TẦNG LỚP TƯ SẢN TRÍ THỨC, THÀNH PHẦN TINH HOA GIA TRUYỀN
Khi một nhóm xã hội bá chiếm cả kiến thức, quyền lực và tiền bạc
Người ta thường nói xã hội bị phân chia thành 1% những người giàu nhất và 99% là số còn lại. Nhưng công thức tóm tắt gây sốc này đã loại bỏ những bất bình đẳng liên quan đến bằng cấp. Và che giấu vai trò của tầng lớp tư sản trí thức vốn, ngay cả khi họ phục vụ nhóm 1%, vẫn thích thể hiện mình trong phe của những người bị áp bức. Tầng lớp xã hội này xuất thân từ “chế độ tài đức/méritocratie” truyền lại những đặc quyền của nó cho con cháu, giống như tầng lớp quý tộc xưa.
Pierre Rimbert[*]
Tống Huy Tông (宋徽宗). — “Buổi họp các nhà nho”, thế kỉ XII © National Palace Museum, Taipei, Taïwan
- RMN-Grand Palais
Vào mùa hè năm 1957, nhà xã hội học người Anh Michael Young dạo chơi trên một bãi biển ở xứ Wales. Là một nhà nghiên cứu lâu năm trong Đảng Lao động Anh mà bản tuyên ngôn năm 1945 đã được ông soạn thảo, ông đã có bước rẽ ngoặt. Trên bãi cát, ông ta nghiền ngẫm: mười một nhà xuất bản đã từ chối bản thảo mới nhất của ông. Đột nhiên, ông ta nhìn thấy một cặp bạn bè ở bờ biển, dừng lại, gợi lên với họ văn bản mà không ai muốn. Thật trùng hợp, các người bạn của ông là nhà xuất bản sách nghệ thuật; và họ quyết định đưa cuốn sách vào danh mục của họ. Tiêu đề của nó: Sự trỗi dậy của chế độ tài đức/L’Ascension de la méritocratie[1]. Với thuật ngữ này được ghép từ tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp, Young dự đoán được những lời mỉa mai. Năm trăm nghìn bản được bán ra trong vài năm đã đưa thuật ngữ “chế độ tài đức” vào ngôn ngữ hàng ngày. Điều đã phải trả giá bằng một sự hiểu lầm khổng lồ.
Có một Sartre, thì có cả trăm nhà quản lý ngoan ngoãn
Pierre Bourdieu (1930-2002) Simone de Beauvoir (1908-1986)
Jean-C. Chamboredon (1938-2020)
Robert Paxton (1932-) |
Kỷ nguyên tư bản đã không làm thay đổi bản chất của công việc này; nhưng nó đã thay đổi hình thái, khi cuộc cách mạng công nghiệp và sự mở rộng giáo dục củng cố sức nặng của các người có bằng cấp và tô đậm tính không đồng nhất của nhóm: sự thuần hóa quần chúng và một phần lớn của chính những người có bằng cấp, vận hành nhân danh lý tính kinh tế và các “năng lực” được Nhà nước xác nhận để triển khai công cuộc thuần hoá này.
Mikhail Bakounine (1814-1876) |
“Dứt điểm hệ tư tưởng”
Karl Kautsky (1854-1938) |
Những “đầu óc dồi dào” này không có tư
liệu sản xuất, nhưng có kiến thức
mà họ bán cho các nghiệp chủ sẽ ủy quyền cho họ quyền giám sát công việc, kiểm
soát người sản xuất và tổ chức công việc, chăm sóc sự gia tăng năng suất thông
qua kỹ thuật. Nhưng nhà trường đã sản xuất họ quá nhiều, và nhà xã hội chủ
nghĩa Karl Kautsky đã phân tích, vào năm 1892, quá trình lạm phát-phá giá bằng
cấp của những người lao động tri thức: “Những
người có dự định có một chức vụ công phải đợi nhiều năm, thường là mười năm,
trước khi có được một chức kém hơn, mang lại ít thu nhập. Đối với những người
khác, nạn thất nghiệp và sự lao lực luân phiên nhau. (…) Chẳng bao lâu nữa, chỉ
có một đặc tính sẽ phân biệt những người vô sản này với những người làm công ăn
lương khác: chúng tôi muốn nói đến những tham vọng của họ” (Chương trình xã hội chủ nghĩa/Le Programme
socialiste). Là một giai cấp thống trị đang hình thành hoặc một giai cấp vô
sản có thể được huy động chống lại trật tự đang giáng cấp họ, hình tượng mà người
có bằng cấp có về bản thân họ đã dao động trong một thế kỷ rưỡi giữa hai số phận
này mà, trên thực tế, cùng tồn tại ở mọi thời điểm.
