25.7.25

Giới, cơ hội nghề nghiệp và quyết định di cư của các cặp đôi

GIỚI, CƠ HỘI NGHỀ NGHIỆP VÀ QUYẾT ĐỊNH DI CƯ CỦA CÁC CẶP ĐÔI

Tóm tắt bản thảo 32970

Một nghiên cứu mới dựa trên dữ liệu của Đức và Thụy Điển cho thấy thu nhập của nam giới tăng lên sau khi cặp đôi chuyển đến một vùng làm việc mới, trong khi thu nhập của nữ giới vẫn giữ nguyên hoặc giảm ở giai đoạn đầu. Các cặp đôi cũng có nhiều khả năng di cư sau khi người nam bị mất việc hơn là sau khi người nữ bị mất việc.

Theo nghiên cứu Moving to Opportunity, Together (NBER Working Paper 32970) (Tạm dịch: Di cư đến cơ hội, cùng nhau, Bản thảo nghiên cứu 32970 của NBER) của Seema Jayachandran, Lea Nassal, Matthew J. Notowidigdo, Marie Paul, Heather SarsonsElin Sundberg, những phát hiện này cho thấy quyết định di cư của các cặp đôi được thúc đẩy bởi các chuẩn mực về giới truyền thống hơn là bởi nỗ lực tối đa hóa thu nhập hộ gia đình.

Cả nam giới lẫn nữ giới về dài hạn đều có thu nhập tăng sau khi di cư, nhưng thu nhập của người nam tăng ngay lập tức, trong khi thu nhập của người nữ sụt giảm trước rồi phục hồi sau.

Nghiên cứu tập trung vào các cặp đôi di cư giữa các vùng làm việc trong giai đoạn năm 1995 và 2007 ở Thụy Điển và giai đoạn năm 2001 và 2011 ở Đức. Mẫu được giới hạn ở các cặp đôi có ít nhất một người phối ngẫu trong độ tuổi từ 25 đến 45 tại thời điểm di cư và không có người phối ngẫu nào trên 60 hoặc dưới 18 tuổi. Ở cả Thụy Điển lẫn Đức, nam giới có thu nhập và tỷ lệ có việc làm cao hơn nữ giới, nhưng khoảng cách về giới ở Đức lớn hơn ở Thụy Điển.

Các nhà nghiên cứu phát hiện rằng trong vòng 5 năm đầu sau khi di cư, thu nhập của nam giới tăng trung bình 10% (khoảng 4.500 euro) ở Đức và 5% (1.700 euro) ở Thụy Điển. Nữ giới ở cả hai nước hầu như không có thay đổi gì về thu nhập. Phần đóng góp của nữ giới trong thu nhập của cặp đôi giảm 2,5% ở Đức và 1,1% ở Thụy Điển. Thu nhập của nữ giới tụt hậu một phần vì họ dành ít thời gian hơn cho công việc - đặc biệt là trong năm đầu tiên sau khi di cư vì họ có xu hướng phải tìm việc nhiều hơn nam giới. Khoảng cách về giới vẫn tồn tại trong ít nhất 5 năm sau khi chuyển nhà và lớn nhất ở các cặp đôi ở độ tuổi 20-29. Các nhà nghiên cứu phát hiện rằng việc sinh con gần thời điểm chuyển nhà không giải thích được sự nới rộng khoảng cách thu nhập sau khi di cư.

Ở Đức, những khác biệt về văn hóa giữa người Đông Đức và người Tây Đức trước đây có thể làm sáng tỏ vai trò của các chuẩn mực về giới. Theo truyền thống, nữ giới ở Đông Đức thường đi làm nhiều hơn so với nữ giới ở Tây Đức. Trong số các cặp đôi Đức mà cả hai vợ chồng đều không phải người Đông Đức, khoảng cách về giới trong dài hạn sau khi chuyển đi là 7.000 euro, so với 3.100 euro ở các cặp đôi có ít nhất một người trong cặp vợ chồng có gốc Đông Đức.

