chúng ta phải thừa nhận khoảng cách về giới tính và giới

Một trở ngại lớn trong việc thu hẹp khoảng cách giới trong lĩnh vực y tế là do thiếu nhận thức rằng khoảng cách như vậy vẫn còn tồn tại. Quan điểm giới tính và giới trong sức khỏe và sinh học cần được tích hợp vào tất cả các khía cạnh của y học - từ nghiên cứu sức khỏe đến giáo dục y tế, thông qua thực hành lâm sàng. Điều này đòi hỏi nỗ lực phối hợp từ các chính phủ, hệ thống giáo dục và ngành nghề.

Kelly Burrowes

Nhiều sáng kiến và viện nghiên cứu đã được thành lập trên khắp thế giới để giải quyết các vấn đề xung quanh giới tính, giới và y tế, chẳng hạn Viện Giới tính và Y tế của Canada. Úc và New Zealand cần liên kết với các quốc gia khác và thực hiện phân tích giới tính và giới trong nghiên cứu sức khỏe và y tế.

Và tôi xin nhắc lại những lời khôn ngoan của Tạp chí Nature: “Giải thích giới tính và giới giúp cho khoa học được trở nên tốt hơn.”

Về tác giả

Kelly Burrowes là Nghiên cứu viên cao cấp, Đại học Auckland. Bà cũng là người sáng lập Tổ chức The FemTech Revolution.

Người dịch: Lê Thị Hạnh

Nguồn:Small step for Nature, giant leap across the gender gap: leading journal will make sex and gender reporting mandatory in research, The Conversation, ngày 27.05.2022




Chú thích:

[1] các ngành học về Science (Khoa học), Technology (Công nghệ), Engineering (Kỹ thuật) và Mathematics (Toán học) (Wikipedia). (ND)

[2] đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính, chuyển giới, …. (ND)

Print Friendly and PDF