John K. Galbraith (1908-2006) |
Hai mươi năm trước đó, Young kém lạc quan hơn.
Bởi vì, khi chúng ta lật từng trang, Sự trỗi dậy của chế độ tài đức biến thành một cơn ác mộng. Chính phủ của các giai cấp có học thức, vốn đã cài đặt những đứa con sáng giá nhất của giai cấp công nhân vào các vị trí quyền lực để tiêu hao lực lượng đối lập, giờ đây chỉ gồm các chuyên gia. Khối lượng lớn những người không có bằng cấp đã “không còn sử dụng được” nhờ những điều kỳ diệu của sự “tự động hóa” – ngay thời đó rồi! – đã bị cưỡng bức trở thành gia nhân của các trí thức. Người kể chuyện đặt câu hỏi: “Một khi mà tất cả các thiên tài đều ở trong giới tinh hoa, và tất cả những kẻ ngu ngốc trong giới công nhân, thì sự bình đẳng có nghĩa là gì?”. Trong hư cấu của Young, chính phủ của giới trí thức đạt được sự trưởng thành vào đầu thế kỷ XXI. Nắm được những đặc quyền - căn hộ thoải mái, bữa ăn tối sành điệu, kỳ nghỉ xa hoa - tầng lớp có học thức giáo dục con cái của họ trong những cơ sở riêng biệt và giờ đây chỉ tự tái sản xuất trong giới của mình. “Giới tinh hoa đang trên đường trở thành cha truyền con nối; các nguyên tắc kế thừa và tài đức được kết hợp với nhau,” người kể chuyện quan sát, chỉ hơi lo lắng về diễn tiến của các sự kiện. Nhưng câu chuyện chưa dừng tại đó…
Trong khi chờ đợi để khám phá phần kết, chúng ta phải thừa nhận rằng cái xã hội huyễn tưởng toàn trị được trình bày trong tiểu thuyết hư cấu xã hội này được viết hơn sáu mươi năm trước giống cái thế giới của chúng ta một cách lạ thường. Ở Hoa Kỳ, cũng như ở châu Âu, có cả một cái hố chia cắt thiểu số những người tốt nghiệp các cấp dài hạn và mang tính sàng lọc (5-10% dân số các nước phương Tây) và phần còn lại. Trong những năm gần đây, việc nhấn mạnh đến sự đối lập giữa 99% dân số và 1% giàu nhất đã chuyển sự chú ý của chúng ta khỏi nhóm rộng lớn hơn đã thụ hưởng được từ sự tranh đua về tài đức trong nửa thế kỷ qua, và nếu không có nó thì cái 1% đã không thể thiết lập và duy trì sự thống trị của họ. Nếu, đối với những người tài đức đã phổ biến nó, quan niệm này về đấu tranh giai cấp có lợi cho họ để tự đặt mình vào phe của những người bị áp bức, cùng với những người gia nhân, thì nó đã xóa mờ hai hiện tượng mấu chốt được Young xác định trong truyện ngụ ngôn viễn tưởng của ông: sự độc quyền nắm giữ quyền lực chính trị của thành phần trí thức, và tính cách cha truyền con nối ngày càng tăng của sự thống trị của họ.
