![]() |
Myron Scholes (1941-) |
SCHOLES Myron S., sinh năm 1941
Damien Gaumont
Myriam S. Scholes sinh tại Timmins (tỉnh Ontario, Canada) năm 1941, cha là
một nha sĩ và mẹ là một thương gia giàu có. Là một học sinh giỏi, cuộc đời của
ông thay đổi năm 16 tuổi một phần sau cái chết của người mẹ và phần khác do bị
rách giác mạc làm thị lực của ông giảm nhiều. Do không đọc được nữa, ông có
thói quen lí luận trừu tượng và khái niệm hoá để tìm giải pháp cho những vấn đề
ông gặp phải, đặc biệt là ở cương vị thủ quĩ của nhiều câu lạc bộ thiếu niên.
Để tìm hiểu xác suất và rủi ro ông đánh cược nhiều và đầu tư vào chứng khoán.
Để tìm hiểu thế giới kinh doanh thương mại ông làm việc với cậu của ông. Năm 26
tuổi, việc ghép giác mạc trả lại cho ông thị lực. Ông quan tâm đến khoa
học kinh tế và đặc biệt hơn đến tài chính để tưởng nhớ mẹ ông đã từng muốn ông
cộng tác với cậu ông để viết một cuốn sách quảng bá kinh doanh thương mại. Đi tìm một phương thức nhiệm mầu làm
cho ông trở nên giàu có, ông đam mê tìm hiểu những nhân tố quyết định giá cả
các chứng khoán. Ông tốt nghiệp cử nhân đại học
McMaster Hamilton ở Canada. Việc khám phá những công trình của Stigler
(Nobel 1982) và của Milton Friedman
(Nobel 1976) gây cho ông ấn tượng mạnh. Ông quyết định tiếp tục học tại đại học
Chicago. Ông gặp Michael Jensen, Richard Roll và Jack Gould, những người hướng
dẫn ông trong những khám phá về lí thuyết tài chính. Ông quyết định không trở
về làm với doanh nghiệp của cậu ông. Theo đề nghị của Merton Miller
(Nobel 1990) ông làm luận án tiến sĩ tài chính và tốt nghiệp năm 1968. Ông trở
thành giáo viên phụ đạo tại Sloan School of Management tại Massachussetts
Institute of Technology và trở thành đồng nghiệp của Franco
Modigliani (Nobel 1985), Stewart Myes và Paul Cootner.
Ông gặp Fischer Black và Robert Merton
(Nobel 1987), người tiến hành cùng ông một sự hợp tác có kết quả. Giáo sư thỉnh
giảng của đại học Chicago từ 1973 đến 1974, ông được một công việc thường xuyên
ở đây cho đến 1980 bằng cách hoạt động nhiều cho Trung tâm nghiên cứu giá cả
các chứng khoán. Là giáo sư thỉnh giảng của đại học Standford năm 1981, ông có
một chân giảng dạy thường xuyên năm 1983. Ông làm việc với William Sharpe
(Nobel 1990). Là nhà tư vấn cho Salomon Brother Incorporation năm 1990, ông trở
thành giám đốc công ti này và đặc biệt phụ trách những giao dịch trên các chứng
khoán có thu nhập cố định từ 1992 đến 1993 và vừa giảng dạy tại đại học Standford
và tiến hành những nghiên cứu. Năm 1994, cùng với một số đồng nghiệp ông sáng
lập một công ti quản lí vốn dài hạn trong đó ông áp dụng những lí thuyết của mình.
Là tiến sĩ danh dự của đại học Paris-Dauphine năm 1989, của đại học McMaster
năm 1990, của đại học công giáo Louvain năm 1998, ông được Viện hoàng lâm khoa
học hoàng gia Thụy Điển biểu dương năm 1997.
![]() |
William F. Sharpe (1934-) |
![]() |
Richard Roll (1939-) |
Việc quản lí rủi ro là thiết yếu trong những nền kinh tế hiện đại. Những
thị trường tài chính –nhờ những quyền chọn, những thị trường kì hạn và những chứng
khoán phái sinh- cho phép các doanh nghiệp cũng như các hộ gia đình chọn mức
rủi ro tối ưu cho những giao dịch của mình, bằng cách phân phối lại rủi ro cho
những tác nhân khác có khả năng gánh chịu rủi ro này. Những chứng khoán này
cung cấp cho người nắm giữ chúng những khả năng tự bảo hiểm khỏi những rủi ro
bất ngờ, vì giá của một giao dịch tương lai được ấn định hôm nay. Do đó vấn đề
là xác định giá tối ưu hôm nay để cho loại chứng khoán này là có hiệu quả.
