Don Patinkin (1922-1995) |
DON PATINKIN, NGƯỜI HOÀ GIẢI KINH TẾ TIỀN TỆ VÀ KINH TẾ THỰC TẾ
Gilles Dostaler
Là một nhà lý thuyết tỉ mỉ và là một nhà
sử học về tư tưởng kinh tế, Don Patinkin là một trong những kiến trúc sư của tổng hợp tân cổ điển. Ông đã
tìm cách xây dựng những nền tảng kinh tế học vi mô chặt chẽ cho kinh tế học vĩ
mô của Keynes, bằng cách tích hợp lý thuyết tiền tệ và lý thuyết thực tế.
Don Patinkin cho rằng ông đã hòa giải, về mặt lý thuyết, các quan điểm của Keynes
và các luận điểm cổ điển, nhưng hố sâu chính trị giữa hai tầm nhìn vẫn luôn xa
cách đáng kể.
Sự nghiệp của Don Patinkin minh họa sự khó khăn trong việc phân loại những
nhà tư tưởng có ảnh hưởng trong một ngách được xác định ranh giới rõ ràng.
Trong kinh tế học, cũng như trong các lãnh vực kiến thức khác,
Patinkin được coi là một trong những kiến trúc sư chính,
cùng với John Hicks
và Paul Samuelson,
của tổng hợp tân cổ điển, một sự hỗn hợp giữa kinh tế học vi mô của Walras và
kinh tế học vĩ mô của Keynes đã được “tiệt trùng”. Tuy nhiên ông vẫn bác bỏ một
số ý tưởng chính của trào lưu tư tưởng nói trên, chẳng hạn như ý tưởng cho rằng
tình trạng thất nghiệp không tự nguyện là do tính cứng nhắc trong chiều giảm
của lương.
Thất nghiệp, hiệu ứng tiền mặt thực tế
và mất cân bằng
John M. Keynes (1883-1946) |
John R. Hicks (1904-1989) |
Giống như những người theo thuyết hậu Keynes, những môn đồ cấp tiến của
Keynes, ông tính đến tầm quan trọng của sự bất định. Đồng thời, ông không phân
định ai đúng ai sai giữa, một mặt các nhà keynesian, và mặt khác những người
theo thuyết trọng tiền và những nhà kinh tế cổ điển mới, trách cứ phe này lẫn
phe kia, bằng những cách khác nhau, đã làm mất uy tín của các chính sách can
thiệp xã hội-dân chủ, là những chính sách duy nhất có khả năng đảm bảo toàn
dụng lao động.
Patinkin đã viết rất nhiều, nhưng danh tiếng của ông chủ yếu dựa vào một
cuốn sách, Money, Interest and Prices
(Tiền tệ, lãi suất và giá cả), mà ấn
bản đầu tiên được xuất bản vào năm 1956. Lần xuất bản thứ hai, được xuất bản
vào năm 1965, đã có những sửa đổi đáng kể, trong đó có những đáp trả đối với
nhiều phê phán mà ấn bản đầu tiên đã gợi lên. Những ý tưởng chính của cuốn sách
này đã được nêu trong luận án tiến sĩ của ông vào năm 1947, "On the Consistency of Economic Models: A Theory of
Involuntary Unemployment (Về sự
vững chắc của các mô hình kinh tế: một lý thuyết về thất nghiệp không tự nguyện)",
mà kết quả sau đó đã được công bố trong một loạt các bài báo có ảnh hưởng được
đăng vào năm 1948 và 1954.
Patinkin cho rằng lý thuyết kinh tế cổ điển bị hỏng bởi một vấn đề cơ bản:
sự phân đôi giữa lý thuyết thực tế và lý thuyết tiền tệ, giữa quá trình hình
thành mức giá tương đối và quá trình hình thành mức giá chung. Trong khi mức
giá tương đối của các sản phẩm giữa chúng với nhau được xác định bởi cơ chế
cung và cầu, thì mức giá chung được xác định bởi số lượng tiền. Quá trình kép
này là điều không thể chấp nhận và cuối cùng không giúp xác định các giá thực
tế cũng như mức giá chung: "Cách duy
nhất để giải quyết khó khăn này là từ bỏ sự phân đôi giữa các khu vực thực tế
và tiền tệ, và thừa nhận rằng giá cả được xác định đồng thời trong cả hai khu
vực, trong một mô hình thực sự về cân bằng chung" (The
Indeterminacy of Absolute Prices in Classical Economic Theory – Tính không xác định của giá cả tuyệt đối
trong lý thuyết kinh tế cổ điển, 1949, trang 2).