Nền dân chủ của những người có bằng cấp
Mark Bovens (1957-) |
Vậy sự thống trị của một tầng lớp nhỏ các nhà lãnh đạo-thông thái được duy trì như thế nào khi trường đại học không ngừng sản xuất đại trà các đội quân của những người dự tuyển? Kể từ đầu thế kỷ 19, tỷ lệ những người tốt nghiệp đại học đã tăng từ dưới 1% dân số trưởng thành ở Hoa Kỳ và Châu Âu lên khoảng 35%. Để duy trì rào cản, chỉ cần nâng cao trình độ với những chướng ngại về văn hóa và tài chính mới, mà những người có trình độ kiến thức thấp và những người tốt nghiệp dư thừa không thể nào vượt qua. Ở Hoa Kỳ, những phương thức sàng lọc kết hợp kiến thức và tiền bạc đảm bảo một sự phân loại xã hội hiệu quả khiến cho nhóm bên trên của các người tài năng nay tự tái sản xuất từ thế hệ này sang thế hệ khác, như Young đã dự đoán, theo cách của một giai cấp thống trị cha truyền con nối. Không phải tất cả những người có bằng cấp đều giàu có, nhưng gần như tất cả những người giàu có đều là những người có bằng cấp: năm 2017, 98,4% người Mỹ kiếm được hơn hai lần rưỡi mức lương trung vị hàng năm - hoặc 94.300 đô la (83.500 euros) – đều có bằng tốt nghiệp cao hơn hoặc bằng bằng cử nhân (tương đương với bằng cử nhân ở Pháp nhưng kéo dài trong bốn năm). Thay vì các tước vị của thành phần quý tộc, các bậc cha mẹ trước hết truyền lại cho con cái của họ những danh hiệu đại học danh giá và đắt giá nhất, giống như các tỷ phú của Thung lũng Silicon, những người cống hiến tài sản của mình cho các quỹ từ thiện và con cái của họ ở Stanford hoặc Harvard.
Điển hình của giai cấp tư sản khai sáng ở thế kỷ XIX, sự thờ ơ, những chi tiêu có tính phô trương, việc giao các đứa bé cho các vú nuôi, đã biến thành những thực tiễn ngược lại: thành phần tinh túy của các trí thức giàu có làm việc cật lực và đổ một phần ngày càng tăng của thu nhập và thời gian của mình vào sự học hành, hạnh phúc, văn hóa, sức khỏe của con cháu của mình. Vú nuôi song ngữ, nhà trẻ cao cấp với chi phí 50.000 đô la mỗi năm, các bài học riêng về đánh thức óc mỹ thuật từ 3 tuổi, sau đó là các trường mẫu giáo dạy ngoại ngữ và khoa học chỉ nhận 5% hồ sơ đăng ký (đặc biệt những hồ sơ do một nhà tư vấn được gia đình tuyển dụng soạn thảo), sự phát triển sớm của “vốn con người” bào chữa cho tất cả các khoản đầu tư.
Những con số này chỉ phản ánh phần nổi của
tảng băng chìm. Vì sự truyền lại vốn văn hóa bắt đầu từ lúc mới sinh dưới hình
thức thời gian quan tâm của cha mẹ, đặc biệt là của phụ nữ. Currid-Halkett giải
thích, những người nữ trí thức dành thời gian nhiều gấp hai đến ba lần những
người khác để chơi với và dạy dỗ trẻ sơ sinh của họ. Họ cho con bú thường xuyên
hơn và lâu hơn, tin rằng phương pháp này làm tăng khả năng nhận thức, đến mức
nghề “tư vấn cho con bú” đang tăng mạnh. Ở độ 3 tuổi, một đứa bé trong một gia
đình làm nghề tự do đã nghe trung bình hai mươi triệu từ được nói bởi con người
nhiều hơn một đứa trẻ xuất thân từ một hoàn cảnh khác; vốn từ của nó đa dạng
hơn 49%. Khi đưa một ý đồ giáo dục vào mối quan hệ với con cháu của mình, tức
là khúc dạo đầu cho ý đồ của giáo viên, bậc cha mẹ muốn phát triển sự nhạy cảm
về mặt cảm xúc, sự tập trung và tính kỷ luật của chúng.