Myron S. Scholes, cùng với Robert C. Merton, đã đóng góp vào khoa học kinh tế
bằng cách phát triển những phương pháp định giá các chứng khoán phái sinh.
![]() |
F. Modigliani (1918-2003) |
![]() |
Milton Friedman (1912-2006) |
Vấn đề định giá những chứng khoán bắt nguồn từ những công trình của nhà
toán học Pháp, vùng Bordeaux, Louis Bachelier năm 1900, người đã đề nghị một
phương pháp định giá các quyền chọn trong luận án tiến sĩ bảo vệ tại đại học
Sorbonne. Tuy nhiên công thức được đề nghị dựa trên những giả thiết không thực
tế như một quá trình có thể dẫn đến việc xác định một giá cổ phiếu âm. Thế mà
vào thời của ông, hệ thống lúc bấy giờ xác định các quyền chọn không cần đến
việc hiện tại hóa do quyền chọn được thực hiện ngay hôm nay. Những công trình liên tiếp của Paul Samuelson
(Nobel 1970), Cases Sprenkle, James Boness đã cho phép cải tiến công thức của
Bachelier bằng giả thiết là sự phân phối của giá chứng khoán là một phân phối
chuẩn loga, và điều này bảo đảm một giá dương. Năm 1964, Boness gợi ý một công
thức gần với công thức của Black và Scholes bao gồm một bù đắp cho rủi ro trong
giá của các chứng khoán nhưng lãi suất vẫn là một biến không biết được.
Phương pháp được dùng trước 1973 cho phép xác định giá trị kì vọng của một
chứng khoán đến hạn và do đó hiện tại hóa giá của chứng khoán bằng
giá trị của thời gian cần phải tính đến cho tới lúc định giá cuối cùng. Một
cách tiếp cận như thế đòi hỏi phải có quyết định về giá rủi ro được sử dụng để
hiện tại hoá. Đó là vì giá trị của một quyền chọn tuỳ thuộc vào con đường (rủi
ro) của giá chứng khoán kể từ thời điểm ước lượng cho đến lúc đáo hạn, và điều
này phụ thuộc vào giá của chứng khoán và cả vào sự thay đổi thái độ của các nhà
đầu tư đối với rủi ro. Sự thay đổi này là dễ xác định về mặt lí thuyết nhưng
rất khó quan sát trong thực tiễn.
![]() |
Robert Merton (1910-2003) |
![]() |
Fischer Black (1938-1995) |
Cộng tác với Robert C. Merton và Fischer Black (mất năm 1995), Myron S.
Scholes, đã phát triển một công thức tiên phong để định giá những stock options, tức giá những quyền chọn
(mua hay bán) các chứng khoán ở một giá ấn định trước. Phương pháp định giá của
họ dựa trên một ý tưởng mới là không cần thiết phải ước lượng một giá rủi ro
khi ấn định giá một quyền chọn. Điều này không có nghĩa là giá rủi ro đã biến
mất mà là nó đã được trực tiếp tính vào giá của chứng khoán (1973). Phương pháp
này, có thể áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác của khoa học kinh tế, đã cho phép
thiết kế nhiều kiểu sản phẩm tài chính và tạo điều kiện dễ dàng cho việc quản
lí rủi ro trong các công ti.
![]() |
George Stigler (1911-1991) |
Công trình nghiên cứu của M. S. Scholes cũng hướng vào những vấn đề nợ các
công ti, đầu tư và hợp đồng bảo hiểm. Ông cũng nghiên cứu những vấn đề đánh
thuế cổ tức, về mặt lí thuyết cũng như thực nghiệm (1978 và 1982). Khi những
khoản vay đến hạn và giá trị của doanh nghiệp thấp hơn giá trị của những khoản
nợ thì các cổ đông, có quyền, nhưng không có nghĩa vụ, phải trả các khoản vay.
