TÂN TRÚC SILICON VÀ CUỘC CÔNG NGHIỆP HÓA
ĐÀI LOAN
NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ
Nguyễn Xuân Xanh
(Tháng 3&4,
2020. Toàn bài sẽ được đăng trong một quyển sách chuyên đề về Thung
lũng Silicon từ góc nhìn văn hóa, Đài Loan và Hàn Quốc, Nxb Tổng hợp, TP HCM, 2024)

Học để phát triển (kinh tế) đòi hỏi một sự thay đổi
từ quan điểm dựa vào các lý thuyết suy diễn thuần túy sang quan điểm dựa vào
kinh nghiệm sống quy nạp trong thời hoàn cảnh thực. Nếu các nền kinh tế mới nổi
muốn tiếp tục tăng trưởng, nếu các nước kém phát triển muốn tăng cường sản
lượng, họ cần một tư duy “nổi loạn”, một tâm hồn “nổi loạn” và một cuộc cách
mạng trong lý luận về phát triển kinh tế.
Alice H. Amsden, 2012
Trong đời sống nhân loại, kinh tế đi trước chính
trị và văn hóa.
Park Chung Hee
Điều quan trọng nhất trong đời là có một mục đích,
và sự kiên quyết để thực hiện nó.
Khẩu hiệu được ghi
tại Cục phát triển công nghiệp ở Đài Bắc
Chúng tôi không bao
giờ học bất cứ điều gì đến hai lần.
Khẩu hiệu của người
Hàn Quốc
***
Dàn bài
1. Mở đầu
2. Chiếc bóng bán dẫn làm thay đổi
thế giới
PHẦN 1
3. Công viên khoa học Tân Trúc
(HSIP) – Hình thành và tác động của nó
4. HSIP và Viện nghiên cứu ITRI: Các
định chế chiến lược cho hi-tech
5. Chiến lược thâm nhập vào thế giới
công nghệ cao
6. Nhóm tư vấn độc lập STAG
7. Chiến lược liên minh và quá trình
bắt kịp
8. Từ bắt chước đến sáng tạo
9. Nguồn lực chất xám chảy ngược
10. Tóm tắt
PHẦN 2
11. Về cuộc cách mạng công nghiệp Đài
Loan
12. Đóng góp của Giáo dục Khoa học
Công nghệ
13. Tương đồng và khác biệt với Hàn
Quốc
14. Các giai đoạn công nghiệp hóa
15. Lợi thế của Đài Loan về kinh
nghiệm chế tạo (manufacturing)
16. Bối cảnh chính trị Đài Loan
17. Tương đồng và khác biệt với Hàn
Quốc trong phong cách
18. Đàn sếu bay
PHẦN 3
19. Chính phủ kiến tạo phát triển như
hệ hình mới
20. Hai minh họa vai trò dẫn dắt của
nhà nước
21. Thuyết tân cổ điển vs Nhà
nước kiến tạo phát triển
22. Chính phủ mạnh và Chính phủ yếu
23. Đường cong học tập
24. Tinh thần kiến tạo phát triển
PHẦN 4
25. Việt Nam
Tài liệu tham khảo
***
Dưới đây chúng tôi xin đăng hai
mục (1) và (2)
(1) MỞ ĐẦU
Sự trỗi dậy của Đông Á với tư
cách là các cường quốc kinh tế toàn cầu là một trong những quá trình chuyển đổi
lớn của thời đại chúng ta. Các quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore, mà
một thế hệ trước đã phải chịu cảnh nghèo khó không thể tưởng, đã tự nâng mình
trở thành người tạo ra sự giàu có nhờ công nghiệp hóa. Chỉ trong vài thập niên,
một vùng đất nghèo nàn lạc hậu bỗng chốc trở thành giàu mạnh, phát triển, có
nền kinh tế tri thức và công nghệ cao. GDP đầu người của Đài Loan đã tăng từ
$2.368 năm 1980 lên $14.877 năm 2000, tăng gấp 6.3 lần, là giai đoạn phát triển
công nghệ IT được trình bày dưới đây, trong khi năm 1970 chỉ đạt $396. Năm 2010
chỉ số này tiếp tục tăng lên $19.262, và $24.828 năm 2019. Đó là một cuộc
cách mạng.