Markovits cho biết: “Khi đến tuổi 18, một người trẻ thuộc gia đình giàu có sẽ nhận được sự quan tâm năm nghìn giờ nhiều hơn so với một đứa trẻ thuộc thành phần trung lưu qua các câu chuyện đọc, cuộc trò chuyện, sự kiện văn hóa, tập luyện thể thao, v.v. (...). Ở cùng độ tuổi, một đứa trẻ thuộc thành phần trung lưu sẽ ở trước màn hình năm nghìn giờ nhiều hơn con của một người giàu có”. Sự kỳ thị của “tầng lớp sáng tạo” cũng được phản ánh trong không gian, khi các hộ gia đình tập trung tất cả các nguồn lực tập hợp nhau lại trong một số khu vực của các đô thị tiến bộ và cởi mở cung cấp một lối sống lành mạnh hơn, mạng lưới xã hội rộng lớn hơn và tỷ lệ thành công tốt hơn so với nhóm 90% người Mỹ ít giàu có[17]. Markovits nhận xét: “Các khoản đầu tư lớn của giới tinh hoa vào giáo dục đã mang lại trái ngọt. Ngày nay, hố sâu về giáo dục giữa sinh viên giàu và nghèo hiện đã vượt quá hố sâu giữa người da đen và người da trắng vào năm 1954,” năm Tòa án Tối cao phán quyết rằng sự phân biệt chủng tộc ở trường học là vi hiến. “Bất bình đẳng kinh tế ngày nay tạo ra bất bình đẳng giáo dục lớn hơn so với chế độ phân biệt chủng tộc ở Mỹ.”
Ẩn mình sau thành lũy của các hình thái giáo dục khắt khe mà họ đã thiết lập như là những chuẩn mực thông qua báo chí và văn hóa, những trí thức phồn vinh nhất sẽ khinh thường các bậc cha mẹ ít cởi mở, ít tiến bộ và ít hào phóng hơn vốn không tuân theo cùng các nghi thức văn hóa, xã hội và ẩm thực. Và lúc đó sẽ đưa ra phán quyết: “Vì họ không chịu theo đuổi việc học hành”, một mệnh lệnh tổng hợp lại phần “xã hội” của các chương trình tự do.
Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu ví cuộc sống của giới tinh hoa tài năng như là một dòng sông dài yên tĩnh. Học thuyết Darwin xã hội, vốn gạt bỏ ngay từ đầu hầu hết các học sinh xuất thân từ các gia đình nghèo, cũng đặt con cái của những người giàu vào tình trạng cạnh tranh không ngừng. Từ sự quá tải ở trường từ khi trẻ lên 3 tuổi đến việc làm kéo dài 12 giờ mỗi ngày với tư cách là người cùng cộng tác (associé) trong một công ty luật, những người tài năng nhận ra một cách nghiệt ngã rằng vốn, thậm chí là vốn văn hóa, cũng cần sức lao động – lao động của họ! - để tạo ra lợi nhuận. Sự tha hóa này đối với các công ty thường không mang lại lợi ích xã hội, vốn đã thiết lập sự tự hủy hoại bản thân do kiệt sức như một tiêu chí đánh giá sự xuất sắc trong nghề nghiệp, đã xúi giục một phần rất nhỏ nhưng đang ngày càng tăng bỏ hàng ngũ để chuyển sang nghề thủ công, hoạt động nhân đạo và hiếm hơn là ném đá (biến thành những người phản kháng - ND). Một sự thức tỉnh như vậy vẫn là ngoại lệ. Một khi bước vào một định chế ưu tú, số phận đã được định.