Patinkin cũng cho rằng không có mối liên hệ chặt chẽ nào được xác lập giữa
kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Mô hình cân bằng chung của Walras,
theo ý kiến của ông, mặc cho những điều không hoàn hảo, đặc biệt là thất
bại trong việc tích hợp với tiền tệ, là mô hình không thể né tránh của kinh tế
học vi mô, còn Keynes là người truyền cảm hứng chính của kinh tế học vĩ mô hiện
đại. Như vậy, chương trình nghiên cứu mà Patinkin đã chú tâm ngay từ lúc khởi
đầu sự nghiệp là xây dựng những nền tảng kinh tế học vi mô chặt chẽ cho kinh tế
học vĩ mô của Keynes, bằng cách tích hợp lý thuyết tiền tệ và lý thuyết thực
tế.
Arthur C. Pigou (1877-1959) |
Sự tích hợp này được thực hiện dựa vào một khái niệm đã làm hao tốn rất
nhiều mực: "hiệu ứng tiền mặt thực
tế". Patinkin trước đây gọi đó là "hiệu ứng Pigou" trong bài báo được đăng vào năm 1948 từ luận
án tiến sĩ của ông. Thực vậy, chính Arthur Cecil Pigou là người đầu tiên làm
sáng tỏ quá trình này bị Keynes xem nhẹ. Tiền mặt thực tế (real balance) chỉ sức mua tiền mặt do các tác nhân nắm giữ. Tuy số
lượng tiền tệ này là cố định, nhưng giá trị của nó cũng thay đổi theo biến động
của mức giá chung. Nếu ở trong tình huống được Keynes mô tả là có thiếu hụt
tổng cầu và giá cả linh hoạt, thì giá cả sẽ có xu hướng giảm. Xu hướng giảm này
sẽ làm tăng giá trị thực của lượng tiền do các tác nhân nắm giữ: khi giá giảm,
người ta có thể mua nhiều sản phẩm hơn với một lượng tiền nhất định. Sự gia
tăng tiền mặt thực này, đến phiên nó, sẽ khuyến khích các cá nhân gia tăng mức
cầu của họ đối với sản phẩm và dịch vụ, dẫn đến việc thúc đẩy sản xuất và việc
làm. Do đó hiệu ứng tiền mặt thực tế sẽ giúp đạt được toàn dụng lao động theo
một cách khác với các chính sách can thiệp được Keynes ủng hộ.
Patinkin cho rằng luận điểm trên có một lợi ích mang tính thuần túy lý
thuyết. Thời gian cần thiết để toàn dụng lao động quay trở lại theo cách nói
trên có thể là rất lâu. Việc giảm giá và giảm lương cũng có thể kích hoạt một
bầu không khí bất định và một làn sóng phá sản có tác dụng ngược. Nói tóm lại,
không có gì có thể thay thế các chính sách can thiệp kinh tế tích cực được
Keynes và những người theo ông ủng hộ.
Axel Leijonhufvud (1933-) |
Edmond Malinvaud (1923-2015) |
Patinkin cho rằng ông đã hòa giải, về mặt lý thuyết, các quan điểm của
Keynes và các luận điểm cổ điển, nhưng hố sâu chính trị giữa hai tầm nhìn vẫn
luôn xa cách đáng kể. Và thậm chí hố sâu ấy còn bị mở rộng thêm với sự xuất hiện
của chủ nghĩa trọng tiền và kinh tế học vĩ mô cổ điển mới. Ông bác bỏ ý tưởng được
những người bảo vệ kinh tế học vĩ mô cổ điển mới đề xuất và ngày nay rất thịnh
hành, rằng tình trạng thất nghiệp phát sinh từ sự thiếu linh hoạt của thị
trường lao động, lương giảm chưa đủ để khuyến khích người sử dụng lao động thuê
người lao động. Keynes đã giải thích, bằng một phân tích động, rằng không có
những tác lực đủ để đưa một nền kinh tế đến thế cân bằng. Sự cứng nhắc trong
thói quen chi tiêu của các tác nhân làm chậm lại hoặc làm tê liệt hoàn toàn
phản ứng của họ đối với các biến động giá cả, đã ngăn cản việc đạt được sự cân
bằng. Patinkin gọi lý thuyết của Keynes là lý thuyết về sự mất cân bằng thiểu
dụng lao động. Chủ đề này đã được các tác giả như Robert Clower, Axel
Leijonhufvud, Robert Barro, Edmond Malinvaud phát triển và đã sản sinh ra, ở
Pháp, điều được gọi là trường phái về sự mất cân bằng.
Sử gia về tư tưởng kinh tế
Là một nhà lý thuyết tỉ mỉ, Patinkin cũng là một sử gia về tư tưởng, với
sự uyên bác đặc biệt. Năm 1989, ông đã được Hội Nghiên cứu Lịch sử Kinh tế học,
một hội khoa học lâu đời nhất và quan trọng nhất trong chuyên ngành này, phong
tặng danh hiệu Nhà nghiên cứu kiệt xuất.