Người ta tự hỏi, Đài Loan, và
người láng giềng Hàn Quốc phát triển theo con đường nào để đạt những đỉnh cao
như thế? Canh tân quốc gia là một công việc vĩ đại và gian nan mà có lẽ nhiều
quốc gia thất bại hơn là thành công. Dưới đây, chúng tôi sẽ tìm hiểu sự “hóa
rồng” của Đài Loan, và khi hiểu được nó, sẽ có sơ sở để hiểu Hàn Quốc dễ dàng
hơn. Hai quốc gia có phần lớn số gien giống nhau. Họ khác nhau nhiều
về phong cách, một bên là “gradualist”, tuần tiến, một bên là “big
push”, cú hích lớn.
Học thuyết kinh tế tân cổ điển là học thuyết nhằm bảo đảm một
nền kinh tế thị trường phát triển tự do, chủ yếu dựa vào một nhà nước đặt ra
các chính sách vĩ mô thuận lợi, phát triển cơ sở hạ tầng, đầu tư vào giáo dục
đào tạo, lấy kinh tế tư nhân làm chủ đạo, kêu gọi
đầu tư nước ngoài, tự do hóa nhập khẩu, loại bỏ các rào cản thương mại như thuế
quan và hạn ngạch, giữ sự can thiệp tối thiểu, còn lại để cho thị trường tự do
vận hành. Điều này được thể hiện trong “Đồng thuận Washington” những năm 1980
của thế kỷ trước. Nhà nước, có thể nói, giữ vai trò “trọng tài” đứng ngoài cuộc
chơi.
Nhưng ở các quốc gia Đông Á,
người ta tìm thấy nhà nước ngược lại, không phải thuần túy trọng tài, mà còn
giữ vai trò “huấn luyện viên”. Nhà nước, trong chừng mực, gia nhập cuộc chơi,
nhưng không cạnh tranh với các lực lượng thị trường,
ngược lại có nhiệm vụ “dẫn dắt thị trường”, thúc đẩy các lực lượng thị trường
còn nhút nhát mạnh dạn phát triển các tiềm năng to lớn hơn, làm những sự khai
phá thị trường hướng đến những phân khúc mà tự nó thị trường khó đến được. Loại
nhà nước mới này có tên nhà nước kiến tạo phát triển –
developmental state. Lịch sử loại nhà nước này đã bắt đầu hình thành từ Đức vào
đầu và Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19, trong chừng mực ở Mỹ, và sau Thế chiến II
phát triển mạnh thành hệ hình phát triển mới cho các quốc gia
Đông Á. Theo hệ hình này, nhà nước, giới doanh nhân, giới công nghệ cùng ngồi
trên một chiếc thuyền, hợp tác với nhau vì một mục tiêu quốc gia chung, vì “màu
cờ sắc áo”, thành bại và vinh nhục đều được chia sẻ chung. Các quốc gia đi sau,
nên phải sử dụng tổng nguồn lực, kể cả vai trò của nhà nước thì mới có cơ may
bắt kịp. Đó là sự đổi mới sáng tạo trong kinh tế chính trị học.
Vai trò kiến tạo phát triển này
của chính phủ Đài Loan sẽ hiện ra rõ nhất trong cuộc cách mạng ICT đang dâng
lên ở Mỹ và Nhật Bản, là giai đoạn quyết liệt nhất từ những năm 1980 trở đi,
giúp cho Đài Loan nhanh chóng hóa rồng. Chính ở giai đoạn phát triển hi-tech
được trình bày dưới đây người ta mới thấy rõ vai trò của nhà nước kiến
tạo phát triển, thể hiện bàn tay rất hữu hình như người dẫn dắt, đầu tư để
tạo ra những xung lực mới cho giới doanh nhân tư nhân, định hướng và thúc đẩy
bằng những chính sách tài chính có chọn lọc giúp các mảng công nghiệp mới ra
đời, tạo động lực cho quốc gia cất cánh. Xem xét những bước đi, định chế cụ thể
của sự phát triển sẽ thấy được xương thịt của một cơ thể mới hình thành thế nào
từ các chính sách.