Các nhà nghiên cứu cũng nghiên cứu phản ứng của các cặp đôi khi một hoặc cả hai thành viên mất việc trong một đợt sa thải hàng loạt, liên quan đến ít nhất 50 người lao động. Sử dụng dữ liệu từ năm 2001-2006 đối với Đức và 1995-2007 đối với Thụy Điển, họ thấy rằng việc sa thải một người nam làm tăng khả năng cặp đôi chuyển đi khoảng 50% ở Đức và gần 100% ở Thụy Điển. Ngược lại, việc sa thải một người nữ có tác động không đáng kể đến quyết định di cư ở cả hai nước.

Khi nữ giới là người kiếm tiền chính của cặp đôi, Đức và Thụy Điển khác nhau. Ở Thụy Điển, nữ giới trong những hộ gia đình này được hưởng lợi nhiều hơn từ việc di cư so với nữ giới trong những hộ gia đình tương tự ở Đức. Tuy nhiên, ngay cả ở Thụy Điển, việc di cư cũng đem lại nhiều lợi ích hơn cho người nam hơn so với người nữ là người kiếm tiền chính.

Dựa trên những phát hiện này, các nhà nghiên cứu kết luận rằng “các hộ gia đình ở cả hai nước đều ít coi trọng thu nhập của nữ giới hơn so với nam giới, đặc biệt là ở Đức”.

— Steve Maas

____________________

Các nhà nghiên cứu xin cảm ơn Viện Nghiên cứu Việc làm Đức, Viện Nghiên cứu Nhà ở và Đô thị và Phòng thí nghiệm Đô thị tại Đại học Uppsala đã hào phóng cung cấp dữ liệu và hỗ trợ, cũng như Quỹ Nghiên cứu Kinh tế, Kinh doanh và Chính sách Công tại Trường Kinh doanh Booth thuộc Đại học Chicago đã hỗ trợ tài chính.

Người dịch: Nguyễn Thị Trà Giang

Nguồn: Gender, Career Opportunities, and the Relocation Decisions of Couples, The Digest, 12.1.2024

Bản thảo gốc: Moving to Opportunity, Together, NBER, 9.2024

----

Ghi chú của người dịch:

Tuy bài tóm tắt đã nêu bật được các ý chính, người dịch thiết nghĩ một số thông tin từ bản thảo gốc cũng sẽ góp phần giúp người đọc hình dung vấn đề nghiên cứu rõ ràng hơn và rút ra được nhiều thông tin bổ ích, nên xin phép được lược dịch một số định nghĩa chính, cách lấy mẫu, và mô hình được sử dụng.

1. Về thuật ngữ “Di cư” được sử dụng trong bài

“Di cư” trong bối cảnh của bài này được hiểu là di cư nội địa, giữa các vùng làm việc (commuting zone) như được mô tả trong hình dưới. Các từ “chuyển nhà” (relocation), “di chuyển” (move) được dùng với nghĩa tương đương.

Ở Đức, có 141 vùng làm việc, được định nghĩa là các quận được kết nối với nhau thông qua lưu lượng người đi làm cao (theo Kosfeld và Werner (2012)). Trong dữ liệu của Đức, thông tin về nơi cư trú chỉ được xác định vào thời điểm cuối mỗi năm đối với hầu hết các khoảng thời gian khảo sát. Do đó, các nhà nghiên cứu cho phép khả năng một người trong cặp đôi di cư trong năm t và người còn lại theo sau vào năm t + 1.

Ở Thụy Điển, có 60 “vùng phân tích chức năng” (functional analysis region) (theo định nghĩa của Cơ quan Thống kê Thụy Điển) và được nhóm nghiên cứu dùng với nghĩa tương đương “vùng làm việc” (commuting zone).

2. Dữ liệu được sử dụng trong bài

Các nhà nghiên cứu sử dụng dữ liệu hành chính của Đức và Thụy Điển, là dữ liệu lớn, dài hạn, chứa nhiều thông tin quý giá và bổ trợ lẫn nhau như

  • Thông tin địa lý về nơi cư trú của từng người trong cặp đôi
  • Lịch sử làm việc chi tiết của cả hai người trong cặp đôi
  • Có dữ liệu về sa thải hàng loạt để xét như một cú sốc ngoại sinh, giúp kiểm tra phản ứng hành vi thực tế

Sau khi lọc, mẫu được sử dụng cuối cùng là dữ liệu của 19.953 cặp đôi ở Đức di cư từ năm 1995 và 2007 và 47.313 cặp đôi tại Thụy Điển di cư từ năm 2001-2011 và thỏa các điều kiện sau:

  1. Độ tuổi: Ít nhất một người trong độ tuổi từ 25 tới 45 ở thời điểm di cư, loại bỏ nếu ít nhất một người trên 60 hoặc dưới 18, hoặc cặp đôi có ít nhất một người là sinh viên. Việc này nhằm loại bỏ tác động của việc di cư không liên quan đến công việc ở người lớn tuổi và quá trình gia nhập thị trường lao động lần đầu ở người trẻ tuổi.

  2. Lần di cư: Chỉ xét lần di cư đầu tiên vì các kết quả sau này có thể bị ảnh hưởng bởi lần di cư đầu tiên.

  3. Đủ dữ liệu để quan sát được cả 2 năm trước và 4 năm sau khi di cư, để tạo dữ liệu dạng panel cân bằng một phần.

3. Mô hình ra quyết định của hộ gia đình

Trong bối cảnh kinh tế học lao động, mô hình ra quyết định hộ gia đình thường giả định rằng các cặp đôi đưa ra lựa chọn (như di chuyển chỗ ở) để tối đa hóa phúc lợi chung, thường thể hiện qua thu nhập tổng của cả hai. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước (ví dụ: Lundberg & Pollak, 1996; Bertrand et al., 2015) cho thấy các chuẩn mực về giới và quyền thương lượng trong hộ gia đình ảnh hưởng mạnh đến quyết định này. Đặc biệt, các nghiên cứu đã quan sát hiện tượng gọi là “trailing spouse” - người vợ thường là người “đi theo” sự nghiệp của chồng.

Câu hỏi nghiên cứu chính của bài: Khi các cặp đôi dị tính chuyển đến một vùng làm việc mới, liệu lợi ích thu nhập có nghiêng về phía nam giới? Và nếu có, đó là vì 

1) nam giới có tiềm năng kiếm được thu nhập cao hơn (nên việc ưu tiên nam giới là hợp lý để tối đa hóa thu nhập hộ), hay vì

2) các chuẩn mực về giới khiến hộ gia đình ưu tiên sự nghiệp của nam giới hơn (thể hiện qua việc các hộ gia đình đặt trọng số cao hơn vào thu nhập của nam giới dù thu nhập kỳ vọng có thể tương đương)?

Kết quả lượng hóa cho thấy hộ gia đình đặt trọng số cao hơn đáng kể vào thu nhập của nam giới, đặc biệt là ở Đức, cho thấy chuẩn mực giới có vai trò lớn.

Các nhà nghiên cứu còn đề xuất ba cách giải thích thay thế, kiểm tra, và kết luận ba cách giải thích này không giải thích được kết quả chính, cụ thể:

  1. Con đường làm mẹ (“mommy track”)/ hình phạt khi có con (“child penalty”), chỉ hiện tượng nữ giới sinh con và rút khỏi thị trường lao động. Giả thuyết này được kiểm tra bằng cách so sánh các cặp đôi có con và không có con trong giai đoạn quan sát. Kết luận: khoảng cách thu nhập chỉ tăng nhẹ với nhóm có con, không đủ để giải thích kết quả chính.

  2. Phụ nữ chọn nghề ít được hưởng lợi từ việc di cư. Kiểm tra bằng cách tái phân bổ trọng số để nữ giới có phân bố nghề nghiệp như nam, nhưng kết quả hầu như không thay đổi sau khi hiệu chỉnh.

  3. Phụ nữ nhận các phúc lợi không phải bằng tiền lương (non-wage amenities). Kiểm tra bằng cách xem xét thời gian đi làm, khả năng có ông bà hỗ trợ việc chăm sóc trẻ ở bộ dữ liệu của Thụy Điển. Kết luận: không có bằng chứng rõ ràng về việc phụ nữ được hưởng lợi về thời gian đi làm hoặc sống gần gia đình.

Print Friendly and PDF