Có lẻ do bị ảnh hưởng bởi nền giáo dục theo kinh tan-mút (đạo Do Thái), ông cho
rằng việc chú giải tỉ mỉ các bài viết là cách chặt chẽ duy nhất để hiểu được
các cuộc tranh luận hiện nay. Thực vậy, ông cho rằng thường không có điều gì
mới trong lĩnh vực tư tưởng con người.
Michal Kalecki (1899-1970) |
Bertil Ohlin (1899-1979) |
Ông đã dành phần lớn những nỗ lực diễn giải của ông cho Keynes, mà ông là
một trong những chuyên gia không thể tranh cãi (ông được giao soạn thảo lời
giới thiệu về tác giả này trong từ điển New
Palgrave). Ông đã tiến hành một nghiên cứu cực kỳ tỉ mỉ về sự tiến triển
của các ý tưởng của Keynes, kể từ cuốn Monetary
Reform (Cải cách tiền tệ) cho đến
cuốn General Theory (Lý thuyết tổng quát). Keynes đã tìm ra
thông điệp trọng tâm của cuốn sách này vào năm 1933: vai trò quyết định gây ra
bởi những biến động trong sản xuất trong quá trình đưa các nền kinh tế đến một
tình trạng thiểu dụng lao động ổn định.
Patinkin cũng tiến hành một phân tích sâu sắc luận điểm của các tác giả
thường được coi là người báo trước Keynes, đặc biệt là Michal Kalecki và các
nhà kinh tế người Thụy Điển như Gunnar Myrdal
và Bertil Ohlin. Ông kết luận, trong một cuốn sách được xuất bản vào năm 1982,
rằng diễn giải thông dụng là sai, không ai trong số những tác giả nói trên đã
dự đoán thông điệp trọng tâm của Lý
thuyết tổng quát của Keynes.
Milton Friedman (1912-2006) |
Gunnar Myrdal (1898-1987) |
Patinkin cũng đã viết về lịch sử của trường phái Chicago. Trái ngược với
những ý tưởng được tiếp nhận, ông cho rằng trường phái này theo tư tưởng can
thiệp vào những năm 1930 và 1940. Chính với Milton Friedman,
người đã đến Chicago vào năm 1946, mà gió đã đổi chiều. Theo Patinkin, Friedman
giới thiệu một cách sai lầm lý thuyết của mình như là một sự khôi phục lý thuyết
định lượng về tiền tệ: thực ra đó là "một
bài thuyết trình lịch sự và tinh tế nhất về lý thuyết tiền tệ của Keynes"
(The Chicago Tradition, the Quantity
Theory, and Friedman – Truyền thống
Chicago, lý thuyết định lượng, và Friedman, 1969, trang 256). Vì vậy,
Friedman là một nhà keynesian thù địch với chủ nghĩa can thiệp. Thật vậy, cùng
một lý thuyết có thể, theo Patinkin, dẫn đến nhiều đề xuất về chính sách khác
nhau, cũng giống như cùng một chính sách có thể được kết hợp với nhiều lý
thuyết khác nhau.
Quan tâm trước hết bởi những lý thuyết và sự tiến triển của chúng, nhưng
Patinkin cũng đồng thời tham gia rất nhiều vào những vấn đề chính trị vào thời
của ông. Ông đã giữ nhiều chức vụ trong cơ quan quản lý đại học và cơ quan công
quyền ở Israel, đất nước mà ông là nhà kinh tế hàng đầu của thế kỷ XX.
Don Patinkin qua vài năm tháng
1922: sinh tại Chicago.
1933-1943: học tại trường Telsche Yeshiva, một trường học theo kinh
tan-mút (đạo Do Thái) tại Chicago.
1941: bắt đầu học tại Đại học Chicago, nơi ông tốt nghiệp cử nhân
năm 1943, thạc sĩ năm 1945 và tiến sĩ năm 1947.
1946-1948: nghiên cứu tại Ủy ban Cowles và giảng dạy tại Đại học
Chicago.
1948: Price Flexibility and
Full Employment (Sự linh hoạt giá cả
và lao động toàn dụng).
1948-1949: Phó giáo sư tại Đại học Illinois.
1949: di cư đến Israel, nơi ông dành toàn bộ sự nghiệp tại Đại
học (thuộc người) Hê-brơ (Do Thái xưa) ở Jerusalem, vừa giảng dạy như một giáo
sư thỉnh giảng tại một số trường đại học của Mỹ và Canada. "The
Indeterminacy of Absolute Prices in Classical Economic Theory (Tính không xác định của giá cả tuyệt đối
trong lý thuyết kinh tế cổ điển)".