Đối với các con rồng con châu Á, từ Nhật Bản thế kỷ 19, 20 đến Hàn Quốc, Đài Loan và nhiều quốc gia phát triển nhanh khác, thuyết tân cổ điển, cũng như “Đồng thuận Washington”, nói quá đi, xem như bị “sụp đổ”, nhường chỗ cho một hệ hình mới, bao gồm vai trò của “nhà nước kiến tạo phát triển”, “dẫn dắt”, và có “định hướng thị trường”, nhằm phát triển và phát huy sức mạnh đổi mới sáng tạo của thị trường gấp nhiều lần hơn. Nhà nước không đóng vai trò tham gia cạnh tranh trên thị trường, mà là động lực “từ phía ngoài” (exogenous) nền kinh tế tác động để dẫn dắt và tạo ra những thay đổi cấu trúc nền kinh tế. Những điều đó sẽ giải thích “các nền kinh tế thành tích cao” ở Đông Á, một sự kiện được nghiên cứu và bàn luận rất nhiều trong kinh tế chính trị học trên thế giới.
Thế giới không thiếu những nhà
nước can thiệp chỉ vì lợi ích riêng mà kìm hãm thị trường. Người ta không thể
nhân danh sự can thiệp nhà nước để tùy tiện làm suy yếu các lực lượng thị
trường, suy yếu quốc gia. Ở đâu nền kinh tế không vực dậy và thăng hoa xứng
đáng với tiềm năng của dân tộc, ở đó có cái gì rất bất hợp lý.
Điểm nổi bật của các nền kinh tế
này là dựa vào tri thức, khoa học công nghệ là cốt lõi. Nhà nước, nhà công
nghệ, và doanh nghiệp đổi mới sáng tạo – trong triết lý “hãy làm việc tốt nhất
theo cách của mình” – làm thành một liên minh hỗ trợ thúc đẩy lẫn nhau đi vào
những hướng phát triển mới của thị trường thế giới. Cạnh tranh thế giới thực
chất là cạnh tranh về công nghệ, năng lực học hỏi, hấp thu và làm chủ khoa học
công nghệ mới. Kết nối vào các phân khúc thế giới là kết nối công nghệ, nhận
được sự phân công lao động, để từ đó học hỏi, rồi dần dần tiến lên đổi mới sáng
tạo để có vai trò xứng đáng trong cộng đồng công nghệ thế giới.
Để thực hiện cuộc tiến lên
hi-tech thành công, nhà nước Đài Loan không phải chỉ có các nhà chính trị thuần
túy, mà phải có một đội ngũ đông đảo các nhà kỹ trị khai sáng, gồm
những nhà khoa học, kỹ sư được đào tạo chính quy, một số ở châu Âu, một số ở
Mỹ, một số trong nước, am hiểu tình hình công nghệ thế giới, “cosmopolitan”, để
làm chính sách và giám sát thực hiện, có lực lượng kỹ sư đông đảo được đào tạo
hiện đại nhất, và kết nối với một lực lượng doanh nhân công nghệ năng động từng
sống và làm việc có nhiều kinh nghiệm ở nước ngoài, chủ yếu ở Mỹ, tại các công
ty công nghệ hay tại Thung lũng Silicon. Các nhà kỹ trị đều độc lập, và được
bảo đảm vị thế độc lập để hoạt động, chính trị không quan trọng đối với họ, lợi
ích quốc gia mới là trên hết. Họ là những người đề ra ý tưởng, phương hướng,
vạch ra chính sách, cũng như thực hiện và giám sát. Trong số họ, có những nhà
“siêu kỹ trị”, “công thần khai quốc” mà tên tuổi gắn liền với cuộc công nghiệp
hóa và công nghệ cao.
