27.10.22

Tác phẩm của Annie Ernaux vào thời điểm được quốc tế công nhận

TÁC PHẨM CỦA ANNIE ERNAUX VÀO THỜI ĐIỂM ĐƯỢC QUỐC TẾ CÔNG NHẬN

Tác giả: Elise Hugueny-Léger

Giảng sư, Khoa Ngôn ngữ hiện đại, Đại học St Andrews (Scotland)

Tác giả Annie Ernaux đã nhận được giải thưởng Nobel văn chương ngày 6 tháng 10 năm 2022 cho toàn bộ các tác phẩm của bà. Ảnh chụp ở Cannes tháng năm 2022. Julie Sebadelha/AFP

Annie Ernaux, tác giả của hồi ức cá nhân và tập thể, với những công trình kết hợp tinh tế giữa văn học tự truyện và quan sát xã hội học, đã nhận được giải Nobel văn chương ngày 6 tháng 10 năm 2022.

Ernaux đã xuất bản tiểu thuyết đầu tiên của bà, Les armoires vides - Những cái tủ trống -, vào năm 1974. Trong tiểu thuyết này, bà đã kể lại câu chuyện được hư cấu hóa về việc phá thai bất hợp pháp của bà vào năm 1964, lúc bà còn là sinh viên và đang dần rời xa môi trường sinh trưởng của mình – một gia đình bình dân ở Normandie, cha mẹ lúc đầu là công nhân sau đó chuyển thành tiểu thương. Và ngay c 25 năm sau khi tác phẩm Le Deuxième Sexe – Giới tính thứ hai – của Beauvoir ra đời, xã hội Pháp vẫn còn bị nhào nặn bởi những phán xét đạo lý và đạo đức giả về các quyền của phụ nữ trong lĩnh vực sinh sản. Với Les armoires vides, Ernaux đã đưa ra tấm kính soi chiếu cho nhiều phụ nữ xuất thân từ tầng lớp bình dân đã phải nhờ đến những cuộc phá thai lén lút có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.

Với lối hành văn rất từ tốn (mà chính bà cho là “lối viết phẳng lặng” - (hành văn chân thực, giản dị - ND), Annie Ernaux là hình ảnh của một nhà văn không khoan nhượng và trung thực. Trong những năm 1980-1990, bà khẳng định vị trí của mình nhờ những tác phẩm tự truyện như La place - Chỗ đứng -, kể chuyện cuộc đời của cha bà; quyển sách đã đem lại cho bà giải thưởng Renaudot năm 1984. Ngày nay bà được xem là nhà văn nữ quan trọng và các tác phẩm của bà được giảng dạy rộng rãi trong các trường trung học và đại học.

Trong một thời gian dài Annie Ernaux đã không được công chúng trong đa số các nước nói tiếng Anh biết đến – Từ lâu các tác phẩm của bà đã được dịch tại Mỹ, và được nghiên cứu trong giới đại học nói tiếng Anh từ những năm 1980-1990. Nhưng sự bất công này đang được sửa chữa, nhờ bản dịch mới đây của hai trong số tác phẩm quan trọng của bà: Les années - Những năm tháng -, một “tự truyện tập thể” bao quát 6 thập niên lịch sử cá nhân và xã hội, đang là ứng viên giải thưởng quốc tế Man Booker; và L’événement - Biến cố -, trong đó Ernaux trở lại với chủ đề phá thai bất hợp pháp, nhưng lần này dưới hình thức tự truyện.

Phụ nữ và xã hội

The Years, 2008.

Nhờ nội dung có nhiều cao vọng và hình thức kể chuyện độc đáo, Les années (The Years) đã được chào đón hầu như bởi tất cả mọi người vào lúc nó được xuất bản, Quyển sách là sự kết nối tự truyện với xã hội học và hồi ức tập thể, bằng cách dùng các đại từ nhân xưng “cô ấy” hay “chúng ta” thay vì “tôi” để nêu bật những thay đổi văn hóa-xã hội sâu sắc mà nhà văn đã chứng kiến từ thời thơ ấu trong những năm 1940 cho đến cuối thế kỷ XX.

Để tái hiện dòng thời gian tất yếu đã trôi qua, Les années đào sâu trong các ngạn ngữ, bài ca, quảng cáo, các biểu tượng, các biến cố lịch sử và các giai thoại cá nhân. Làm như thế, quyển sách k về diễn biến của vị trí người phụ nữ trong xã hội Pháp và cuộc đấu tranh của họ cho tự do tình dục và sự độc lập tự chủ.

Truyền thông Pháp đã phản ứng một cách ít phấn khích hơn với việc xuất bản tác phẩm L’événement vào năm 2000, sách nói về tình hình phá thai và những hậu quả của nó trước khi có luật vào năm 1975 (Loi IVG - luật tự nguyện chấm dứt mang thai, còn gọi là Loi Simone Veil - ND). Một số phê bình lộ rõ không thoải mái với chủ đề cũng như li hành văn thô mộc như đoạn văn sau đây nêu rõ khi mô tả người giúp phá thai lén lút:

Tôi đã đạt đến hình ảnh của căn phòng. Nó vượt quá sự phân tích. Tôi chỉ có thể chìm vào trong nó. Dường như người phụ nữ này đang bận việc ở giữa hai chân của tôi, đưa cái mỏ vịt vào, làm cho tôi được sinh ra. Tôi đã giết mẹ tôi trong tôi vào lúc ấy.