Phương pháp do Black và Scholes thiết kế có thể được sử dụng để xác định giá
trị các chứng khoán, và điều này là rất quan trọng nếu các cổ phần không có
người mua. Như thế, Black, Merton và Scholes đã cung cấp những cơ sở cho một lí
thuyết thống nhất về giá những khoản nợ các công ti,
và điều này tạo điều kiện cho việc phát triển nhanh chóng của lí thuyết những
hợp đồng tài chính (1972 và 1974). Còn về đầu tư, Scholes chứng minh rằng tính
linh hoạt là một nhân tố quan trọng và công thức của Black và Scholes có thể
soi sáng các doanh nghiệp và tạo điều kiện dễ dàng cho việc ra quyết định đầu
tư. Thật thế, khi doanh nghiệp phải dùng những thiết bị mà những đặc điểm thay
đổi với năng lượng được sử dụng để sản xuất thì doanh nghiệp hình dung ex ante những thay thế có thể giữa các
thiết bị khác nhau khi giá năng lượng thay đổi. Mặt khác, có thể đánh giá nhiều kiểu hợp đồng bảo hiểm và bảo hành bằng
cách vận dụng lí thuyết hiện đại định giá những quyền chọn. Nếu một công ti bảo
hiểm muốn bảo hiểm cho các cổ đông rủi ro là đầu tư của họ vào một doanh nghiệp
không lành mạnh không dẫn đến lỗ lã thì công ti bảo hiểm phải ấn định giá của
hợp đồng bảo hiểm xấp xỉ bằng với giá bán của quyền chọn (put) của trái phiếu với một giá mua bằng với giá danh nghĩa của
trái phiếu. Nếu giá trị của chứng khoán xuống dưới giá mua thì người sở hữu
chứng khoán có quyền bán trái phiếu ở mức giá mua, và điều này giới hạn thua lỗ
tiềm năng của người này. Trong thực tiễn, một công ti bảo hiểm không chỉ cạnh
tranh với những công ti bảo hiểm khác, mà còn cạnh tranh với thị trường những
quyền chọn. Kể từ 1975, công thức của Black và Scholes đã được áp dụng, đặc
biệt là tại Chicago, nơi các nhà môi giới chứng khoán đã đưa công thức này vào
các máy tính của họ để bảo vệ những vị thế họ nắm giữ trong những quyền chọn.
Một sự phát triển nhanh và quan trọng đến thế là hoàn toàn mới trong kinh tế
học, đặc biệt là do việc sử dụng toán học, vốn hoàn toàn không được sử dụng
trên các thị trường tài chính vào đầu những năm 1970, được phát triển một cách
đáng kể và nhanh chóng (1972, 1974 và 1977).
Năm 1997, cùng với Robert C. Merton, ông được giải khoa học kinh tế để
tưởng nhớ Alfred Nobel “vì đã phát triển những phương pháp mới cho phép xác định giá
của những sản phẩm phái sinh”.
![]() |
Merton Miller (1923-2000) |
![]() |
Michael Jensen (1939-) |
· BLACK F & SCHOLES M. S., “The valuation of
option contracts and a test of market efficiency” [Định giá những
quyền chọn và một kiểm định về tính hiệu quả thị trường], Journal of Finance, 1972, vol. 27, p. 399-717; “The
pricing of option and corporate liabilities” [Định giá quyền
chọn và nợ công ti], Journal of Political
Economy, vol. 81, p. 637-654; “The effect of dividend yield and dividend policy on common
stock prices and returns” [Tác động của cổ tức và chính sách cổ tức trên giá chứng khoán và lợi tức], Journal
of Financial Economics, 1974, vol. 1, p. 1-22; The Capital Asset Pricing Model: Some Empirical Tests [Mô hình định
giá tài sản vốn: một số kiểm định thực nghiệm], ed. M. C. Jensen, Praeger, 1972
(Studies in the Theory of Capital Markets)
[Những nghiên cứu về lí thuyết các thị trường vốn]. – MILLER M. H. & SCHOLES M. S., “Dividend
and taxes” [Cổ tức và thuế], Journal
of Financial Economics, 1978, vol
6, p. 333-364; “Dividend
and taxes: some empirical evidences” [Cổ tức và thuế:
một số bằng chứng thực nghiệm], Journal
of Political Economy, 1982, vol
90, p. 1118-1141. – SCHOLLES M. S. & WILLIAM J., “Estimating
betas from nonsynchronous data” [Uớc lượng những tham số bêta từ dữ
liệu không đồng bộ], Journal of Financial
Economics, 1977, vol. 5, p. 309-327
Nguyễn Đôn Phước dịch
Nguồn: “Les prix des sciences économiques à la mémoire d’Alfred Nobel” (Những
giải khoa học kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel) của Damien Gaumont trong Dictionnaire des sciences économiques do
Claude Jessua, Christian Labrousse và Daniel Vitry chủ biên, Paris, Presses
Universitaires de France, 2001, trang 1046-1048.