Sự phát triển Đông Á dựa trên kết
nối xuyên quốc gia chặt chẽ, dựa trên mối quan hệ chính trị thuận lợi sẵn có,
thị trường mở, sự trao đổi giáo dục, và chuyển giao công nghệ dễ dàng. Không có
sự đứng riêng lẻ. Trong nửa thế kỷ qua, các quốc gia Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Đài
Loan, Singapore đã trở thành đàn sếu bay nhiều thế hệ liên
tiếp cất cánh vươn cao, con này kéo con kia. Trung Quốc
cũng xếp mình vào chuỗi kết nối đó, không thể khác. Câu hỏi đối với chúng ta
là: Việt Nam sẽ thuộc về thế hệ sếu bay nào sắp tới?
Có hay không, và nhanh hay chậm?
Đọc mẩu truyện lịch sử dưới đây,
chúng ta sẽ hình dung Việt Nam cần phải làm gì nếu muốn đất nước gia nhập đàn
sếu cất cánh trong tương lai. Người Việt đang có khát vọng tạo ra những sản
phẩm “đẳng cấp thế giới”. Điều đó đúng. Người Việt Nam có niềm tự hào lớn trong
lịch sử, nhưng chưa tự hào được về kinh tế, nhận thấy kinh tế chưa xứng đáng
với tiềm năng trí tuệ con người, và còn thua xa các quốc gia xung quanh, làm
cho niềm tự hào bị tổn thương. Qua rồi giai đoạn chỉ bằng lòng với đồng lương
gia công rẻ, hay với những sản phẩm sơ chế hay sơ cấp. Với ưu thế lao động rẻ
và cho thuê đất làm mặt bằng sản xuất, kinh tế Việt Nam không bao giờ cất cánh
được, đơn giản vì nó không có hàm lượng công nghệ cao. Nhưng làm sao để có sản
phẩm “đẳng cấp thế giới”, đó là điều phải vắt óc suy nghĩ của những ai có trách
nhiệm, và cả giới doanh nhân tinh hoa. Câu chuyện lịch sử dưới đây minh họa rất
nhiều những gì cần phải làm để có thể có những sản phẩm “đẳng cấp thế giới” như
từng xảy ra xung quanh ta.
Việt Nam có thể cất cánh bên
ngoài đàn sếu kia hay không? Chúng ta khó đứng riêng lẻ đủ sức mà cất cánh. Cất
cánh vào khung trời nào? “Buôn có bạn, bán có phường”. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan, Singapore, Thái Lan, Mã Lai, và ngay cả Trung Quốc cũng không thể đứng
ngoài thị trường thế giới. Chỉ khi nào chia sẻ được sự phân công lao động quốc
tế ở các phân khúc công nghệ cao, chúng ta mới có cơ may học hỏi để nỗ lực tiến
lên xuất sắc. Phải tạo cho được một vé vào cửa thị trường công nghệ cao, tạo
được lòng tin cậy của đối tác thế giới, rồi tiến lên nghiên cứu đổi mới sáng
tạo, cố gắng vượt họ ở một số mặt góp phần vào sự tiến bộ chung. Bài học của
Đài Loan, cũng như các quốc gia hóa rồng khác, cung cấp hình mẫu của quỹ đạo
cho các quốc gia đi sau để tiến lên phía trước.
Việt Nam từ hơn 20 năm nay có
không thiếu các hiệp định hợp tác “toàn diện” hay “chiến lược” với nhiều quốc
gia phát triển hàng đầu, nghe rất phấn khởi, nhưng thực tế chưa thấy có
những tác động đột phá nào đáng kể lên việc nâng cấp mặt bằng
công nghệ Việt Nam cao hơn, để Việt Nam có thể tạo ra những sản phẩm công nghệ
cao hơn cung cấp cho các phân khúc thị trường thế giới, như Đài Loan từng làm,
và cũng như Hàn Quốc hay Singapore. Tại sao không, và tại sao chưa? Đầu tư trực
tiếp FDI có thể giúp Việt Nam cất cánh? Không bao giờ. Chúng ta sẽ chỉ làm công
chứ không thể làm chủ công nghệ hiện đại, hoặc có những sản phẩm “đẳng cấp thế
giới”. FDI chỉ là giai đoạn, và chủ nhân của những đề án này không phải là người
Việt Nam. Chúng ta hãy xem thí dụ Đài Loan dưới đây, cũng như chứng kiến sự
tiến hóa ngoạn mục của tương quan lực lượng giữa đầu tư nước ngoài như ngoại
lực, và các doanh nghiệp bản xứ như nội lực trên đất nước họ.