Với quyển sách này, Annie Ermaux mong muốn nêu lên điều mà các luật về phá thai có ý nghĩa gì trong thực tế, điều mà cho đến lúc đó chỉ được diễn đạt bằng điều không nói ra:

Nhiều tiểu thuyết gợi ra một việc phá thai, nhưng chúng không cung cấp các chi tiết về cách mà việc ấy chính xác đã diễn ra. Giữa lúc cô gái biết mình có thai và lúc cô ấy không còn mang thai nữa, có những chi tiết bị bỏ qua, không được nêu lên…

L’événement phá tan sự im lặng này: với sự chính xác nhưng không bi lụy, Ernaux nêu chi tiết không khí bảo thủ đang bao trùm nước Pháp trong những năm 1960 hoàn toàn bằng những phán xét đạo lý, và sự thất vọng của chính bà, sự cô đơn trong khi bà tìm một giải pháp vào một thời kỳ mà ngay cả từ ngữ phá thai cũng “không có chỗ đứng trong ngôn ngữ”. Bà mô tả những điều kiện khủng khiếp của việc phá thai của bà – rốt cùng sau khi đã tìm được một người giúp phá thai, bà đã sẩy thai ở ký túc xá sinh viên và suýt chết vì bị băng huyết.

Ernaux trong những năm 1960. Inventoire

L’événement không chỉ là câu chuyện của trải nghiệm cá nhân, gây chấn thương về thể xác và tâm lý. Nó còn là vấn đề ý nghĩa của biến cố này. Annie Ernaux thăm dò các phản ứng của những người đàn ông chung quanh bà, trong bối cảnh của thời kỳ và hoàn cảnh xã hội của bà.

Các nam sinh viên chung quanh bà được mô tả là bị cuốn hút bởi “tình trạng” phụ nữ mang thai của bà, và một số còn thử lợi dụng tình trạng “điều bất hạnh đã xảy ra” để muốn ngủ với bà. Ở bệnh viện, Ernaux đã bị hạ nhục bởi một bác sĩ trẻ đã ném cho bà câu “Tôi không phải là thợ ống nước”, và chỉ dịu lại khi nhận ra bà là sinh viên.

Ngày nay, L’événement được xem là quyển sách tham khảo về chủ đề phá thai. Hơn nữa, tác phẩm thường được trích dẫn hay được đề cập trong những cuộc thảo luận về các luật về phá thai hay về quyền của phụ nữ. Ví dụ năm ngoái, vào ngày trưng cầu dân ý về phá thai tại Ireland, đài FranceCulture đã ấn hành một bài báo về Annie Ernaux.

Lối viết và thẩm mỹ tồi

Trong quyển sách Annie Ernaux đã thừa nhận:

“Có thể là một câu chuyện như vậy gây ra giận dữ, hay sự ghê tởm, nghĩa là bị cho là thiếu thẩm mỹ. Đã trải qua một sự việc, dù nó là thế nào chăng nữa, cũng cho một quyền bất diệt là được viết nó ra. Không có sự thật thấp kém. Và nếu tôi không đi đến tận cùng của mối quan hệ của kinh nghiệm này, điều đó có nghĩa là tôi góp phần làm đen tối thực tại của phụ nữ và tôi đứng về phía sự thống trị của nam giới trên thế giới.”

Thật vậy, tác giả viết về nhiều chủ đề rất ít được đề cập trong văn học truyền thống, bao gồm tính dục, bệnh tật, lão hóa cơ thể, suy giảm trí nhớ và nghiện rượu, luôn luôn với một cách rất thẳng thắn. Không phải là hoài niệm theo Proust – Ernaux chỉ quan tâm đến những ký ức với tư cách là bằng chứng của các biến cố thực sự đã xảy ra.

Đối với Annie Ernaux, hành động viết giúp cảm nhận rõ và sống động kinh nghiệm đã trải qua, đặc biệt là của phụ nữ - và nhất là không bao giờ xem các quyền của họ là đã chắc chắn.

Simone Veil (1927-2017)

Ở trọng tâm của tác phẩm của Annie Ernaux, có ý chí muốn trao tiếng nói cho những người bị buộc phải im lặng. Trong một tham luận mới đây, bà nói về sự ủng hộ của bà đối với phong trào #MeToo, nhưng cũng nói đến sự gần gũi của bà với phong trào “áo vàng”, mà bà thấy như là biểu hiện của những bất công xã hội sâu sắc và một sự coi thường của tầng lớp tinh hoa đối với tầng lớp công nhân và những người thất nghiệp. Như vậy, sự “xuất hiện” của bà trong giới nói tiếng Anh thật vô cùng đúng lúc… ở tuổi 78.

Khi Simone Veil qua đời năm 2017, nhiều nhãn dán “Merci Simone - Cám ơn Simone - đã nở rộ trên các đường phố Paris, hoan nghênh vai trò của bà trong việc chấp thuận các luật về phá thai ở Pháp. Cũng như vậy, nhiều nam nữ độc giả viết cho Annie Ernaux để cám ơn bà, thừa nhận tầm quan trọng của những tác phẩm nữ quyền của bà trong hành trình của chính họ. Bà đã không chiếm đoạt chỗ đứng của bà trong câu lạc bộ các đại văn hào nước Pháp được quc tế thừa nhận.

----

Bản gốc tiếng Anh “Nobel Prize in litterature: Annie Ernaux – an uncompromising author who writes from experience” đã được công bố ngày 9.4.2019 và bổ sung ngày 6.10.2022.

Người dịch: Thái Thị Ngọc Dư

Nguồn:L’oeuvre d’Annie Ernaux à l’heure de la reconnaissance internationale”, The Conversation, 10.4.2019 và bổ sung ngày 6.10.2022.

----

Bài có liên quan:

Print Friendly and PDF