TÍNH HAI MẶT CỦA DỰ ÁN SIONÍT
Được Theodor Herzl lý thuyết hóa, chủ nghĩa sionist chính trị
(sionisme[*] politique/chủ nghĩa phục quốc Do Thái) mong muốn xây dựng một Quốc
gia/Nhà nước cho dân tộc Do Thái ở Palestine. Mặc dù được thúc đẩy bởi sự đau
khổ của các cộng đồng Do Thái, đặc biệt là ở Đông Âu, và bởi sự trỗi dậy của chủ
nghĩa bài Do Thái (anti sémitisme) ở phía Tây của Châu Âu, phong trào này dựa
trên logic thực dân phù hợp với bối cảnh Châu Âu thời bấy giờ.
Franz Krausz . - « Hãy viếng thăm Palestine », áp phích cho Hiệp Hội Phát triển Du Lịch Ở Palestine khuyến khích ngành du lịch sionít , 1936 |
Không phải là hiếm khi những người bị áp bức trong lịch sử lại chính là những kẻ áp bức. Điều này đặc biệt đúng với các phong trào giải phóng đấu tranh chống lại chế độ thực dân trong khi dân tộc bị áp bức của họ lại đi áp bức một nhóm thiểu số, chủng tộc, tôn giáo hoặc nhóm thiểu số khác, ngay tại quốc gia của họ. Thông thường, các phong trào này nhắm mắt làm ngơ trước sự áp bức này, nếu không muốn nói là công khai ủng hộ nó với nhiều cớ khác nhau, ví dụ như cáo buộc nhóm thiểu số liên quan là tạo nên "đội quân thứ năm" của chủ nghĩa thực dân. Một số người gợi lên tính hai mặt thường gặp này với mục đích "bình thường hóa" chủ nghĩa sionisme, bằng cách trình bày nó như một trường hợp rốt cuộc cũng tương tự với nhiều trường hợp khác, điều có tác dụng giảm thiểu những sai trái của nó, hoặc thậm chí là bào chữa cho những sai trái, để cho Israel được đối xử như một quốc gia "bình thường". Tuy nhiên, lập luận này bỏ qua bản chất của tính hai mặt đặc trưng riêng của chủ nghĩa sionít.
Hẳn là không nghi ngờ gì nữa rằng chủ nghĩa sionít đã nảy sinh như là
phản ứng đối với sự áp bức kéo dài mà các nhóm thiểu số Do Thái đã phải chịu đựng
ở Châu Âu theo đạo Thiên chúa, từ thời Trung cổ cho đến thế kỷ 19. Ai cũng biết
rằng, dưới thời những thế lực dựa vào Cơ đốc giáo, người Do Thái đã phải chịu sự
đàn áp nghiêm trọng hơn nhiều so với sự phân biệt đối xử và đàn áp không liên tục
mà họ đã phải chịu đựng dưới thời những thế lực dựa vào Hồi giáo. Tuy nhiên, sự
đàn áp này dần chấm dứt ở Tây Âu trong thời kỳ hiện đại, sau Thời kỳ Khai sáng
và Cách mạng Pháp vào cuối thế kỷ 18, với sự lan truyền của khái niệm quyền
công dân dựa trên tính bình đẳng của các quyền. Nhờ sự chuyển đổi dân chủ, tình
trạng của người Do Thái giữa bờ biển Đại Tây Dương và biên giới phía đông của Đức
và Áo ngày nay dần chuyển sang sự hòa nhập của người Do Thái vào các xã hội dân
tộc và sự chấm dứt sự phân biệt đối xử. Tuy nhiên, với cuộc khủng hoảng lớn đầu
tiên tấn công nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
toàn cầu, cuộc Đại Suy Thoái vào phần tư cuối của thế kỷ 19 (1873-1896), các xu
hướng bài ngoại đã hồi sinh. Như trong bất kỳ cuộc khủng hoảng xã hội nào, các
nhóm cực hữu đều tìm kiếm những kẻ tế thần để lợi dụng sự bất bình của dân
chúng phục vụ cho kế hoạch phản động của chúng.