Hiện nay, Việt Nam vẫn đang đứng
ngoài cuộc chơi lớn, đa phần chỉ mới làm gia công cho các mặt hàng thâm dụng
lao động, giá rẻ, chưa thâm dụng tri thức cho những mặt hàng hàm lượng công
nghệ và giá trị cao. Những giai đoạn chuẩn bị căn bản của một cuộc công nghiệp
hóa quy mô, như thay thế nhập khẩu, định hướng xuất khẩu ở các mặt hàng chế tạo
có hàm lượng công nghệ trung, để tạo điều kiện tiến lên những công nghệ cao
hơn, được thực hiện hẵng còn quá ít.
(2) CHIẾC BÓNG BÁN
DẪN THAY ĐỔI THẾ GIỚI
Câu chuyện bắt đầu bằng chiếc bóng bán dẫn có tên transitor, là phát minh khoa học hiếm có thay đổi cả thế giới mà nếu không có nó, sẽ không có cái gọi cuộc cách mạng ICT hiện tại, lại càng không có 4.0 hay hơn thế nữa. Nó mới được phát minh vào năm 1948 tại Phòng thí nghiệm Bell Hoa Kỳ bởi ba nhà khoa học William Shockley, John Bardeen, và Walter Brattain. Ba ông được công nhận giải Nobel năm 1956. Sau đó, IC (integrated circuit), mạch tích hợp, hay vi mạch, hay chip, ra đời chứa nhiều bóng bán dẫn được Robert Noyce chế tạo năm 1957 được nén lại trên một tấm silicon. Với thời gian, chip có thể chứa từ hàng trăm đến hàng triệu bóng bán dẫn [và đến nay đã hàng tỷ], điện trở và tụ điện, có thể hoạt động như bộ khuếch đại, bộ tạo dao động, bộ đếm thời gian, bộ vi xử lý hoặc thậm chí là bộ nhớ máy tính, vân vân. Những con chip điện tử cực nhỏ này có thể thực hiện tính toán và lưu trữ dữ liệu bằng công nghệ kỹ thuật số. Chúng là những động lực công nghệ quan trọng của thời đại IT, tạo ra vô số các sản phẩm mới điện thoại thông minh, iPad, máy tính cá nhân, truyền hình độ nét cao, các thiết bị y tế tinh vi, vân vân. Chúng có năng lực thay đổi tất cả các ngành công nghiệp và lối sống con người. Chip ngày càng được nén lại chứa nhiều hơn bóng bán dẫn theo Định luật Moore: Cứ hai năm sẽ chứa gấp đôi bóng bán dẫn một lần. Bóng bán dẫn đơn giản đầu tiên đã tiến hóa thành những con chip ‘megabit’ như Bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên động (DRAM, Dynamic Random Access Memory), đến năm 2000 đã đạt đến mức một gigabyte: một tỷ thiết bị (devices) được nhúng trong đó. Có người gọi ngành công nghệ mới này là công nghệ cọp (tiger technology), và chip là chip cọp (tiger chip) để đặc trưng sức mạnh thần kỳ của nó. Còn đối với người Nhật, ngành chất bán dẫn (là nguyên liệu để sản xuất ra các loại linh kiện bán dẫn như diode, transistor, IC trong các thiết bị điện tử) được xem là “cơm gạo của công nghiệp”, vì thế họ không tiết kiệm nỗ lực nào để bảo đảm làm chủ cho được các công nghệ về sản phẩm và sản xuất từ các công ty Mỹ đang thống lãnh lúc đó như Fairchild và Texas Instruments, và ‘nuôi dưỡng’ năng lực công nghệ của các công ty Nhật Bản đến trình độ họ có thể nổi lên như một tay chơi bùng nổ trên thị trường quốc tế và chiến thắng trong những năm 1980 sau đó. Cũng có thể ví sức mạnh của loại công nghệ mới này là thanh gươm thần của Vua Arthur trong chuyện thần thoại Anh mà các quốc gia Đông Á phải ra sức bằng mọi giá chiếm cho được.