1956: Money, Interest, and
Prices: An Integration of Monetary and Value Theory (Tiền tệ, lãi suất, và giá cả: Một tích hợp của lý thuyết về tiền tệ và
giá trị).
1956-1972: Giám đốc nghiên cứu tại Viện nghiên cứu kinh tế Falk
Maurice tại Israel.
1959: The Israel Economy:
The First Decade (Nền kinh tế của
Israel: Thập niên thứ nhất).
1967: On the Nature of
Monetary Mechanism (Về bản chất của
cơ chế tiền tệ).
1969: The Chicago
Tradition, the Quantity Theory, and Friedman (Truyền thống Chicago, lý thuyết định lượng, và Friedman).
1972: Studies in Monetary
Economics (Các nghiên cứu về kinh tế
học tiền tệ).
1974: Chủ tịch Hội kinh trắc học.
1976: Chủ tịch Hội Kinh tế của Israel. Keynes’s Monetary Thought: A Study of Its Development (Tư tưởng của Keynes về tiền tệ: Một nghiên
cứu về phát triển tiền tệ).
1978: đồng tác giả với James Clark Leith, Keynes, Cambridge and The General Theory: The Process of Criticism and
Discussion Connected with the Development of The General Theory (Keynes, trường phái Cambridge và lý thuyết
tổng quát: Quá trình phê phán và thảo luận gắn với sự phát triển của lý thuyết
tổng quát).
1981: Essays on and in the
Chicago Tradition (Tiểu luận về và
trong truyền thống Chicago).
1982: Anticipations of The
General Theory? And Other Essays on Keynes (Những tiên đoán của lý thuyết tổng quát? Và các tiểu luận khác về
Keynes).
1983-1986: hiệu trưởng Đại học Hê-brơ (Do Thái xưa) ở Jerusalem.
1990: On Different
Interpretations of The General Theory (Về
những diễn giải khác nhau của lý thuyết tổng quát).
1995: "The Training of
an Economist (Việc đào tạo một nhà
kinh tế)". Mất tại Jerusalem, ngày 01 tháng 6.
Để tìm hiểu thêm
Những tác phẩm của Patinkin
• “Price Flexibility and Full Employment”, American Economic Review, vol. 38, 1948.
• “The Indeterminacy of Absolute Prices in Classical Economic
Theory”, Econometrica,
vol. 17, 1949.
• La monnaie, l’intérêt et les
prix: une intégration de la théorie de la monnaie et de la théorie de la
valeur, PUF, 1972.
• The Israel
Economy: The First Decade, Maurice Falk
Institute for Economic Research in Israel, 1959
• On the Nature of Monetary Mechanism, Almqvist & Wiksell, 1967.
• “The Chicago Tradition,
the Quantity Theory, and Friedman”, Journal
of Money, Credit and Banking vol. 1, 1969.
• Studies in Monetary Economics, Harper & Row, 1972.
• Keynes’s Monetary Thought: A
Study of Its Development, Duke University Press,
1976.
• Keynes, Cambridge and The General
Theory: The Process of Criticism and Discussion Connected with the Development
of The General Theory, avec James Clark Leith, Mcmillan, 1978.
• Essays on and in the Chicago Tradition, Duke University Press, 1981.
• Anticipations of The General Theory? And
Other Essays on Keynes, University of Chicago Press, 1982.
• “On Different
Interpretations of The General Theory”, Journal of Monetary Economics, vol. 26, 1990.
• “The Training of an
Economist”, Banca Nazional
del Lavoro Quarterly Review, vol. 48, 1995.
Những tác phẩm viết về Patinkin
• Don Patinkin, Money, Interest and Prices, par Roger Backhouse, dans Dictionnaire des grandes œuvres économiques, par Xavier Greffe,
Jérôme Lallement et Michel De Vroey (dir.), Dalloz, 2002.
• Monetary Theory and Thought: Essays in
Honor of Don Patinkin, par Haim Barkai, Stanley Fisher et
James Madison (dir.), Thoemmes Continuum, 2006.
• Don Patinkin, par Michel De Vroey, dans Biographical
Dictionary of American Economists, par Ross B. Emmett et James Madison
(dir.), Thoemmes Continuum, 2006.
• Patinkin and the Development of Modern
Economic Theory, numéro spécial du European Journal of History of Economic Thought, vol. 9, no 2, par
Pascal Bridel et Michel De Vroey (dir.), 2002.
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
Nguồn: “Don
Patinkin, conciliateur du monétaire et du réel” của G. Dostaler
trong Alternatives Economiques Poche
no.057, tháng 10 năm 2012