Vào thế kỷ 19, nạn nhân của các cuộc tàn sát liên tục, người Do Thái ở Đông Âu đã tìm cách di cư sang Tây Âu hoặc Bắc Mỹ.
Cùng lúc đó, Đông Âu, đặc biệt là ở phần lớn lãnh thổ nằm trong Đế chế
Nga, cũng đang trải qua sự bành trướng của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Sự chuyển đổi muộn màng này, mà tác động gây rối loạn còn mạnh mẽ và phức
tạp hơn vì nó xảy ra đồng thời với chủ nghĩa tư bản tiên tiến hơn và đang bị
suy yếu bởi sự suy thoái ở Phương Tây, đã gây ra một cuộc khủng hoảng xã hội
sâu sắc và một cuộc di cư khỏi nông thôn bị đẩy nhanh. Do đó, các xu hướng bài
ngoại đã hồi sinh ở Đông Âu, nơi chúng chủ yếu nhắm vào người Do Thái - đặc biệt
là ở các vùng thuộc Đế chế Nga tương ứng với Ukraine và Ba Lan ngày nay. Là nạn
nhân của các cuộc tàn sát liên tục, dân chúng Do Thái ở Đông Âu đã tìm cách di
cư sang Tây Âu hoặc Bắc Mỹ.
Bị coi vừa là người nước ngoài vừa là những người
theo một tôn giáo bị khinh miệt, người Do Thái đến Tây Âu đã trở thành mục tiêu
ưu tiên của những kẻ bài ngoại[1]. Do đó, trong bối cảnh của cuộc Đại
suy thoái, chủ nghĩa bài Do Thái giáo (antijudaisme) đã nổi lên lại một cách mạnh
mẽ dưới hình thức hiện đại: một lý thuyết về chủng tộc, dựa trên các khoa học
giả nhân học, khẳng định rằng người Do Thái - hay người Sémít nói chung, bao gồm
cả người Ả Rập (khái niệm Sémít dùng để chỉ một nhóm ngôn ngữ bao gồm tiếng Do
Thái và tiếng Ả Rập) - thuộc về một chủng tộc thấp kém và đê tiện. Thời kỳ này
chứng kiến sự xuất hiện của một "chủ nghĩa bài Do Thái"
(antisémitisme) nhắm vào người Do Thái ở Châu Âu và đi kèm với sự bành trướng của
chủ nghĩa dân tộc cuồng tín, đi cùng với sự ủng hộ chủ nghĩa thực dân. Thật vậy,
cuộc Đại Suy Thoái đã làm cho sự cạnh tranh trở thành gay gắt hơn giữa các mẫu
quốc các thuộc địa chia nhau thế giới dưới thời đại của chủ nghĩa đế quốc.
Zeev Raban. — Áp phích cho Tổ chức Phục quốc Do Thái Thế giới, Tel Aviv, 1947 |
Chính trong bối cảnh này, phong trào sionít hiện đại đã xuất hiện dưới
hình thái chủ nghĩa sionít quốc gia, nhằm mục đích thành lập một Nhà nước Do
Thái, không giống như các phong trào sionít trước đó hoặc đương thời mang tính
cách tinh thần hoặc văn hóa. Theodor Herzl, người sáng lập ra phong trào này,
là một người Do Thái gốc Áo đã đồng hóa, người đã đến với niềm tin sionít sau
khi đã theo dõi tại Paris, với tư cách là một nhà báo, phiên tòa xét xử viên sĩ
quan người Pháp gốc Do Thái, Alfred Dreyfus, một nạn nhân của làn sóng bài Do
Thái ở Pháp. Vụ án Dreyfus đã truyền cảm hứng cho bản tuyên ngôn nổi tiếng Der
Judenstaat ("Quốc gia của người Do Thái") của Herzl, xuất hiện
vào năm 1896 và hình thành cơ sở cho đại hội sionít đầu tiên, được triệu tập tại
thành phố Bâle của Thụy Sĩ vào năm 1897, một năm rưỡi sau đó.
Một sự khác biệt lớn về mặt định tính phân biệt hệ tư tưởng sionisme do
Herzl xác lập với các hệ tư tưởng dân tộc xuất hiện ở Châu Âu trong nửa đầu thế
kỷ 19 hoặc ở các quốc gia bị thuộc địa hóa vào thế kỷ sau. Trong khi hầu hết
các hệ tư tưởng này bắt nguồn từ tư tưởng giải phóng và dân chủ, hệ tư tưởng
sionít hiện đại lại gần với chủ nghĩa dân tộc cuồng tín và thực dân vốn rất phổ
biến vào thời điểm hệ tư tưởng này ra đời. Hẳn là không thể phủ nhận rằng chủ
nghĩa sionít quốc gia đã nảy sinh như là phản ứng đối với sự áp bức người Do
Thái: bản thân Herzl giải thích trong lời tựa tác phẩm của mình rằng "hoàn
cảnh nguy khốn của người Do Thái" là "động lực" của
phong trào mà ông muốn thành lập. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng chủ
nghĩa sionít mà ông lý thuyết hóa là một hệ tư tưởng về cơ bản dựa trên logic
phản động và thực dân.
Người Do Thái sùng
đạo và nghèo
Trên thực tế, ngoài nhận thức của những người Do Thái nghèo và bị đàn
áp tàn khốc ở Đông Âu, những người bám víu vào dự án này như thể nó là phao cứu
sinh, thì dự án sionít của Herzl thật ra là một kế hoạch được một người Do Thái
Áo được đồng hóa và thế tục quan niệm nhằm giải thoát những người Do Thái ở
Phương Tây khỏi những người đồng đạo sùng đạo và nghèo ở Đông Âu, những người
đã di cư sang Phương Tây và làm đảo lộn cuộc sống của mình. Theodor Herzl thừa
nhận điều này một cách thẳng thắn đáng ngạc nhiên trong phần giới thiệu cuốn
sách của ông: "Những người 'đồng
hóa' sẽ được hưởng lợi nhiều từ sự ra đi của những người Do Thái trung thành với
nguồn gốc của họ hơn cả chính những công dân theo đạo Thiên chúa. (…). Hiện tại,
nhiều công dân theo đạo Thiên chúa, những người được gọi là những người bài Do
Thái, có thể lên tiếng phản đối việc nhập cư của những người Do Thái ở nước
ngoài. Những công dân Do Thái không thể làm như vậy, mặc dù họ bị tác động
nghiêm trọng hơn, vì họ phải chịu sự cạnh tranh từ những cá nhân có điều kiện
kinh tế tương tự, nhưng lại góp phần du nhập chủ nghĩa bài Do Thái vào hoặc
phát triển chủ nghĩa bài Do Thái hiện hữu. Đây là nỗi đau thầm kín của những
người đồng hóa được chữa bằng các hoạt động "từ thiện". Họ lập ra các
hiệp hội di cư cho những người Do Thái nhập cư. Một số hiệp hội tương trợ này
không tồn tại cho những người Do Thái bị đàn áp mà là chống lại họ. Những người
nghèo nhất phải rời đi càng nhanh và càng xa càng tốt. Do đó, sau khi xem xét kỹ
lưỡng, chúng ta nhận ra rằng có nhiều người được cho là bạn của người Do Thái
thật ra là những người bài Do Thái gốc Do Thái, những người đã khoác lấy cái vỏ
bọc của một nhà từ thiện. Ngay cả những nỗ lực định cư, được khởi xướng bởi những
người có những ý định đẹp nhất, cho dù các ý định này có thể hay đến đâu, nhưng
cho đến nay vẫn chưa mang lai kết quả dứt khoát."
Vụ án Dreyfus ở Pháp đã truyền cảm hứng cho bản tuyên ngôn "Quốc gia của người Do Thái" của Theodor Herzl, tạo thành cơ sở cho Đại hội sionít đầu tiên vào năm 1897.