![]() |
Robert Noyce, đồng phát minh ra mạch tích hợp IC (Wikipedia) |
Sự giàu có được tạo ra đầu tiên ở Bờ Tây Hoa Kỳ tại Thung lũng Silicon, nơi các con chip đầu tiên được thiết kế và sản xuất, và sau đó lan tỏa trên khắp Thái Bình Dương, về công nghệ cũng như năng lực sản xuất. Đối với các quốc gia ở vùng biển phía Tây Thái Bình Dương, bắt đầu với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và sau đó là Singapore, Malaysia và Trung Quốc, thực tế chip là nền tảng cho chiến lược công nghiệp của họ.
Vào giữa những năm 1980, với một cuộc ‘tấn công’ ồ ạt vào chip nhớ (memory chip) – theo truyền thống “Trân Châu Cảng” – người Nhật đã chiếm được hơn 40% thị trường chất bán dẫn thế giới, tạo ra một cuộc chiến thương mại công nghệ cao nổi tiếng với Mỹ, mà đỉnh cao Hiệp định thương mại bán dẫn Mỹ-Nhật năm 1986, nhằm giới hạn sự cung cấp chip vào thị trường Mỹ.
Rồi sau đó tay chơi Hàn Quốc xuất
hiện. Bỗng nhiên, không biết từ đâu, các công ty như Samsung và sau đó là
Huyndai và Goldstar (nay là LG Semicon) đùng đùng cũng cung cấp được các chip
bộ nhớ chất lượng cao với giá cạnh tranh cho các nhà sản xuất máy tính Mỹ.
Samsung đã kiếm được lợi nhuận từ các doanh số này từ đầu năm 1987, trong khi
các công ty khác của Hàn Quốc nỗ lực xây dựng các khả năng công nghệ. Ít ngoạn
mục hơn, nhưng với bề rộng công nghệ và tính linh hoạt cao hơn, thập niên 1990
cũng báo hiệu sự xuất hiện của Đài Loan như một thế lực bán dẫn, dẫn đầu bởi
xưởng đúc wafer đầu tiên quy mô, Tập đoàn sản xuất bán dẫn Đài Loan (TSMC), và
các nhà cung cấp chip tiên tiến như UMC và Winbond. Đến nửa cuối thập niên
1990, các công ty Đài Loan cũng đã chuyển sang chế tạo chip nhớ để thách thức
cả người Hàn Quốc và Nhật Bản.
Trong khi đó, Singapore, nơi cung
cấp một thiên đường cho các hoạt động lắp ráp và đóng gói chip đa quốc gia sớm,
vào cuối những năm 1990, đã tự hào với một số nhà máy sản xuất tấm wafer đa
quốc gia và xưởng đúc wafer bản địa của riêng mình, được vận hành bởi Tập đoàn
công nghệ Singapore (Singapore Technologies Group). Đồng thời Malaysia, Thái
Lan, Philippines và Trung Quốc cũng đang chứng kiến những khoản đầu tư lớn vào
hoạt động bán dẫn trong cả hai, đóng gói IC có giá trị gia tăng thấp và, trong
tương lai, chế tạo tấm IC có giá trị gia tăng cao hơn. (Tiger technology,
29-31)
Các ngành công nghiệp bán dẫn cao
cấp mầu mỡ đó bỗng chốc hình thành tại các quốc gia Đông Á. Chúng xuất hiện thế
nào tại các quốc gia mới nổi? Lịch sử đã cho thấy, không phải là tình cờ hay
kết quả của hoạt động không ý thức của các lực lượng thị trường, mà ngược lại,
các ngành công nghiệp kia đã được cố ý gieo trồng và nuôi
dưỡng như những hành động có tính toán của các chính sách công mới lạ
xuất hiện của một kiểu nhà nước mới: nhà nước kiến tạo xây
dựng nói ở trên. Đây là điểm khác biệt cơ bản.
Cụ thể, dựa theo kinh nghiêm của
Đông Á, để có những bước phát triển đột phá, Việt Nam trước nhất phải vào được
câu lạc bộ đàn sếu, được chấp nhận để ‘học việc” (apprentice), và ‘thực tập’
qua những đề án gia công OEM (“sản xuất thiết bị gốc” cho khách hàng theo thiết
kế của họ để họ toàn quyền sử dụng theo thương hiệu của họ) để có tay nghề và
kỹ năng cao, rồi tiến lên gia công ODM (tự thiết kế). Câu lạc bộ này giống như
một phường nghề thời Trung cổ, nhưng có công nghệ cao cấp. Họ vừa hợp tác vừa
cạnh tranh liên tục. Được nhận vào đó sẽ là bước đột phá chiến lược về liên
minh. Bước liên minh chiến lược này rất có thực chất hơn nhiều lần các hiệp
định hợp tác chiến lược chung. Bước phát triển đó sẽ bắt đầu định hình căn bản
hoạt động khoa học công nghệ và giáo dục của Việt Nam để biết làm gì, đào tạo
gì. Dĩ nhiên đào tạo có thể đi trước một bước nếu có tầm nhìn. Chúng ta có thể
đọc Báo cáo Ngân hàng 2035 về Việt Nam được công bố năm 2016 với nhiều nguyên
tắc kinh tế thị trường, giáo dục, tăng năng suất lao động, tăng GDP, vân vân,
rất minh triết, nhưng Việt Nam không có một miếng đất dụng võ để phát triển,
lớn lên, để một ngày nào đó trở thành một “master”, tiến lên từ bắt
chước (imitation) đến sáng tạo (innovation). Dĩ
nhiên, Ngân hàng thế giới không có nhiệm vụ tạo ra liên minh chiến lược cho ai,
mà đó phải là công việc của Việt Nam. Cộng đồng các quốc gia công nghệ cao là
trường học lớn, mà việc gia công OEM/ODM chính là một trường để vừa học vừa làm
hữu hiệu nhất. Đó là bước khởi đầu trong quá trình bắt kịp (catch-up) ngày càng
được nâng cao. Hãy xem trường hợp Đài Loan làm dưới đây. Đài Loan, bên cạnh Hàn
Quốc, Nhật Bản, cung cấp những bài học khai sáng hết sức quan
trọng không những cho Việt Nam mà còn cho tất cả các quốc gia đi sau
(latecomers). Dưới đây, nó được minh họa không những về mặt thực tiễn mà còn về
mặt lý luận. Khai sáng về những vấn đề then chốt của sự phát triển từ khoa học
công nghệ, giáo dục, tổ chức học tập, đến vai trò dẫn dắt, hỗ trợ của nhà nước
vào những phân khúc thị trường mới của thế giới, đầu tư cơ sở nghiên cứu và
phát triển R&D, tạo những chùm spin-off liên kết nhau, vai trò của các
doanh nghiệp tư nhân thực hiện những chương trình hiện đại hóa công nghệ xuất
sắc, và vai trò của giới Hoa kiều từ Mỹ.
Tôi hy vọng phần trình bày dưới đây sẽ minh họa được sự thành công của Công viên khoa học Tân Trúc như một Thung lũng Silicon, và cuộc hóa rồng của Đài Loan một cách sáng sủa, như cái DNA hay một “hệ quy chiếu” rõ nét, làm bài học và cũng để đánh giá sự phát triển của chính Việt Nam, giúp bạn đọc sẽ hiểu dễ dàng hơn khi tiếp xúc với lịch sử công nghiệp hóa của Hàn Quốc, hay ngay cả Trung Quốc sau đó.
NXX, mùa dịch Covid-19, 2020
-----
Bài có liên quan