Ở Hoa Kỳ, một nửa số sinh viên của 12 trường đại học danh tiếng nhất xuất thân từ 10% các hộ gia đình giàu nhất. Ở Pháp, sự ly khai của giai cấp tư sản có học thức chưa đạt đến mức độ này. Thứ nhất, bởi vì tỷ lệ thu nhập mà nhóm 10% này nắm giữ đã bị đình trệ kể từ đầu những năm 1970 trong khi nó tăng 13% ở phía bên kia Đại Tây Dương. Thứ hai, vì con cháu của các gia đình khá giả thường trải qua giai đoạn bấp bênh khi bắt đầu sự nghiệp, điều không khuyến khích họ thừa nhận bất kỳ “đặc quyền” giai cấp nào mặc dù họ nắm giữ nguồn lực khan hiếm vốn, cùng với tài sản, cấu trúc hoá thứ bậc xã hội: những bằng cấp tốt. Cuối cùng, chi phí giáo dục đại học ở Pháp thấp trái ngược với mức học phí cắt cổ ở Mỹ. Tuy nhiên, sự độc quyền của thành phần tư sản đối với các trường cũng không kém phần rõ rệt: Trường Quốc Gia Hành chính (ENA) có 6% sinh viên gốc công nhân và nhân viên trong khi các thành phần này tương ứng với hơn một nửa dân số hoạt động. Đối với trường Bách Khoa/Polytechnique, 1,1% sinh viên của trường có cha mẹ là công nhân, so với 93% có cha mẹ là viên chức cao cấp hoặc là có nghề trí thức cao cấp[18]. Chủ nghĩa phân biệt dựa trên tài năng này đã được tô đậm kể từ những năm 1950. Chúng ta có thể thấy nghịch lý của một thể chế được thành lập dựa trên lời hứa phổ cập tri thức và khi, ngày càng phát triển, đã trở thành trung tâm phân loại chịu trách nhiệm phân tách số 10% sẽ thống trị tất cả các thành phần khác.[19]
“Rửa tiền của chúng tôi bằng phẩm hạnh của chúng tôi”
Đường chia cắt này là một ơn trời cho các nhà bình luận nôn nóng dẹp bỏ các khoảng cách mà họ cho là lỗi thời. “Ở nhiều quốc gia,” tuần báo tự do The Economist (ngày 6 tháng 6 năm 2020) giải thích, sự phân chia cũ tả -hữu, dựa trên kinh tế đã được thay thế bằng một sự phân chia tự do-bảo thủ, dựa trên văn hóa”. Tuy nhiên, thay vì loại trừ lẫn nhau, văn hóa và kinh tế được cộng lại. Ở Pháp, việc sở hữu bằng thạc sĩ vẫn tương quan chặt chẽ với nguồn gốc xã hội: năm 2017, 40% những người hoạt động có cha hoặc mẹ làm nghề tự do, có bằng cấp tú tài +5 hoặc bằng cấp của một trường kỹ sư, so với ít hơn 4% con cái của công nhân lành nghề trong lĩnh vực hậu cần. Sự cai trị của giới trí thức giàu có là một phần của cuộc đấu tranh giai cấp không thể truyền thống hơn.
Anne Case (1958-) |
Trong tiểu thuyết mô tả một xã hội huyễn tưởng toàn trị được viết trước đây bảy mươi năm, Young không nói gì khác. Nhưng tiểu thuyết của ông kết thúc bằng một nhận xét lạc quan. Vào tháng 5 năm 2033, một phong trào “dân túy” mạnh mẽ do phụ nữ, những người bị loại trừ khỏi việc phân chia lại các quyền lực dân chủ có lợi cho nam giới, khởi xướng đã nổ ra. “Lần đầu tiên, một nhóm thiểu số bất đồng chính kiến của thành phần tinh hoa đã liên minh với các tầng lớp thấp hơn bị cô lập và ngoan ngoãn cho đến lúc đó”, người kể chuyện tự phụ của Young viết, mà không nói rõ liệu những người biểu tình có mặc áo vàng hay không. Các cuộc biến loạn nổ ra. Nhân viên của một cửa hàng sang trọng đã tàn phá cơ sở của họ. Bộ trưởng giáo dục bị mổ bụng. Một cuộc tổng đình công được tổ chức vào ngày 1 tháng 5 năm 2034, lần đầu tiên sau hơn bốn mươi năm.
Mất phương hướng, người kể chuyện, đột nhiên ít tự cao tự đại hơn, mong đợi vào sự hụt hơi của phong trào. Câu chuyện của ông đột ngột dừng lại. Trên bản thảo, một ghi chú ngắn gọn của người biên tập cho biết rằng ông đã không sống sót sau cuộc nổi dậy.
Phạm Như Hồ dịch
Nguồn: “La bourgeoisie intellectuelle, une élite héréditaire”, Le Monde diplomatique, tháng tám 2020.