Ý tưởng mới của Theodor Herzl, nhằm bù đắp cho sự thất bại của các kế
hoạch định cư mang tính "từ thiện" (kế hoạch chính do gia đình
Rothschild tài trợ), là thay thế các hành động từ thiện bằng một dự án chính trị
được lồng vào bối cảnh của chủ nghĩa thực dân Châu Âu và nhằm mục đích thành lập
một Nhà nước Do Thái thuộc cùng bối cảnh này và củng cốt Nhà nước áy. Herzl hiểu
rằng, để đạt được mục tiêu của mình, ông sẽ tìm thấy những đồng minh tốt nhất
cho mình trong số những người theo đạo Thiên chúa bài Do Thái. Lập luận chính của
ông, trong phần thứ hai của cuốn sách, có tựa đề "Kế hoạch" là như
sau: "Việc thành lập một chủ quyền
mới không phải là điều nực cười hay bất khả thi. (...) Chính phủ các quốc gia
mà chủ nghĩa bài Do Thái đang hoành hành sẽ rất quan tâm đến việc ban chủ quyền
cho chúng ta."
Như vậy vấn đề còn lại chỉ là chọn lãnh thổ mà dự án sionít có thể hiện
thực hóa: "Có thể xem xét hai khu vực: Palestine và Argentine. Những nỗ lực định cư rất đáng chú ý đã được tổ
chức ở đó, nhưng luôn theo nguyên tắc sai lầm về sự xâm nhập dần dần của người
Do Thái. Sự xâm nhập luôn dẫn đến thất bại. Thật vậy, thường xuyên, dưới áp lực
của những người dân cảm thấy bị đe dọa, chính phủ buộc phải cấm người Do Thái
nhập cư. Nhập cư chỉ có ý nghĩa nếu nó được thiết lập trên một chủ quyền được đảm
bảo cho chúng ta."
Thích nghi với sự
tàn bạo của chủ nghĩa bài Do Thái
Gần cuối chương tác phẩm của ông, dành cho "Những lợi thế của việc di cư của người Do Thái", Herzl
khẳng định rằng các chính phủ sẽ phải tính đến kế hoạch của ông "cho dù là tự phát hay dưới áp lực từ
những người bài Do Thái của họ". Trong nhật ký của mình, ông đưa ra
nhiều quan sát về tính bổ sung giữa kế hoạch của ông là đưa những người Do Thái
nghèo khổ ra khỏi Châu Âu và mong muốn loại bỏ họ của những người bài Do Thái.
Ông thậm chí còn dự đoán ở phần đầu của cuốn nhật ký đầu tiên của mình (năm
1895) rằng người Do Thái sẽ thích nghi với sự tàn bạo của những người bài Do
Thái và noi gương họ trong quốc gia tương lai của mình. "Tuy nhiên, chủ nghĩa bài Do Thái, thế lực mạnh mẽ và vô thức
trong quần chúng, sẽ không gây hại cho người Do Thái. Theo quan điểm của tôi,
phong trào này phục vụ cho căn tính của người Do Thái. Nó tiêu biểu cho sự giáo dục của một nhóm bởi quần chúng và có
thể sẽ dẫn đến sự hòa lẫn của nhóm người đó. Giáo dục chỉ được được khắc sâu
vào trí não bằng những biện háp mạnh . Lúc đấy, một sự bắt chước theo thuyết
Darwin sẽ bắt đầu để rồi rốt cuộc người Do Thái sẽ thích nghi."
Saul Bass. — Áp phích cho bộ phim "Exodus" của Otto Preminger, Hoa Kỳ, 1960 |
Đúng theo kế hoạch do người cha tinh thần của họ
vạch ra, những người lãnh đạo phong trào sionít
đã nỗ lực để có được sự hỗ trợ của một trong những cường quốc Châu Âu lớn
cho dự án của họ, vốn đã nhanh chóng tập trung hoàn toàn vào Palestine. Họ đã tận
dụng sự chuyển giao lãnh thổ này từ đế chế Ottoman sang sự cai trị của Anh
trong Thế chiến thứ nhất, theo Hiệp định Sykes-Picot khét tiếng năm 1916, theo
đó Anh và Pháp sẽ chia nhau lãnh thổ của Đế chế Ottoman.
Kể từ đó, những người theo chủ nghĩa sionít tập
trung nỗ lực của họ vào London. Chaim Weizmann, đại diện chính của chủ nghĩa
sionisme tại Vương quốc Anh, đã dựa vào một người Do Thái Anh cực kỳ giàu có và
là cựu Nghị sĩ Quốc hội, Ngài Walter Rothschild. Họ đã thành công trong việc đạt
được lời hứa nổi tiếng của Bộ trưởng Ngoại giao Arthur Balfour vào ngày 2 tháng
11 năm 1917: "Chính phủ của Hoàng đế [Vua George V] ủng hộ việc
thành lập một quê hương quốc gia cho dân tộc Do Thái tại Palestine, và sẽ nỗ lực
hết sức tạo điều kiện thuận lợi để đạt được mục tiêu này (...)" Tất
nhiên, tuyên bố này, với những hậu quả bi thảm nổi tiếng của nó, đã hoàn toàn
được đưa vào các tính toán của chủ nghĩa đế quốc Anh vào thời điểm đó, trong bối
cảnh cạnh tranh giữa Vương quốc Anh và hai đồng minh cùng chia sẻ vị thế chiến
thắng trong Thế chiến thứ nhất là Pháp và Hoa Kỳ.
Bối cảnh lịch sử của Tuyên bố Balfour hoàn toàn
phù hợp với tầm nhìn của "nhà tiên tri" của chủ nghĩa sionít, Theodor
Herzl. Arthur Balfour đúng là một trong những người theo đạo Thiên chúa bài Do
Thái mà Herzl biết sẽ trở thành đồng minh tốt nhất của chủ nghĩa sionít. Thật vậy,
Bộ trưởng Ngoại giao Anh đã chịu ảnh hưởng của phong trào được gọi là "chủ
nghĩa sionít theo đạo Thiên chúa". Đây là những người theo đạo Thiên chúa ủng
hộ "sự trở về" Palestine của người Do Thái với hy vọng không được nói
ra - hoặc đôi khi thậm chí là mục tiêu được nêu ra - là loại bỏ người Do Thái
khỏi những quốc gia có đa số dân theo đạo Thiên chúa. Đối với những người
sionít theo đạo Thiên chúa, "sự trở về" của người Do Thái về Đất
Thánh là điều kiện để Chúa Kitô giáng lâm lần nữa. Sau đó sẽ là Ngày phán xét
cuối cùng, kết án tất cả những người Do Thái chưa cải sang đạo Thiên chúa phải
chịu đau khổ vĩnh viễn trong địa ngục. Tại Hoa Kỳ, phong trào này ngày nay là
người ủng hộ nhiệt thành nhất của chủ nghĩa sionít nói chung và của phe cánh hữu
sionít nói riêng
Khi còn là Thủ tướng (1902-1905), tác giả của bản
tuyên bố khét tiếng, Arthur Balfour, đã ban hành Aliens Act/Người nước ngoài, một
đạo luật năm 1905 nhằm ngăn chặn làn sóng người tị nạn Do Thái nhập cư vào
Vương quốc Anh từ Đế chế Nga. Về vấn đề này, chúng ta hãy nhắc lại một sự kiện
lịch sử ít được nêu lên: Edwin Samuel Montagu là bộ trưởng Anh duy nhất phản đối
Tuyên bố Balfour và toàn bộ dự án của chủ nghĩa sioít. Ông lại là thành viên Do
Thái duy nhất trong nội các của David Lloyd George, trong đó có Balfour, và là
bộ trưởng Do Thái thứ ba trong lịch sử Vương quốc Anh. Montagu cảnh báo rằng dự
án của chủ nghĩa sionít sẽ dẫn đến việc trục xuất cư dân bản địa ở Palestine và
mặt khác sẽ củng cố các phong trào muốn loại bỏ người Do Thái ở tất cả các quốc
gia khác.
Thành viên Do Thái duy nhất của chính phủ Anh, Edwin Montagu chỉ trích kế hoạch xây dựng “quê hương quốc gia Do Thái” tại Palestine
Vào tháng 8 năm 1917, sau khi đọc
văn bản của Tuyên bố Balfour, ông đã đệ trình một bản ghi nhớ lên nội các Anh,
trong đó ông thẳng thắn khẳng định :“Tôi
muốn ý kiến của mình được ghi nhận rằng chính sách của Chính phủ Hoàng gia là
bài Do Thái và do đó sẽ có lợi cho những kẻ bài Do Thái ở khắp mọi nơi.”[2]
Edwin
Montagu cho là “không thể tưởng tượng được
rằng Chính phủ Anh lại chính thức công nhận chủ nghĩa sionít và cho phép ngài
Balfour nói rằng Palestine nên trở thành « quê hương quốc gia cho người Do
Thái. » Tôi không biết điều đó ngụ ý gì, nhưng tôi cho rằng điều đó có
nghĩa là người Hồi giáo và Cơ đốc giáo nên nhường chỗ cho người Do Thái và rằng
người Do Thái nên được ưu ái và kết hợp đặc biệt với Palestine như nước Anh với
người Anh hoặc nước Pháp với người Pháp; rằng người Thổ Nhĩ Kỳ và những người Hồi
giáo khác ở Palestine sẽ bị coi là người nước ngoài, cũng giống như người Do
Thái từ nay sẽ bị coi là người nước ngoài ở mọi nơi ngoại trừ ở
Palestine." Sau đó, ông đã thêm vào lời suy ngẫm mang tính tiên tri
này: "Có lẽ quyền công dân cũng sẽ
chỉ được cấp sau khi trải qua một cuộc kiểm tra tôn giáo."
Như Theodor Herzl đã dự kiến, dự án sionít đã
được thực hiện với sự bảo trợ của một cường quốc Châu Âu trong khuôn khổ của những
mưu đồ thực dân-đế quốc của nó. Dự án này đã không thể có được theo cách khác,
bởi vì "dân tộc Do Thái" mà Herzl muốn thấy được trao quyền của một
quốc gia riêng biệt là một dân tộc "tưởng tượng", thiếu một thể chế
chính trị cấu thành nên dân tộc đó và không có sức mạnh cần thiết để tham gia
vào cuộc chạy đua thuộc địa vào cuối thế kỷ 19.
Khi thành lập phong trào sionít, Herzl mong muốn
tạo ra thể chế chính trị còn thiếu này và định hướng nó theo hướng hợp tác với
một cường quốc. Do đó, ngay từ đầu, dự án sionít đã phụ thuộc về mặt cấu trúc
vào sự bảo vệ của một cường quốc, như Herzl đã hình dung. Sự phụ thuộc này là đặc
trưng của lịch sử của phong trào sionít và vẫn tồn tại cho đến ngày nay thông
qua Nhà nước Israel. Nó sẽ tiếp tục khi nào mà Nhà nước này vẫn dựa trên sự áp
bức thực dân, do đó duy trì sự đối kháng với dân tộc Palestine và các dân tộc
lân cận, mà hậu quả là Israel cần sự bảo vệ của một cường quốc lớn ở bên ngoài.
Hoa Kỳ đã cung cấp sự bảo vệ này kể từ những năm 1960.
Liên
minh với những người sionít Cơ đốc
Tóm lại, chủ nghĩa sionít không phải là một
phong trào giải phóng dân tộc "giống như bất kỳ phong trào nào khác",
thể hiện tính hai mặt giống như nhiều phong trào như vậy tham gia vào cuộc đấu
tranh chống lại sự áp bức của thực dân trong khi áp bức các cộng đồng khác, cộng
đồng quốc gia hoặc cộng đồng nào khác. Điều này được những người ủng hộ Israel
công nhận, những người không quá cuồng tín đến mức phủ nhận sự áp bức do Nhà nước
sionít gây ra. Nhưng sự thật là phong trào sionít được xây dựng bằng cách khai
thác sự áp bức mà người Do Thái đã phải chịu đựng và trông cậy vào sự ủng hộ của
những kẻ bài Do Thái để tạo ra một Nhà nước thực dân được sáp nhập về mặt cấu
trúc vào hệ thống đế quốc, chứ không phải là một Nhà nước hậu thuộc địa như nó
khẳng định.
Ngày nay, một trăm năm sau Tuyên bố Balfour, gần
bảy mươi năm sau khi Nhà nước Israel được thành lập trên hơn 78% lãnh thổ của
Lãnh thổ ủy trị Anh tại Palestine, và nửa thế kỷ sau khi cũng Nhà nước đó chiếm
đóng 22% phần lãnh thổ còn lại, Thủ tướng sionít Benjamin Netanyahu vẫn dựa vào
những người bài Do Thái ở các nước phương Tây để bào chứng cho thái độ thực dân
và kiêu ngạo của Nhà nước và chính phủ của ông. Giữa liên minh đặc quyền của
ông với những người sionít theo đạo Thiên chúa tại Hoa Kỳ, sự tự mãn của ông đối
với Viktor Orbán, Thủ tướng bài Do Thái ở Hungary, và sự im lặng của ông trước
việc Donald Trump bảo vệ phe cực hữu bài Do Thái và bài Hồi giáo ở Mỹ, ông
Netanyahu đang áp dụng các công thức của Theodor Herzl, nhưng với sự đê hèn về
mặt đạo đức thậm chí còn lớn hơn, bởi vì cuộc diệt chủng của Đức Quốc xã trong
thời gian đó đã cho thấy những nỗi kinh hoàng mà chủ nghĩa bài Do Thái và các
loại phân biệt chủng tộc khác có thể dẫn đến.
Gilbert Achcar
[**] Về tác giả
Giáo sư tại Trường Nghiên cứu Phương Đông và Châu Phi (SOAS), Đại học London. Tác giả của cuốn sách Les Arabes et la Shoah. La guerre israélo-arabe des récits Người Ả Rập và cuộc diệt chủng Holocaust , Sinbad - Actes Sud, Arles, 2009
Ghi chú
[*] Cụm từ anti
sémitisme tuy được hiểu là chủ nghĩa bài Do Thái trên trường quốc tế và ở Việt
Nam là không chính xác vì sémite là một thuật ngữ được các nhà sử học và các
nhà ngữ văn học cuối thế kỷ 18 xây dựng dựa trên truyền thuyết Kinh Thánh về
nguồn gốc của con người để chỉ một nhóm chủng tộc và ngôn ngữ sống ở vùng Tây Á
bao gồm nhiều chủng tộc trong đó có người Do Thái, người Ả Rập, người Syrie ,
vvv... Dần trong bối cảnh của một quan điểm về con người dựa trên chủng tộc
thịnh hành trong suốt thế kỷ 19 và trong sự kỳ thị chủng tộc phát triển mạnh ở
Châu Âu , từ sémite bị hạn chế để chỉ những người Do Thái ở Châu Âu bị xem như
là những kẻ thù nội bộ. Từ Anti Sémitisme bắt đầu từ đó được dùng để chỉ chủ
nghĩa bài Do Thái và được sử dụng theo nghĩa đó khắp mọi nơi kể cả trên trường
quốc tế. Để có thêm chi tiết xin tham khảo bài « Sémites, antisémites : de quoi parle-t-on ? »
của Laura Calabrese trên tạp chí The Conversation » - (ND)
[1] Abraham Léon là người đầu tiên đã xây dựng sự phân tích duy vật này về sự trỗi dậy của chủ nghĩa bài Do Thái trong La Conception matérialiste de la question juive, coll. "Rupture", Geneve, 2018 (ấn bản lần thứ nhất: 1946, Éditions "Pionniers", Paris). Ông là người Bỉ mác xít, là người Do Thái chống chủ nghĩa sionít, đã chết tại Auschwitz vào năm 1944.
[2] « Memorandum
of Edwin Montagu on the anti-semitism of the present (British) government », www.balfourproject.org
[*] Professeur à l’Ecole des études orientales et africaines (SOAS) de l’université de Londres. Auteur de Les Arabes et la Shoah. La guerre israélo-arabe des récits, Sindbad - Actes Sud, Arles, 2009 ; L’Orient incandescent, Page deux, Lausanne, 2003 ; Le Choc des barbaries, 10/18, Paris, réédition 2004.
Người dịch:
Phạm Như Hồ
Nguồn: « La dualité du projet sioniste », Manière de vỏir n0157, fevrer-mars 1978.