[*]
Pierre Rimbert là một nhà báo Pháp. Ông cộng tác với nguyệt san Le Monde Diplomatique mà ông là Phó tổng biên tập từ tháng 6 năm 2010. Ông còn là thành viên của Hiệp Hội phân tích và phê phán các phương tiện truyền thông ACRIMED. [1]
Michael Young, The Rise of the Meritocracy, 1870-2033. An Essay on Education and Equality, Thames and Hudson, Londres, 1958. [2]
Thomas Frank, Pourquoi les riches votent à gauche, Agone, Marseille, 2018. [3]
Jean-Claude Chamboredon, “La délinquance juvénile, essai de construction d’objet”, Revue française de sociologie, vol. 12, n0 3, Paris, 1971. [4]
Robert Paxton, La France de Vichy, 1940-1944, Seuil, Paris, 1973 (éd. originale: 1972). [5]
Pierre Bourdieu, Sur l’État, Seuil/Raisons d’agir, Paris, 2012. [6]
Étienne Balazs, La Bureaucratie céleste. Recherches sur l’économie et la société de la Chine traditionnelle, Gallimard, Paris, 1968. [7]
Isabelle Kalinowski, ““Ils ne songent pas à désirer le nirvana”. La sociologie des intellectuels dans Hindouisme et bouddhisme de Max Weber”, dans Johan Heilbron, Rémi Lenoir et Gisèle Sapiro (sous la dir. de), Pour une histoire des sciences sociales, Fayard, Paris, 2004. [8]
Cf. Lawrence Peter King et Ivàn Szelényi, Theories of the New Class. Intellectuals and Power, University of Minnesota Press, Minneapolis, 2004. [9]
Marc Ferro, préface à la nouvelle édition de La Révolution de 1917, Albin Michel, Paris, 1997. [10]
Cf. Serge Halimi, Le Grand Bond en arrière, Agone, Paris, 2012. [11]
Alvin Gouldner, The Future of Intellectuals and the Rise of the New Class, Macmillan, Londres et Basingstoke, 1979. [12]
Dominique Damamme, “Genèse sociale d’une institution scolaire. L’École libre des sciences politiquest”, Actes de la recherche en sciences sociales, n0 70, Paris, 1987. [13]
Mark Bovens et Anchrit Wille, Diploma Democracy. The Rise of Political Meritocracy, Oxford University Press, 2017. [14]
Nicholas Carnes et Noam Lupu, “What good is a college degree? Education and leader quality reconsidered”, The Journal of Politics, vol. 78, n01, Chicago, 2016. [15]
Elizabeth Currid-Halkett, The Sum of Small Things, Princeton University Press, 2017. [16]
Daniel Markovits, The Meritocracy Trap. How America’s Foundational Myth Feeds Inequality, Dismantles the Middle Class and Devours the Elite, Penguin Press, New York, 2019. [17]
Lire Benoît Bréville, “Quand les grandes villes font sécession”, Le Monde diplomatique, mars 2020. Cf. également Richard V. Reeves, Dream Hoarders. How the American Upper Middle Class Is Leaving Everyone Else in the Dust, Brookings Institution Press, Washington, DC, 2017. [18]
Cf. pour les États-Unis: Raj Chetty et alii, “Income segregation and intergenerational mobility across colleges in the United States”, NBER Working Papers, février 2020. Et, pour la France, Pierre François et Nicolas Berkouk, “Les concours sont-ils neutres? Concurrence et parrainage dans l’accès à l’École polytechnique”, Sociologie, vol. 9, n0 2, Paris, 2018. [19]
Cf. Emmanuel Todd, Où en sommes-nous? Une esquisse de l’histoire humaine, Seuil, Paris, 2017. [20]
Matthew Stewart, “The birth of a new american aristocracy”, The Atlantic, Washington, DC, juin 2018. [21]
Thomas Piketty, Capital et idéologie, Seuil, Paris, 2019. [22]
Anne Case et Angus Deaton, Deaths of Despair and the Future of Capitalism, Princeton University Press, 2020.
Chú thích: