CAPITAL [VỐN]
Khái niệm vốn, cùng với những khái niệm tập tính và trường, là trung tâm của xã hội học của Pierre Bourdieu, có nguồn gốc từ những nghiên cứu ban đầu được thực hiện trong lĩnh vực văn hóa, một lĩnh vực đã làm người thanh niên Bourdieu quan tâm và thậm chí bị quyến rũ từ những năm 1960. Việc xuất bản cuốn La Distinction vào năm 1979 đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong việc xây dựng hệ thống khái niệm của Bourdieu. Thật ra, tác phẩm cũng có thể được đặt tên là vốn … văn hóa khi xét đến tầm quan trọng của các tài liệu tham khảo, trong bảng chỉ mục ở cuối cuốn sách, liên quan với mục “vốn”.
Một lý thuyết về vốn
Dựa trên những phân tích từ nhiều cuộc khảo sát được thực hiện trong hai thập kỷ, cuốn sách này xây dựng theo từng chương một lý thuyết về vốn không tập trung vào vốn kinh tế như Karl Marx mà vào điều mà Bourdieu gọi là vốn văn hóa. Từ lý thuyết này, Bourdieu đã đề xuất một lý thuyết mới về giai cấp trong khi một diễn ngôn bán học thuật đang lan rộng, ngay cả trong các ngành khoa học xã hội, dự đoán sự kết thúc của các giai cấp xã hội và của cuộc đấu tranh giai cấp. Bourdieu cho thấy rằng “các giai cấp xã hội” không biến mất mà có một chiều kích văn hóa ngày càng có tính quyết định. “Đấu tranh giai cấp” thì đang biến đổi: những cuộc chạm trán tàn bạo và chết người, đặc trưng của các cuộc đấu tranh xã hội trong các xã hội công nghiệp mới chớm nở đang dần được thay thế bằng những cuộc đối đầu mang tính biểu tượng. Cuộc đấu tranh hiện nay mang hình thức hòa dịu của sự chống đối các sự xếp hạng xã hội mà nguyên tắc nằm ở tầm quan trọng ngày càng tăng của vốn văn hóa, vốn được tạo ra một cách cơ học bởi sự phát triển của quá trình giáo dục quan sát được trong các xã hội hiện đại. Nói cách khác, bằng cách dựa vào công trình nghiên cứu trước đây của mình về hệ thống học đường, Bourdieu đưa Nhà Trường trở lại trung tâm của sự phân tích các giai cấp xã hội, điều mà, vào thời điểm đó, có thể bị coi là nghịch lý hoặc thậm chí gây tai tiếng nếu xét đến sức mạnh của hệ tư tưởng, lúc đó đang chiếm ưu thế, về “Nhà Trường khai phóng”, “dựa trên tài năng và sự bình đẳng”.
![]() |
![]() |
Lý thuyết về vốn được xây dựng trong La Distinction là kết quả của các nghiên cứu được thực hiện ngay từ đầu những năm 1960 về vai trò của điều mà lúc đó ông gọi là “nhân tố văn hóa” trong việc sàng lọc trong trường học và “các thực tiễn văn hóa” (sự sử dụng xã hội của nhiếp ảnh, sự tham quan các viện bảo tàng), hai lĩnh vực này có điểm chung là chúng bị chi phối bởi các hệ tư tưởng xem mọi thứ là do thiên bẩm, có ảnh hưởng sâu rộng, cụ thể là hệ tư tưởng về năng khiếu và hệ tư tưởng về tính ưu tú bẩm sinh. Để hiểu rõ hơn cách xây dựng từng bước của khái niệm vốn, không có phương pháp nào tốt hơn là đi theo sự hình thành của khái niệm này ở Bourdieu và sự thiết lập dần mối liên hệ của nó với các khái niệm khác.
Phân tích đầu tiên về vốn văn hóa – ý niệm này vẫn chưa được xác định rõ ràng và chưa có tính phức tạp mà sau này nó sẽ đạt được – được tìm thấy, từ năm 1964, trong tác phẩm có tựa đề Les Héritiers mà Bourdieu là đồng tác giả với Jean-Claude Passeron. Hai tác giả đề xuất giải thích việc sàng lọc trong trường học bằng cách nêu bật vai trò của điều mà họ gọi là “di sản văn hóa”. Giống như mọi cách giải thích mang tính ý thức hệ, hệ tư tưởng về sự thăng tiến thông qua Nhà Trường và hệ tư tưởng về năng khiếu đề xuất một sự giải thích bề ngoài, hoàn toàn mang tính hằng đề về sự thành công trong học tập: chúng ta thành công vì chúng ta có năng khiếu để thành công, điều này dẫn đến quyết định luận sinh học và do đó bác bỏ ngay từ đầu mọi sự giải thích xã hội học. Dựa trên các cuộc khảo sát, Bourdieu và Passeron cho thấy rằng nhân tố giải thích chính nằm ở sự bất bình đẳng về văn hóa và khả năng làm chủ ngôn ngữ học đường không đồng đều. Họ viết: “Tất cả việc giảng dạy,” và đặc biệt hơn là việc giảng dạy về văn hóa (thậm chí cả về văn hóa khoa học), đều ngầm giả định một khối kiến thức, của sự thành thạo hay bí quyết (savoir-faire) và nhất là khả năng diễn đạt (savoir-dire) vốn là cơ đồ của các giai cấp có văn hóa” [H: 36 ]. Trong những phân tích này, khái niệm “vốn văn hóa” chưa được đặt ra, hoặc chỉ ở bên lề, dù thuật ngữ này cũng không gì khác với thuật ngữ “di sản văn hóa”. Các khái niệm sau đó được huy động trong phân tích là “đặc quyền văn hóa”, “các tầng lớp bị thiệt thòi về mặt văn hóa”, “văn hóa uyên bác”, “văn hóa học đường”, “lưu truyền di sản văn hóa” hay thậm chí là “sự bất bình đẳng về mặt văn hóa”, như những cách diễn đạt cố gắng nắm bắt hiện tượng chứ chưa thật sự xây dựng được nó. Nếu giữa các nền văn hóa (theo nghĩa nhân chủng học) có những khác biệt thực chất, thì không nên lẫn lộn những khác biệt này với sự tồn tại, giữa các nền văn hóa này, của một hệ thống phân cấp mang tính xã hội, thay đổi tùy theo xã hội. Chính thực tế xã hội này được Bourdieu bao hàm trong khái niệm vốn văn hóa vốn, không giống như khái niệm di sản văn hóa được sử dụng trước đây, nhắc lại rằng văn hóa không chỉ là cơ đồ được lưu truyền; nó cũng là một tài sản có giá trị xã hội để phân biệt.
Những nghiên cứu về các thực tiễn văn hóa được thực hiện song song với các cuộc khảo sát về hệ thống giáo dục cung cấp một số yếu tố quyết định cho việc xây dựng khái niệm vốn sau này. Cuộc điều tra về cách sử dụng xã hội của nhiếp ảnh [Un art moyen], xuất bản năm 1965, trên thực tế, tập trung vào một thực tiễn văn hóa thú vị về mặt lý thuyết vì nó chiếm vị trí trung gian trong trường của các thực tiễn văn hóa: không hoàn toàn chính đáng về mặt văn hóa cũng như không hoàn toàn là không chính đáng, nó nằm ở một vị trí ở giữa cho phép chúng ta nắm bắt được chính quá trình chính đáng hóa văn hóa như nó diễn ra trong thực tế. Cuộc nghiên cứu này phân tích, trong sự đa dạng của phân tích, thực tiễn của nhiếp ảnh, từ những ứng dụng xã hội mang tính chức năng nhất và ít tính văn hóa nhất theo nghĩa hẹp (những bức ảnh về gia đình và về những ngày nghĩ ca tụng nhóm hoặc chứng thực một vị trí xã hội) cho đến những kỹ năng thẩm mỹ điêu luyện có thể quan sát được trong các câu lạc bộ nhiếp ảnh nghệ thuật, đã giúp đưa một ý niệm thiết yếu vào sự nghiệp tương lai của Bourdieu, cụ thể là ý niệm tính chính đáng (theo nghĩa mà Max Weber đã đưa ra [Weber 2003; 2014]), một ý niệm cho phép chúng ta thoát khỏi những phán xét vô thức về giá trị mà nhà xã hội học luôn có nguy cơ đưa vào các phân tích của mình đồng thời cho thấy rằng, trong các xã hội có thứ bậc xã hội và bất bình đẳng, không phải mọi nền văn hóa đều có cùng giá trị về mặt xã hội. Bourdieu viết: “Trong một xã hội nhất định, tại một thời điểm nhất định, tất cả các ý nghĩa văn hóa […] đều không tương đương nhau về phẩm giá và giá trị. […] Các hệ thống biểu đạt khác nhau, từ sân khấu đến truyền hình, tự tổ chức một cách khách quan theo một thứ bậc độc lập với những ý chí cá nhân, thứ bậc này xác định tính chính đáng văn hóa và các cấp độ của tính chính đáng này” [AM: 134-135]. Cuộc khảo sát về việc tham quan bảo tàng [L’Amour de l’art], xuất bản năm 1966, tập trung cụ thể hơn vào nền văn hóa “có am hiểu”, tức là về một nền văn hóa rất “chính đáng” về mặt xã hội. Bourdieu đã thiết lập bằng thực nghiệm, chống lại những cảm nhận thông thường về văn hóa, hai sự kiện chính. Sự kiện đầu tiên, một lần nữa, là nhận định rằng sự tham quan không đồng đều các bảo tàng có tương quan với sự phân bổ vốn văn hóa không đồng đều (được đo bằng trình độ của bằng cấp). Chống lại hệ tư tưởng về việc tiếp cận tức thì các tác phẩm văn hóa do đơn giản vì cái đẹp tự phô diễn một cách tự phát dưới mắt mọi người, Bourdieu nhân rộng các bằng chứng thực nghiệm và các khảo sát thực địa để xác lập một cách không thể chối cãi (do đó tính chất khách quan luận của cuộc điều tra này) điều mà lẽ thường của người có văn hóa không muốn hoặc không thể thừa nhận, cụ thể là sự tồn tại của những điều kiện xã hội phù hợp với sự khả thi của thực tiễn văn hóa.
Sự khác biệt chính về mặt khái niệm giữa những phân tích đầu tiên của Bourdieu bằng thuật ngữ “văn hóa” hay “di sản văn hóa” và những phân tích mà ông dần dần phát triển bằng thuật ngữ “vốn văn hóa” nằm chính xác ở việc thiết lập sự liên kết giữa di sản văn hóa mà các cá nhân sở đắc với một trạng thái nhất định của kết cấu xã hội. Nói cách khác, khái niệm văn hóa phần nào vẫn là một khái niệm tĩnh và thậm chí theo chủ nghĩa thực thể theo nghĩa nó được sử dụng trong việc mô tả, nhận định thống kê, trong khi khái niệm “vốn văn hóa” là một khái niệm ngay từ đầu mang tính liên hệ gắn với các cách sử dụng xã hội của văn hóa, nghĩa là giá trị xã hội của văn hóa, thay đổi tùy theo xã hội và thời gian. Khái niệm vốn nhắc nhở chúng ta rằng tự bản thân các đặc điểm văn hóa không có một ý nghĩa nào song chỉ mang ý nghĩa mà cuộc đấu tranh xã hội mang lại cho chúng tại một thời điểm nhất định trong khuôn khổ một kinh tế học tổng quát về các thực tiễn. Nói cách khác, tài sản xã hội (có nguồn gốc xã hội nhất định, có bằng cấp nhất định, v.v.) và tài sản tự nhiên (có nguồn gốc dân tộc cụ thể, nam hay nữ, cao hay thấp, v.v.) đều có thể hoạt động như “vốn” khi xã hội thừa nhận cho chúng một giá trị nào đó mà sự phân tích xã hội học, luôn cần được thực hiện và được làm lại, phải thiết lập cho từng cấu hình xã hội và cho từng thời đại.
Giai cấp xã hội và các loại vốn
Khái niệm về vốn được xác định như vậy, ta có thể, ngoài những khả thể khác, suy nghĩ lại vấn đề các giai cấp xã hội. Ba loại vốn, trong các xã hội chúng ta, có thể được tích lũy và tái sản sinh về mặt xã hội và tạo nền tảng cho sự tồn tại của một hệ thống thứ bậc xã hội: vốn kinh tế, vốn văn hóa và vốn xã hội. Liên quan đến việc xác định các giai cấp đồng nhất trong mối quan hệ với các điều kiện sản sinh ra tập tính, Bourdieu xây dựng một không gian ba chiều, cụ thể là khối lượng vốn tổng thể, cơ cấu vốn và sự phát triển theo thời gian của hai đặc tính này. Trong xã hội của chúng ta, địa vị xã hội của các cá nhân trước tiên được phân bổ theo tổng số vốn mà họ sở hữu, không phân biệt là loại vốn nào. Do đó, ban đầu, chúng ta có thể phân biệt đại khái giữa các giai cấp có khối lượng lớn về vốn (giai cấp thống trị), các giai cấp có khối lượng thấp về vốn (giai cấp bị thống trị) và giữa hai giai cấp này, một giai cấp trung gian bao gồm một tỷ lệ cao các cá nhân trong quá trình thăng tiến hoặc giáng cấp xã hội đang tham gia vào quá trình tích lũy vốn ban đầu, hoặc ngược lại, đang trong quá trình kềm hãm sự suy sụp về mặt xã hội. Nếu chúng ta xem xét cơ cấu vốn, tức là tỷ trọng tương ứng của vốn kinh tế và vốn văn hóa, thì phân tích cho thấy rằng cần phải phân biệt, đối với mỗi giai cấp, “các thành phần giai cấp”, các thành phần tương đối giàu hơn về vốn văn hóa đối lập với các thành phần giàu hơn về vốn kinh tế.
Sự ổn định của khái niệm thật sự được nhận thức và thấy rõ trong tác phẩm La Distinction tạo nên khả năng về sự biến đổi hình thái sau này của khái niệm khi có tính đến quá trình phân biệt xã hội và tự trị tương đối cho một số lĩnh vực nhất định của thế giới xã hội. Khái niệm vốn ban đầu được sử dụng để xác định các loại tập tính đồng nhất cũng sẽ giúp chỉ định văn hóa riêng biệt của từng trường, tức là, để sử dụng phép ẩn dụ của Bourdieu, các ưu thế cần thiết để chơi trong một trò chơi xã hội nhất định: có bao nhiêu trò chơi xã hội (tức là trường) thì có bấy nhiêu ưu thế (tức là các loại vốn). Được xây dựng từ các hiện tượng văn hóa, khái niệm vốn do đó được khái quát hóa cho tất cả những gì có thể có giá trị xã hội. Cộng vào ba loại vốn chính – vốn văn hóa (mà đặc tính là phần lớn được hợp nhất), vốn kinh tế và vốn liên kết (hoặc xã hội) – Bourdieu bổ sung thêm điều mà ông gọi là vốn biểu tượng, loại vốn phi vật chất phát sinh từ mối liên kết giữa bất kỳ loại vốn nào và các tác nhân được xã hội hóa theo cách để biết và nhận ra sự liên kết này. Vốn biểu tượng nằm trong hạng mục của kiến thức và sự công nhận, hoặc, trong các cấu trúc tinh thần (nghĩa là tập tính). Tập tính là sự tán thành, sự công nhận, tính chính đáng, cho phép thể chế có nó thừa nhận, phê chuẩn, xác nhận, hợp pháp hóa, hợp thức hóa các tình huống và hành vi, chuyển mọi thứ từ thế giới xã hội trong trạng thái ngẫu nhiên và không chính thức sang trạng thái chính thức, được biết đến, được công nhận và công khai hóa. Bourdieu mô tả quá trình chậm rãi trong đó chúng ta chuyển từ các xã hội, chẳng hạn như xã hội Kabyle với các được mất về danh dự [Esquisse d’une théorie de la pratique: 19-60], dựa trên vốn biểu tượng mong manh và lan tỏa có cơ sở trên sự công nhận lẫn nhau của tập thể, sang xã hội hiện đại, các xã hội có vốn biểu tượng được khách quan hóa, quy định, ủy quyền, bảo đảm bởi Nhà nước vốn phê chuẩn các thứ bậc và chính thức hóa chúng, ban hành các tước hiệu và trừng phạt những hành vi chiếm đoạt; Nhà nước, theo cách diễn đạt thật hay của Bourdieu, là một loại “ngân hàng trung ương của vốn biểu tượng”, nơi mà tất cả các loại tiền tín dụng lưu hành trong thế giới xã hội đều được tạo ra và đảm bảo [Sur l’État].
Patrick Champagne
chercheur à l’INRA (CESSP)
☛ ACCUMULATION, ADHÉSION, AMOUR DE L’ART (L’), AUTONOMIE, CAPITAL CULTUREL, CAPITAL ÉCONOMIQUE, CAPITAL SOCIAL, CAPITAL SYMBOLIQUE, CHAMP, CLASSE(S), CLASSE(S) SOCIALE(S), CULTURE, DIFFÉRENCIATION, DISTINCTION (LA), DON NATUREL, ENQUÊTE(S), ENSEIGNEMENT, ESPACE SOCIAL, ÉTAT, HABITUS, HÉRITAGE, HÉRITIERS (LES), HIÉRARCHIE, IDÉOLOGIE, JEU(X), LÉGITIMATION, LUTTE(S), MUSÉE(S), OPINION(S), PASSERON, PHOTOGRAPHIE, POSITION(S), PRATIQUE, RECONNAISSANCE, UN ART MOYEN, WEBER
Thư mục:
1964 [H] Les Héritiers. Les étudiants et la culture (avec J.-C. Passeron), Paris, Minuit.
1965 [AM] Un art moyen. Essai sur les usages sociaux de la photographie (avec L. Boltanski, R. Castel et J.-C. Chamboredon), Paris, Minuit.
1972 [ETP] Esquisse d’une théorie de la pratique. Précédée de trois études d’ethnologie kabyle, Genève, Droz, rééd. Paris, Seuil, “Points”, 2000.
2012 [SÉ] Sur l’État. Cours au Collège de France, 1989-1992, Paris, Raisons d’agir/Seuil.
* * * * *
CAPITAL CULTUREL [VỐN VĂN HÓA]
Nếu vốn kinh tế là nguyên tắc thống trị chủ đạo trong các xã hội tư bản thì Pierre Bourdieu cho thấy rằng vốn văn hóa, đặc biệt dưới dạng vốn giáo dục, là nguyên tắc cơ bản khác của quyền lực trong các xã hội hiện đại.
Ông giới thiệu khái niệm “vốn văn hóa” vào giữa những năm 1960 khi bắt đầu phân tích những bất bình đẳng về giáo dục được phát triển trong Les Héritiers [Heilbron 2011]. Trong bối cảnh của cuộc đối thoại với các nhà kinh tế, trong một hội nghị liên ngành mà ông tổ chức với Alain Darbel ở Arras vào năm 1965, ông đã đề xuất khái niệm này nhằm khái niệm hóa một cách chặt chẽ hơn những gì ông đã mô tả trước đây dưới dạng “đặc quyền” và “di sản văn hóa” hay “sự bất bình đẳng về mặt văn hóa”. Ông tóm tắt ý tưởng như sau: “Mỗi gia đình truyền lại cho con cái mình, thông qua các kênh gián tiếp hơn là trực tiếp, một vốn văn hóa và một nền nếp đạo đức nhất định, một hệ thống các giá trị tiềm ẩn và được nội tâm hóa sâu sắc, giúp xác định, cùng với những thứ khác, thái độ đối với vốn văn hóa và đối với Nhà trường. Di sản văn hóa khác nhau, ở cả hai khía cạnh, tùy theo tầng lớp xã hội, là nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng ban đầu của trẻ em trong sự thử thách ở trường học và do đó của tỷ lệ thành công không đồng đều” [PB 1966c: 388; 1966g: 325-326].
Việc sử dụng ý niệm kinh tế về “vốn” phá vỡ tầm nhìn đầy mê hoặc về giáo dục và văn hóa như một vũ trụ được cai trị bởi lòng vị tha và tài năng. Đồng thời, việc sử dụng này giúp phân biệt và điều chỉnh phân tích kinh tế. Nhiều nghiên cứu cho thấy sự bất bình đẳng trong Nhà Trường và văn hóa chủ yếu không liên quan đến sự khác biệt về thu nhập hoặc di sản kinh tế mà là do sự phân bổ không đồng đều các ưu thế văn hóa [H; Un art moyen; L’Amour de l’art]. Một sự đoạn tuyệt khác với phân tích kinh tế thông thường: việc lưu truyền và quản lý vốn văn hóa, không tuân theo logic tính toán duy lý, diễn ra trên cơ sở một “nền nếp” đặc thù phát sinh từ sự xã hội hóa khác biệt của các tác nhân. Do đó, khái niệm “vốn văn hóa” được phân biệt với khái niệm có vẻ tương tự về “vốn con người” do các nhà kinh tế học như Gary Becker đề xuất [Sociologie générale 2: 247-254]. Việc chuyển một ý niệm kinh tế sang phân tích xã hội học cũng minh họa tham vọng ngầm của Bourdieu nhằm vượt qua sự phân chia giả tạo thành các ngành học thuật và các chuyên ngành nghiên cứu.
Dựa trên các nghiên cứu về giáo dục và về các thực tiễn văn hóa, Bourdieu xây dựng và tinh tế hóa ý niệm này; đồng thời, ông mở rộng cách tiếp cận của mình sang các loại vốn khác, vốn biểu tượng và vốn xã hội [PB 1986h]. Lấy lại và hệ thống hóa tất cả các nghiên cứu này trong La Distinction (1979), ông đề xuất mô hình không gian xã hội ba chiều của mình. Trong các xã hội đã được phân biệt hóa, các quan hệ xã hội trước hết dựa trên khối lượng tổng thể của vốn mà các tác nhân xã hội sở hữu. Do đó, các giai cấp xã hội được đã được phân biệt hóa như vậy, tiếp đó tự phân biệt nhau tùy theo cơ cấu vốn, nghĩa là tùy theo các tầng lớp giàu vốn kinh tế hơn vốn văn hóa, và ngược lại. Sự tiến hóa theo thời gian của hai đặc tính này, được quan sát thông qua quỹ đạo của các tác nhân, tạo thành chiều thứ ba.
Giá trị của vốn văn hóa không cố định. Giá trị này phụ thuộc vào các điều kiện xã hội của việc sử dụng vốn, nghĩa là trước hết phụ thuộc vào tương quan lực lượng trong trường quyền lực giữa các thành phần kinh tế của giai cấp thống trị và các thành phần ít giàu có hơn về mặt kinh tế nhưng có nhiều nguồn lực văn hóa hơn. Giá trị xã hội của vốn văn hóa sau đó dao động tùy theo các trường trong đó vốn có những hình thái đặc thù. Ví dụ, trong trong trường kinh tế, vốn văn hóa có dạng vốn công nghệ, pháp lý và tổ chức [PB 1997c; Les Structures sociales de l’économie], trong khi trong trường học thuật, cần phải phân biệt ít nhất vốn khoa học với vốn văn học, và tính đến sự phát triển lịch sử về tỷ lệ chuyển đổi của các vốn này [SG 1: 524-525].
So với vốn kinh tế, vốn văn hóa có những đặc tính riêng. Bourdieu phân biệt ba hình thái mà vốn văn hóa có thể có [PB 1979b]. Vốn này tồn tại đầu tiên ở trạng thái được sáp nhập, nghĩa là được nội tâm hóa dưới hình thức các thiên hướng bền vững (tập tính). Thật vậy, không giống vốn kinh tế, vốn văn hóa được gắn liền với cơ thể của người sở hữu nó, và do đó không thể chuyển nhượng ngay lập tức và việc tích lũy nó đòi hỏi sự đầu tư cá nhân. Bởi vì nó được cảm nhận là gắn liền với con người, nên nó mang lại cho di sản cái vẻ bề ngoài của tính bẩm sinh (cái tư chất, cái khiếu) và những đức tính của người đã sở đắc được nó (tài năng). Các tài sản văn hóa (tranh, nhạc cụ, sách, v.v.) tiêu biểu cho vốn văn hóa ở trạng thái khách quan. Nếu chúng có thể được lưu truyền ngay lập tức thì việc chiếm hữu và sử dụng chính đáng chúng phải tuân theo cùng các quy luật lưu truyền của vốn văn hóa ở trạng thái được sáp nhập. Cuối cùng, vốn văn hóa tồn tại ở dạng thể chế hóa, dưới dạng các chức danh, đặc biệt là các chức danh về học vấn. Dạng của vốn văn hóa được chứng thực dẫn đến những tra vấn về hệ thống giáo dục và vị trí của hệ thống này trong không gian xã hội.
Trong một số nghiên cứu của mình, Bourdieu nêu bật ý niệm “vốn thông tin” mà ông muốn khái quát hơn ý niệm vốn văn hóa. Nó bao gồm tất cả các kiến thức, bí quyết và cấu trúc nhận thức và đánh giá các kiến thức này [SG 2: 471].
Việc du nhập khái niệm vốn văn hóa và cách sử dụng khái niệm này vào nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác nhau đã tạo ra nguồn tài liệu đáng kể, cả ở Pháp và nước ngoài [Coulangeon và Duval 2013; 2014; Duval 2011]. Một số khía cạnh của cuộc tranh luận rộng lớn này có thể được chỉ ra ngắn gọn. Chiều kích đầu tiên liên quan đến các chỉ báo. Nếu các chỉ báo về vốn kinh tế tương đối đơn giản vì tiền là thước đo tổng quát thì việc đo lường vốn văn hóa lại phức tạp hơn. Do đó, một phần của cuộc tranh luận tập trung vào các thành tố và chỉ báo khác nhau của vốn văn hóa. Nếu ở Pháp, bằng tốt nghiệp thường được sử dụng làm chỉ báo chính thì các thành tố khác nhau và các tác động đặc thù của các thành tố này được tranh luận trong các tài liệu quốc tế [Serre 2012].
Chiều kích thứ hai, gắn với chiều kích thứ nhất, liên quan đến các vấn đề so sánh. Tầm quan trọng tương đối và các dạng vốn văn hóa khác nhau có xu hướng khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh quốc gia [Serre và Wagner 2015]. Nhiều quốc gia có hệ thống giáo dục tương tự với Pháp, một số quốc gia khác có hệ thống bình đẳng hơn, không có các Trường Lớn/Grandes Écoles như các quốc gia Bắc Âu, nhưng trong hệ thống giáo dục đó các cơ quan khác có thể đảm nhận các chức năng xã hội tương tự [Börjesson et al. 2015; Hjellbrekke và cộng sự. 2018].
Chiều kích thứ ba của cuộc tranh luận liên quan đến những thay đổi lịch sử đã xảy ra kể từ những năm 1960 và 1970, giai đoạn tham chiếu trong một số tác phẩm của Bourdieu [Di, La Noblesse d'Etat]. Nhà xã hội học và các cộng tác viên của ông cho thấy rằng sự trỗi dậy của “chủ nghĩa tân tự do”, vốn là một “cuộc cách mạng bảo thủ”, bao hàm sự thống trị ngày càng tăng của vốn kinh tế và tài chính trong trường quyền lực [Contre-feux 1 và 2; Denord và cộng sự. 2011], cũng như tính dị trị ngày càng tăng của các trường sản xuất văn hóa; trong các trường sản xuất văn hóa, cực kinh tế đã trở nên mạnh hơn nhiều [PB 1999a]. Các công trình khác đã khảo sát sự tái cấu trúc vốn văn hóa chẳng hạn sự tái cấu trúc xuất hiện cùng với quá trình quốc tế hóa [Wagner 2007]. Sự đa dạng hóa của các dịch vụ văn hóa và sự xuất hiện của các phương tiện truyền thông mới cuối cùng đã gây ra một cuộc tranh luận về câu hỏi liệu khoảng cách giữa các giai cấp và các nhóm xã hội đang có xu hướng giảm bớt hay ngược lại vẫn được duy trì; liệu các thực tiễn văn hóa có còn mang tính phân biệt hay đã trở nên “chiết trung” và “hỗn tạp” [Coulangeon và Duval 2013; 2014].
Johan Heilbron
Giám đốc nghiên cứu danh dự CNRS (CESSP), giáo sư thỉnh giảng Đại học Uppsala
BÖRJESSON M. et D. BROADY, 2015, “Elite strategies in a unified system of higher education: the case of Sweden”, L’Année sociologique, vol. 65, no 2, p. 115-146. – DENORD F., P. LAGNEAU-YMONET et S. THINE, 2011, “Le champ du pouvoir en France”, ARSS, no 190, p. 24-57. – SERRE D. et A.-C. WAGNER, 2015, “For a relational approach to cultural capital: a concept tested by changes in the French social space”, The Sociological Review, vol. 63, no 2, p. 433-455. – WAGNER A.-C., 2007, Les Classes sociales dans la mondialisation, Paris, La Découverte.
☛ ACCUMULATION, AMOUR DE L’ART (L’), BECKER (G.), CAPITAL, CAPITAL ÉCONOMIQUE, CAPITAL SOCIAL, CAPITAL SYMBOLIQUE, CAPITALISME, CHAMP, CHAMP ACADÉMIQUE, CHAMP(S) DE PRODUCTION CULTURELLE, CHAMP DU POUVOIR, CHAMP ÉCONOMIQUE, CLASSE(S) DOMINANTE(S), CLASSE(S) SOCIALE(S), CONVERSION DE CAPITAUX, CORPS, CULTURE, DARBEL, DIFFÉRENCE, DIFFÉRENCIATION, DISTINCTION (LA), DOMINATION, DON NATUREL, ENSEIGNEMENT, ESPACE SOCIAL, ETHOS, HABITUS, HÉRITAGE, HÉRITIERS (LES), HÉTÉRONOMIE, INCORPORATION, INTÉRIORISATION, INTERNATIONALISATION, NÉOLIBÉRALISME, NOBLESSE D’ÉTAT (LA), RECONVERSION, RÉVOLUTION CONSERVATRICE, TITRE(S), TRAJECTOIRE(S), UN ART MOYEN
Thư mục:
1964 [H] Les Héritiers. Les étudiants et la culture (avec J.-C. Passeron), Paris, Minuit.
1965 [AM] Un art moyen. Essai sur les usages sociaux de la photographie (avec L. Boltanski, R. Castel et J.-C. Chamboredon), Paris, Minuit.
1969 [AA] L’Amour de l’art. Les musées d’art européens et leur public (avec A. Darbel), Paris, Minuit.
1998 [CF 1] Contre-feux 1. Propos pour servir à la résistance contre l’invasion néolibérale, Paris, Raisons d’agir.
2001 [CF 2] Contre-feux 2. Pour un mouvement social européen Paris, Raisons d’agir.
[PB 1986h] “The forms of capital”, in J. RICHARDSON (éd.), Handbook of theory and research for the sociology of education, New York, Greenwood, p. 241-258.
[PB 1966c] “La transmission de l’héritage culturel” in DARRAS, Le Partage des bénéfices. Expansion et inégalités en France, Paris, Minuit, p. 383-420.
[PB 1966g] “L’école conservatrice. Les inégalités devant l’école et devant la culture”, Revue française de sociologie, vol. 7, no 3, p. 325-347.
[PB 1999a] “Une révolution conservatrice dans l’édition”, ARSS, no 126-127, p. 3-28.
* * * * *
CAPITAL ÉCONOMIQUE [VỐN KINH TẾ]
Không thực sự dành bất kỳ sự suy nghĩ mang tính hệ thống nào cho nó, Pierre Bourdieu đã có một cái nhìn đặc thù về vốn kinh tế, coi nó như một “hình thái vốn” [PB 1986h]. Ông coi vốn kinh tế như một quyền lực đối với thế giới xã hội có đặc điểm là dựa trên việc sở hữu các nguồn lực vật chất, ở bên ngoài người nắm giữ chúng và do đó, dễ được lưu truyền hơn vốn “văn hóa” hay vốn “xã hội”. Vốn kinh tế còn có đặc điểm là mang tính khách quan hơn về mặt xã hội. Tiền là “sự hiện thực hóa” của vốn kinh tế [Choses dites: 131].
Vốn kinh tế, giống như đồng tiền, là một hiện tượng lịch sử. Thật vậy, vốn kinh tế không phải là đối tượng của cùng một sự khách quan hóa và sự thừa nhận xã hội trong mọi xã hội [Sur l’État: 303]. Trong các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa, vốn kinh tế đóng một vai trò nhỏ hơn nhiều so với danh dự và chỉ có hiệu quả nếu nó mang hình thái uyển ngữ của vốn biểu tượng [Le Sens pratique]. Việc tìm kiếm vốn kinh tế thuần túy và việc tích lũy nó chỉ trở nên khả thi từng bước: trong các xã hội hiện đại của chúng ta, chính sự hình thành của một “thế giới kinh tế” bị chi phối bởi một “nền kinh tế mang tính kinh tế” mới trao cho vốn kinh tế một vai trò ngày càng tăng, điều này chắc chắn một phần là do, chẳng hạn, nền kinh tế này “dễ quản lý một cách hợp lý” hơn danh dự [CD: 131].
Tuy nhiên, tiến trình tự trị hóa của trường (và của vốn) kinh tế đã góp phần làm trỗi dậy các logic tiền tư bản chủ nghĩa trong các thế giới xã hội, mà giống như các trường sản xuất văn hóa, có xu hướng được tổ chức xung quanh các vốn đặc thù có những mối quan hệ rất mơ hồ với vốn kinh tế. Thật vậy, sự tích lũy những vốn đặc thù này đòi hỏi phải từ bỏ lợi nhuận kinh tế nhưng lại giả định trước một nguồn vốn kinh tế tối thiểu, một vốn kinh tế cho phép tạo ra khoảng cách với sự cần thiết về mặt kinh tế mà sự xây dựng một vốn văn hóa hoặc một vốn biểu tượng đòi hỏi chỉ đối với những người đồng đẳng. Những vốn đặc thù này có thể được phân tích ở mức độ rộng như là các dạng vốn kinh tế bị phủ nhận [Les Règles de l’art].
Xây dựng không gian xã hội trong khuôn khổ nước Pháp đương đại, Bourdieu cho thấy tầm quan trọng của việc tính đến các loại vốn khác nhau, đồng thời nhấn mạnh rằng vốn kinh tế có xu hướng là loại vốn an toàn nhất và mạnh nhất: trong trường quyền lực, những tầng lớp giàu nhất về vốn kinh tế chiếm ưu thế so với những tầng lớp mà việc tái sản xuất chủ yếu dựa vào vốn văn hóa và, chẳng hạn như trong trường văn hóa, việc chiếm hữu mang tính biểu tượng các tác phẩm, dựa trên vốn văn hóa, vẫn là sự thay thế cho việc chiếm hữu vật chất mà vốn kinh tế cho phép [La Distinction]. Vốn kinh tế là loại vốn có thanh khoản cao nhất nhưng, trong nhiều trường hợp, chẳng hạn như trong thị trường giáo dục, nó chỉ có hiệu quả với điều kiện được chuyển đổi thành các loại vốn khác, việc này giả định là sẽ có những sự hao tổn.
Bản thân trường kinh tế cũng không thể được coi là hoàn toàn bị chi phối bởi vốn kinh tế. Ví dụ, Bourdieu cho thấy rằng việc tiếp cận các vị trí quyền lực kinh tế mà trước đây là đối tượng của việc lưu chuyển trực tiếp, có xu hướng ngày càng phụ thuộc vào việc nắm giữ các chức danh học vấn [La Noblesse d’État]. Ông cũng lưu ý đến vai trò mà vốn biểu tượng hoặc thanh danh, không thể bị quy thành một biểu hiện đơn giản của vốn kinh tế, giữ được trong thế giới kinh tế và ông nhận thấy rằng bản thân các công ty lớn cũng gặp phải sự đối lập giữa các chủ sở hữu vốn kinh tế (do nắm quyền sở hữu các tư liệu sản xuất) và các nhóm xã hội, như nhóm kỹ sư trước nhất có vốn văn hóa hoặc thông tin cần thiết cho sự vận hành của các phương tiện sản xuất [Di: 348]. Việc phân tích trường kinh tế đồng thời dẫn đến việc tính đến thực tế là vốn kinh tế có những hình thái khác biệt nhau (ví dụ, vốn tài chính, vốn thương mại [Les Structures sociales de l’économie: 237]) tuy trong số những thứ khác, không phải là tiêu biểu ở cùng một mức độ cho những đặc tính (sự an toàn, tính thanh khoản) mà ta có thể gắn lúc ban đầu cho “vốn kinh tế” [PB 1986h].
Julien Duval
Giám đốc nghiên cứu tại CNRS (CESSP)
☛ ACCUMULATION, AUTONOMIE, CAPITAL, CAPITAL CULTUREL, CAPITAL SOCIAL, CAPITAL SYMBOLIQUE, CHAMP(S) DE PRODUCTION CULTURELLE, CHAMP DU POUVOIR, CHAMP ÉCONOMIQUE, CONVERSION DE CAPITAUX, DIFFÉRENCIATION, HONNEUR, OBJECTIVATION, RECONNAISSANCE, TITRE(S)
Thư mục:
1979 [Di] La Distinction. Critique sociale du jugement, Paris, Minuit, nouvelle éd. augmentée d’une introduction, 1982.
1980 [SP] Le Sens pratique, Paris, Minuit, rééd. 1989.
1987 [CD] Choses dites, Paris, Minuit.
1989 [NE] La Noblesse d’État. Grandes Écoles et esprit de corps, Paris, Minuit.
1992 [RA] Les Règles de l’art. Genèse et structure du champ littéraire, Paris, Seuil, rééd. “Points” 1998, 2015*.
2000 [SSÉ] Les Structures sociales de l’économie, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 2014.
2012 [SÉ] Sur l’État. Cours au Collège de France, 1989-1992, Paris, Raisons d’agir/Seuil.
[PB 1986h] “The forms of capital”, in J. RICHARDSON (éd.), Handbook of theory and research for the sociology of education, New York, Greenwood, p. 241-258.
* * * * *
CAPITAL POLITIQUE [VỐN CHÍNH TRỊ]
Chủ yếu trong bài “Sự đại diện chính trị” [Langage et pouvoir symbolique: 213-258], Pierre Bourdieu đã định nghĩa vốn chính trị là “một dạng vốn biểu tượng”, một “tín dụng dựa trên vô số hoạt động tín dụng mà các tác nhân trao cho một người (hoặc một đối tượng) được chỉ định về mặt xã hội là đáng tin cậy chính những uy tín mà họ thừa nhận ở anh ta” [LPS: 241]. Nếu rõ ràng không phải là ông không nhận thức về các thành tố khác của vốn chính trị (làm chủ ngôn ngữ chính trị và các chương trình, nguồn lực kinh tế, vốn xã hội, thậm chí cả các kiểu quyền ưu tiên gia nhập vào trường chính trị mà một số trường đại học nhất định - Sciences Po Paris, Trường Quốc Gia Hành chính/ENA – trao cho hoặc nghệ thuật trở thành một “diễn viên” giỏi trước tầm quan trọng ngày càng tăng của báo chí trong đời sống chính trị, v.v.), Bourdieu nhấn mạnh khía cạnh biểu tượng của vốn chính trị trong chừng mực mà chính trị là cuộc đấu tranh cho những ý tưởng thuộc một loại rất đặc biệt, “cụ thể là những ý tưởng chủ đạo” [Propos sur le champ politique: 63]. Đối với chính trị gia, vốn đặc thù này, dựa trên thanh danh, cực kỳ dễ bị nghi ngờ và là đôi tượng của những vu khống, tai tiếng và tin đồn, khiến ông ta tích lũy uy tín và tránh bất kỳ sự mất uy tín nào bằng cách ẩn náu trong sự thận trọng và uyển ngữ hóa.
Bourdieu phân biệt hai loại vốn chính trị chính: loại mà một người có thể nắm giữ với tư cách cá nhân, và loại mà một người nhận được với tư cách là người được ủy quyền bởi một tổ chức “nắm giữ vốn chính trị được tích lũy trong các cuộc đấu tranh trong quá khứ” [LPS: 244]. Vốn thanh danh cá nhân, “thường là sản phẩm của sự chuyển hóa một vốn về thanh danh tích lũy được trong các lĩnh vực khác” [LPS: 244] là kết quả của quá trình tích lũy chậm và liên tục, có thể kéo dài cả đời. Ngược lại, vốn thanh danh này có thể được phân biệt với vốn cá nhân anh hùng hoặc với vốn tiên tri là sản phẩm của một hành động khởi đầu được thực hiện trong một tình huống khủng hoảng “trong sự trống rỗng và im lặng của các tổ chức” [LPS: 244].
Trái ngược với vốn chính trị gắn liền với con người và biến mất cùng với anh ta, “vốn được ủy quyền của quyền lực chính trị, giống như vốn của linh mục, giáo sư và nói chung hơn của công chức, là sản phẩm của sự chuyển giao tạm thời và có giới hạn (mặc dù có thể gia hạn, đôi khi là trọn đời) vốn do định chế nắm giữ và kiểm soát và, chỉ thông qua định chế này thôi, chính đảng, thông qua hành động của các cán bộ và các thành viên tích cực, đã tích lũy được trong lịch sử một vốn mang tính biểu tượng của sự công nhận và lòng trung thành và đã tự trang bị cho mình, trong và thông qua cuộc đấu tranh chính trị, một tổ chức thường trực bao gồm các cán bộ thường trực có khả năng huy động các thành viên tích cực, các thành viên và các cảm tình viên, đồng thời tổ chức các công tác tuyên truyền cần thiết để giành được phiếu bầu và từ đó có được các vị trí cho phép nuôi dưỡng và duy trì lâu dài các cán bộ thường trực” [LPS: 245]. Bộ máy huy động này vừa dựa trên các cơ cấu khách quan như bộ máy quan liêu của chính tổ chức (các chức vụ được biếu tặng, truyền thống tuyển dụng, tuyển chọn và đào tạo, v.v.) vừa dựa trên các quy định, “về lòng trung thành với đảng hay về các nguyên tắc được sáp nhập về sự phân chia của thế giới xã hội mà các nhà lãnh đạo, các cán bộ thường trực hoặc các thành viên tích cực triễn khai trong thực tiễn hàng ngày và trong hành động chính trị cụ thể của họ” [LPS: 245].
Sau đó là sự đề cử. Đó là một hành động kỳ diệu của một định chế đánh dấu sự lưu truyền thực sự vốn chính trị, qua đó đảng công nhận người được đề củ là ứng cử viên chính thức của đảng cho một cuộc bầu cử. Vốn chính trị có tính chức năng này quan trọng đến mức người thụ hưởng nó có thể không còn bất kỳ nguồn lực nào khác trong chừng mực cũng vẫn là ”định chế kiểm soát việc có được thanh danh cá nhân bằng cách kiểm soát, chẳng hạn thông qua, quyền tiếp cận các vị trí nổi bật nhất (vị trí tổng thư ký hay người phát ngôn) hoặc ở những nơi có sự hiển thị cao (như ngày nay các “chương trình/show” lớn trên đài phát thanh, truyền hình hoặc các cuộc họp báo)” [LPS: 247]. Tuy nhiên, người nắm giữ vốn được ủy quyền có thể dành được vốn cá nhân. Cuối cùng, việc ủy quyền vốn chính trị giả định trước sự khách quan hóa loại vốn này, việc thể chế hóa nó, nghĩa là sự hiện thực hóa nó trong các “cỗ máy chính trị, trong các vị trí và công cụ vận động, cũng như việc tái sản xuất liên tục của nó bằng các cơ chế và chiến lược đặc thù. Nói chung, khối lượng vốn chính trị của một tác nhân chính trị liên quan đến trọng lượng chính trị của đảng mà người đó là thành viên và đến trọng lượng riêng của người đó trong đảng được xem xét [PCP: 65].
Phân tích vốn chính trị từ gốc độ quan hệ và tính biến thiên của các nguồn lực mà nó có thể huy động hiếm khi được thấy rõ ràng như khi Bourdieu bị thách thức chuyển đổi quan niệm của ông về không gian xã hội được cấu trúc theo hai trục (kinh tế và văn hóa) sang các xã hội của Liên Xô. Nhận thức rằng vốn kinh tế và vốn văn hóa không cấu trúc nên những xã hội này, ông gợi ý thay thế chúng bằng vốn chính trị (mà ban đầu ông gọi là “vốn quan liêu” trong một hội nghị ở CHDC Đức năm 1989) như một nguyên tắc tổ chức và phân cấp, và đề xuất rằng nên phát triển một chỉ số về vốn này (đặc biệt dựa trên vị trí trong đảng và sự thâm niên), một giả thuyết có giá trị phát hiện đặc biệt, được xác nhận là có hiệu quả nhất trong việc giải thích đặc điểm sinh học xã hội của các thế giới cộng sản (đảng và xã hội) [Raisons pratiques: 31-35]. Trong trường hợp sau, những đặc tính thường bị xem là gây sự mất uy tín nói chung (chẳng hạn như thành phần xã hội/xuất thân từ thành phần xã hội bình dân hoặc không có bằng cấp) lại có thể có hiệu quả. Giá trị phát hiện của vốn chính trị đã được chứng minh trong nhiều công trình, đặc biệt là về các đảng phái chính trị [Offerlé 2008; Pennetier và Pudal 2002] và về mối quan hệ với chính trị [Gaxie 1978].
Bernard Pudal
Nhà nghiên cứu tại CNRS (IDHES)
OFFERLÉ M., 2008, Les Partis politiques, Paris, PUF. – GAXIE D., 1978, Le Cens caché, Paris, Seuil. – PENNETIER C. et B. PUDAL, 2002, Autobiographies, autocritiques, aveux dans le monde communiste, Paris, Belin.
☛ ACCUMULATION, APPAREIL, CAPITAL, CAPITAL ÉCONOMIQUE, CAPITAL CULTUREL, CAPITAL SOCIAL, CAPITAL SYMBOLIQUE, CHAMP BUREAUCRATIQUE, CHAMP POLITIQUE, COMMUNISME, DÉLÉGATION, DISPOSITION(S), EUPHÉMISATION, FONCTIONNAIRE, INSTITUTION(S), LANGAGE ET POUVOIR SYMBOLIQUE, LUTTE(S), OBJECTIVATION, POSTE(S), PRÊTRE, PROFESSEURS, RECONNAISSANCE, RECONVERSION, REPRÉSENTATION(S), STRATÉGIE(S), STRUCTURE(S)
Thư mục:
1994 [RP] Raisons pratiques. Sur la théorie de l’action, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 1996.
2000 [PCP] Propos sur le champ politique, introduction de P. Fritsch, Lyon, Presses universitaires de Lyon.
2001 [LPS] Langage et pouvoir symbolique, présentation de J. B. Thompson, Paris, Seuil.
* * * * *
CAPITAL SOCIAL [VỐN XÃ HỘI]
Bên cạnh vốn kinh tế và văn hóa, vốn xã hội là một trong ba loại vốn chính mà theo Pierre Bourdieu, giúp xây dựng không gian xã hội [PB 1986h]. Cụm từ này chỉ “tổng các nguồn lực, thực tế hoặc tiềm tàng, thuộc về một cá nhân hoặc một nhóm vì người (hay nhóm) này có một mạng lưới các mối quan hệ bền vững” [Réponses: 167]. Định nghĩa này về vốn xã hội trái ngược với các khái niệm xã hội học khác. Thật vậy, thuật ngữ này đã được sử dụng nhiều lần trước Bourdieu [Ponthieux 2006], thường là theo cách thức được hệ thống hóa kém. Ngay từ những năm 1920, một số người đã nói đến vốn xã hội về “những chất hữu hình quan trọng nhất trong cuộc sống hàng ngày của con người, đó là thiện chí, tình bạn, sự thiện cảm và các mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân và gia đình tạo nên một đơn vị xã hội” [Méda 2002: 37 ]. Gần đây hơn, khái niệm vốn xã hội đã được phổ biến rộng rãi nhờ những nỗ lực của Robert Putnam [2000], được tiếp nối bởi các tổ chức như Ngân hàng Thế giới. Theo Putnam, vốn xã hội gắn với sự tồn tại của các mạng lưới xã hội, các chuẩn mực về tính hỗ tương và về sự tin cậy [Putnam 2000].
Quan niệm về vốn xã hội được Bourdieu bảo vệ được ghi nhận trong một lý thuyết tổng quát về vốn. Nó tìm thấy nguồn gốc trong các công trình của thời kỳ Algérie. Như ông thường nhấn mạnh sau đó, trong các xã hội truyền thống, “một trong những điều duy nhất có thể tích lũy được là vốn của các mối quan hệ, của các khoản nợ, của các nghĩa vụ đạo đức hoặc thực tế, đôi khi được đảm bảo về mặt pháp lý” [Sociologie générale 1: 526]. Cho đến đầu những năm 1970, Bourdieu đã sử dụng các thuật ngữ “vốn xã hội” và “vốn biểu tượng” một cách không phân biệt để chỉ ra những lợi thế và ràng buộc phát sinh từ sự thuộc về một nhóm. Chính nghiên cứu của ông được thực hiện về giai cấp thống trị đã cho phép ông làm sáng tỏ các đặc điểm của vốn xã hội. Trong các xã hội bị phân hóa, sự bất bình đẳng xã hội phát sinh chủ yếu từ những chênh lệch về di sản kinh tế và văn hóa. Tuy nhiên, điều mà ngôn ngữ thông thường gọi là “mối quan hệ” cũng quan trọng. Đối với các cá nhân có thể so sánh được dưới góc độ vốn kinh tế và vốn văn hóa, vốn xã hội, với tư cách là vốn phát sinh từ các mối quan hệ, có thể tạo nên sự khác biệt [PB 1971g: 69]. Sự tích lũy của vốn xã hội bắt đầu từ trong gia đình, “vốn xã hội gắn liền với thâm niên trong giai cấp thông qua thanh danh của dòng họ cũng như mức độ và chất lượng của mạng lưới các mối quan hệ” [La Distinction: 138]. Sau đó, sự tích lũy này đơm hoa kết trái nhờ nhiều hình thức kết nạp khác nhau gắn kết người được nhận vào các nhóm: kinh qua các cơ sở giáo dục được công nhận, chẳng hạn như các Trường Lớn/Grandes Écoles; từng là hay còn đang là thành viên các đoàn thể lớn của Nhà nước, tạo ra một hình thức đoàn kết; thành viên của các câu lạc bộ hoặc tổ chức dựng lên các rào cản đối với sự gia nhập các câu lạc bộ và tổ chức này. Những liên kết khác nhau này cuối cùng có thể làm tăng gấp bội hiệu xuất của các nguồn lực kinh tế và văn hóa. Khối lượng vốn xã hội mà một cá nhân nắm giữ phụ thuộc vào số lượng vị trí mà người đó chiếm giữ đồng thời trong các trường khác nhau cũng như vị trí của các trường này trong hệ thống thứ bậc cấu trúc nên giai cấp thống trị. Như Luc Boltanski viết [1973: 14], “quyền lực của một cá nhân cụ thể không thể quy giản về quyền lực được xác định trong vị trí mà anh ta nắm giữ hoặc trong tổng số các quyền lực rải rác gắn với từng vị trí mà anh nắm giữ: toán học về quyền lực sử dụng phép cộng ít hơn phép nhân, phép trừ ít hơn phép chia”.
Bourdieu sử dụng khái niệm “vốn xã hội” một cách tiết kiệm. Thật vậy, là một số nhân nguồn lực, vốn xã hội không bao giờ “hoàn toàn độc lập” [PB 1980a: 3] với vốn kinh tế và vốn văn hóa và do đó có thể dưới mắt ông được coi là thứ yếu. Nếu một nhóm gắn kết với nhau, đó không chỉ đơn giản là vì nó cung cấp cho các thành viên của mình vốn xã hội, mà còn bởi vì các thành viên này sở hữu một số đặc tính nhất định khiến họ xích lại gần nhau một cách khách quan trong không gian xã hội. Như vậy, không có vốn xã hội nào mà không phải là vốn kinh tế, vốn văn hóa hay là sản phẩm của cả hai. Việc theo học tại các Trường Lớn cấu thành vốn học thuật và vốn xã hội không thể tách biệt với nhau, giống như việc trở thành giám đốc một công ty cũng đồng nghĩa với việc thực hiện một hình thức kiểm soát đối với một công cụ sản xuất và trở thành thành viên của một nhóm. Vốn xã hội vẫn là vốn “bổ sung”. Là điều tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch kinh tế, trí tuệ, chính trị, v.v., vốn xã hội cũng liên quan đến “công việc thiết lập và duy trì” có ý nghĩa hơn đối với một số thành phần xã hội nhất định hơn là đối với các thành phần khác [PB 1973a]. Nói đến vốn của các mối quan hệ giả định rằng những mối quan hệ này là quan trọng. Khi đó, vốn xã hội có thể được sử dụng để giải thích sự bất bình đẳng trong thành tích của các cá nhân xuất thân từ các tầng lớp xã hội khác nhau, bằng cách gắn những lợi thế đặc thù mà các cá nhân có thể thu được trong các thế giới khác nhau với sự phân bổ vốn này trong các mối quan hệ giữa các giai cấp.
Cách Bourdieu hình dung vốn xã hội – theo nghĩa đen của thuật ngữ này – thể hiện một số lợi thế so với nhiều cách lý thuyết hóa khác về nó. Định nghĩa của Bourdieu trái ngược với tính chuẩn mực trong các nghiên cứu của Putnam: định nghĩa về vốn xã hội mà những nghiên cứu này huy động vẫn còn mơ hồ. Những công trình này quy vốn xã hội thành thước đo cường độ của đời sống xã hội, được nắm bắt thông qua các chỉ báo mang tính tổng quát như tỷ lệ tham gia bầu cử hay số lượng thành viên của các hiệp hội lớn của quốc gia; những công trình này phổ cập quan điểm của tác giả - niềm tin của ông vào nền dân chủ tự do Mỹ - để ca ngợi “ý thức công dân”. Trong khi James Coleman [1988] – người mà Bourdieu mỉa mai viết rằng ông “chịu trách nhiệm” đưa ra khái niệm vốn xã hội “vào thị trường được bảo vệ cao của xã hội học Mỹ” [Les Structures sociales de l’économie: 12] – coi vốn xã hội là một sản phẩm công cộng thì, theo Bourdieu, vốn xã hội có thể là đối tượng của sự độc quyền. Trong tất cả các nhóm, sự cám dỗ tồn tại trong việc chiếm đoạt vốn tập thể, cũng như có các thủ tục có thể được dự kiến về mặt thể chế để đề phòng tình huống này. Trong khi hầu hết các nhà lý thuyết về vốn xã hội, ngoại trừ Nan Lin [1995], còn thiếu một lý thuyết về nhóm hoặc giai cấp, Bourdieu đặt vốn xã hội trong mối quan hệ với các loại vốn khác mà các tác nhân xã hội có thể có.
Thật vậy, nói đến “vốn” xã hội là hàm ý tự tra vấn về cả khối lượng, sự cấu tạo và cách sử dụng một nguồn lực t nhiều quý hiếm, được coi là có hiệu quả trong một không gian nhất định, và đặt nó so với các nguồn lực khác (kinh tế, văn hóa hoặc biểu tượng). Vốn xã hội, trong định nghĩa của Bourdieu, là một nguồn lực mà quyền sở hữu gắn liền với việc thuộc về một hoặc nhiều nhóm, mà các thành viên được gắn kết với nhau bởi các mối quan hệ khách quan và đồng thời là sản phẩm của các cấu trúc quan hệ, trong đó vốn xã hội được phân bổ không đồng đều. Lấy cảm hứng từ định nghĩa mà Bourdieu đưa ra về vốn văn hóa [PB 1979b] và dựa vào công trình ông đã dành cho giai cấp thống trị, chúng ta có thể phân biệt giữa vốn xã hội được kế thừa và phần nào được sáp nhập (các mối quan hệ gia đình và phong cách xã hội thoái mái), vốn xã hội được khách quan hóa (tư cách thành viên trong các tổ chức, danh sách các mối quan hệ) và có thể là cả vốn xã hội được định chế hóa, trong trường hợp nắm giữ một số chức danh nhất định mang lại sự công nhận và uy tín. Đây có lẽ là lý do tại sao Bourdieu khẳng định rằng “vốn xã hội, với tư cách là vốn dựa trên các mối quan hệ, có xu hướng tự phát hoạt động như vốn biểu tượng” [Sur l’État: 303].
François Denord
Nhà nghiên cứu tại CNRS (CESSP)
BOLTANSKI L., 1973, “L’espace positionnel: multiplicité des positions institutionnelles et habitus de classe”, Revue française de sociologie, no 14, p. 3-26. – COLEMAN J., 1988, “Social capital in the creation of human capital”, American Journal of Sociology, no 94, suppl., p. 95-120. – LIN N., 1995, “Les ressources sociales: une théorie du capital social”, Revue française de sociologie, no 36, p. 685-704. – MÉDA D., 2002, “Le capital social: un point de vue critique”, L’économie politique, no 14, p. 36-47. – PONTHIEUX S., 2006, Le Capital social, Paris, La Découverte. – PUTNAM R., 2000, Bowling alone: the collapse and revival of american community, New York, Simon & Schuster.
☛ ACCUMULATION, ALGÉRIE, BOLTANSKI, CAPITAL CULTUREL, CAPITAL ÉCONOMIQUE, CAPITAL SYMBOLIQUE, CHAMP, CLASSE(S) DOMINANTE(S), CLASSE(S) SOCIALE(S), CORPS (EFFET DE), ESPACE SOCIAL, FAMILLE, GRANDES ÉCOLES, HÉRITAGE, HIÉRARCHIE, POSITION(S), RECONNAISSANCE, RELATION(S) OBJECTIVE(S), TITRE(S)
Thư mục:
1992 [R] Réponses. Pour une anthropologie réflexive (avec L. Wacquant), Paris, Seuil.
2012 [SÉ] Sur l’État. Cours au Collège de France, 1989-1992, Paris, Raisons d’agir/Seuil.
2000 [SSÉ] Les Structures sociales de l’économie, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 2014. 2015
2015 [SG 1] Sociologie générale, vol. 1, éd. établie par P. Champagne, J. Duval, F. Poupeau et all., Paris, Raisons d’agir/Seuil, rééd. “Points”, 2019.
[PB 1971g] “Reproduction culturelle et reproduction sociale”, Informations sur les sciences sociales, vol. 10, no 2, p. 45-70.
[PB 1979b] “Les trois états du capital culturel”, ARSS, no 30, p. 3-6.
[PB 1980a] “Le capital social. Notes provisoires”, ARSS, no 31, p. 2-3.
[PB 1986h] “The forms of capital”, in J. RICHARDSON (éd.), Handbook of theory and research for the sociology of education, New York, Greenwood, p. 241-258.
* * * * *
CAPITAL SYMBOLIQUE [VỐN BIỂU TƯỢNG]
Pierre Bourdieu đã hun đúc khái niệm “vốn biểu tượng” vào đầu những năm 1970. Ban đầu, gần như không khác biệt với khái niệm vốn xã hội [PB 1973a: 66], vốn biểu tượng liên quan đến những lợi thế mà một dòng họ hoặc một nhóm mang lại, đặc biệt là uy tín và tiếng tăm. Tính từ biểu tượng có một lợi ích kép: nó chỉ ra rằng giá trị của một cá nhân phụ thuộc vào nhận thức mà người khác có về anh ta; nó cho phép, chống lại bất kỳ hình thức nào của một chủ nghĩa lấy dân tộc làm trung tâm, nghiên cứu các thực tiễn không lấy lợi ích kinh tế làm động lực duy nhất. Do đó, “ý thức danh dự”, trung tâm để hiểu sự cạnh tranh giữa các gia đình và bộ lạc, giải thích một phần lớn các hành vi mà Bourdieu đã quan sát được ở Kabylie. Trong nền kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa, việc tích lũy vốn kinh tế tuân theo các quy luật khác với những quy luật được khoa học kinh tế giảng dạy, cho dù khoa học này lấy cảm hứng từ chủ nghĩa Marx hay từ lý thuyết về con người kinh tế. Các tác nhân có thể tìm kiếm, thông qua khách hàng của mình, cách để xây dựng một vốn danh dự cho bản thân, tạo ra nhóm và làm cho các vụ giao dịch trở nên khả thi mà nếu xét về mặt kinh tế là khách quan, nhưng lại không được cảm nhận là như vậy. Các giao dịch này vẫn bị đóng khung bởi các tiêu chuẩn về sự công bằng và sự hỗ tương được các tác nhân tuân thủ một cách triệt để.
Với tư cách là thành viên của dòng họ, những thành viên này thừa hưởng một di sản cụ thể (thường là đất đai) cũng như một di sản mang tính biểu tượng, được tạo thành từ các mối quan hệ và danh dự, có thể mang lại lợi ích vật chất. Bản chất của vốn biểu tượng là mơ hồ. Theo Bourdieu, “giống như uy tín và tiếng tăm gắn liền với một gia đình và một tên, vốn biểu tượng dễ dàng được chuyển đổi thành vốn kinh tế, [và] có lẽ là hình thức tích lũy quý giá nhất trong một xã hội có khí hậu khắc nghiệt (các công trình lớn, công việc cày bừa và thu hoạch tập trung trong thời gian rất ngắn) và sự yếu kém của các công cụ kỹ thuật (thu hoạch bằng liềm) đòi hỏi lao động tập thể” [Esquisse d’une théorie de la pratique: 367-368]. Một cách nghịch lý, việc tăng vốn của các mối quan hệ (và do đó là tăng nhân công) lại đòi hỏi những khoản đầu tư đáng kể, dưới hình thức quà biếu, thời gian dành cho người khác, những sự chi tiêu phô trương, không tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu về được vốn kinh tế một cách hợp lý. Tuy nhiên, các khoản đầu tư là điều kiện của việc thu hồi này. Bởi vì, do lĩnh vực kinh tế không phải là một trường tự trị, sự giàu có khiến người ta có thể mua được sự tôn trọng và sự tín nhiệm, mà nếu không có, thì cũng không thể có được sự giàu có trong tương lai.
Trong một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa, vốn biểu tượng trước hết là vốn của các mối quan hệ và uy tín. Về các xã hội bị phân hóa, Bourdieu dần dần dành việc sử dụng thuật ngữ (vốn biểu tượng) cho chiều kích thứ hai này, đôi khi sử dụng cách diễn đạt “vốn uy tín” [PB 1971d: 113]. Được tạo ra bởi sự thuộc về một nhóm địa vị hoặc việc sở hữu một họ được thiết lập như một dấu ấn hay một thương hiệu [PB 1975c], vốn biểu tượng mang lại sự thừa nhận và tính chính đáng: “ tầm quan trọng của các tác nhân khác nhau phụ thuộc vào vốn biểu tượng của họ, tức là sự công nhận, được định chế hóa hay không, mà họ nhận được từ một nhóm,” Bourdieu viết [Langage et pouvoir symbolique: 107]. Và điều gì có giá trị trong không gian xã hội nói chung – “việc đạt được danh tiếng về năng lực và hình ảnh về sự đáng kính và danh dự” [La Distinction: 331] – cũng quan trọng trong từng trường riêng biệt, trong đó vốn đặc thù của trường thường mang một chiều kích biểu tượng.
Do đó, nói về vốn biểu tượng đối với Bourdieu là một cách gợi lên sức lôi cuốn, một thuật ngữ trung tâm trong xã hội học về quyền lực và tôn giáo kể từ Max Weber, đồng thời nhấn mạnh chiều kích quan hệ, đặc tính hợp nhất và những sự chuyển đổi tiềm năng của nguồn lực này [Le Sens pratique: 242 -243]. Ngoài ra, suy tư của Bourdieu về “quyền lực biểu tượng” cũng cho phép ông xác định bản chất của vốn biểu tượng. Đó là vốn dựa trên nhận thức, dựa trên một dạng kiến thức thực tiễn. Lấy giới quý tộc làm ví dụ, Bourdieu lưu ý rằng “vốn biểu tượng là quyền lực thực sự kỳ diệu nảy sinh trong mối quan hệ giữa những đặc tính khác biệt nhất định được khắc sâu trong con người, trong hành động, ngôn ngữ, quần áo, cơ thể của họ, v.v., và với những người khác, những người có cái nhìn, con mắt, các phạm trù nhận thức, đánh giá và tư duy nói tóm lại là tập tính, khiến họ có thể nắm bắt được điều gì làm nên sự khác biệt của những đặc tính này” [PB 1995i: 118]. Bởi vì vốn biểu tượng trước hết gắn liền với hành động thừa nhận, Bourdieu đôi khi bị dẫn đến việc tương đối hóa tầm quan trọng về mặt lý thuyết của nó, đặc biệt khi so sánh với vốn kinh tế, vốn văn hóa và vốn xã hội. Vốn biểu tượng là vốn bổ sung mà “bất kỳ người nào sở hữu vốn đều nắm giữ thêm” [Sur l’État: 303]. Nếu quyền lực biểu tượng là một quyền lực có thực thì riêng một mình nó không thôi không phải là vốn. Vấn đề là “bất kỳ loại vốn nào (kinh tế, văn hóa, giáo dục hoặc xã hội) một khi được cảm nhận theo các phạm trù của nhận thức các nguyên tắc của cách nhìn và phân chia, các sơ đồ xếp hạng, các sơ đồ phân loại, các sơ đồ nhận thức, mà một phần cũng là sản phẩm của sự sáp nhập các cơ cấu khách quan của trường được xem xét, tức là cơ cấu phân bổ vốn trong trường được xem xét” [Raisons pratiques: 160-161]. Vốn biểu tượng chỉ hoạt động như là vốn chỉ khi nó tạo ra một dạng quyền lực biểu tượng đối với những người tiếp nhận sẵn sàng coi nó như vậy. Đây chắc chắn là lý do tại sao trong một trong những tác phẩm cuối cùng của mình, Bourdieu giải thích rằng “sẽ tốt hơn nếu nói, với tất cả sự chặt chẽ, về những tác động mang tính biểu tượng của vốn” [Méditations pascaliennes: 347]. Vốn biểu tượng là “điều mà bất kỳ loại vốn nào trở thành khi không được nhìn nhận như là vốn, tức là như một sức mạnh, một quyền lực hoặc một khả năng khai thác (hiện tại hoặc tiềm năng), và do đó được công nhận là chính đáng» [MP: 347].
Những sự lẫn lộn vẫn có thể xảy ra - ví dụ như khi vốn biểu tượng mất tác dụng ở bên ngoài trường nơi nó được tích lũy – bị gán cho một hình ảnh tiêu cực, theo logic của sự có tì vết, hoặc không được hưởng lợi từ bất kỳ vốn biểu tượng nào, bởi vì không có bất cứ loại nguồn lực nào, khiến cho con người bị tước đi sự công nhận, lòng tự trọng và buộc phải chấp nhận rằng ý nghĩa của cuộc đời của mình bị người khác ấn định. Như Louis Pinto [1998: 172] chỉ ra, “vốn biểu tượng, thước đo cuối cùng của giá trị, là phần xã hội mà cá nhân sở hữu trong những gì sâu kín nhất của mình, việc tự vấn bản thân mà các tôn giáo gắn với vấn đề cứu rỗi: đó là một vốn của những lý do để tồn tại. Do đó, có lẽ nó không phải là một trong những loại vốn chính cho phép nhà xã hội học xây dựng một không gian xã hội, nhưng, với tư cách là cấp trung gian giữa những kỳ vọng chủ quan và những cơ hội khách quan, vốn biểu tượng giúp hiểu được sự cao quý tương đối của một cá nhân được đo lường như thế nào và điều này cho phép chúng ta đặt câu hỏi về mối quan hệ giữa hình tượng xã hội và sự xây dựng bản sắc.
François Denord
Nhà nghiên cứu tại CNRS (CESSP)
☛ ACCUMULATION, CAPITAL CULTUREL, CAPITAL ÉCONOMIQUE, CAPITAL SOCIAL, CATÉGORIE(S), CHAMP, CLASSE(S), CONSÉCRATION, DIFFÉRENCIATION, ESPACE SOCIAL, ESPÉRANCES, ETHNOCENTRISME, FAMILLE, HABITUS, HONNEUR, INCORPORATION, KABYLIE, LÉGITIMATION, MARXISME, MÉCONNAISSANCE, NOBLESSE, PERCEPTION, POUVOIR SYMBOLIQUE, RECONNAISSANCE, RECONVERSION, SCHÈME(S), SYSTÈME, WEBER
Thư mục:
1972 [ETP] Esquisse d’une théorie de la pratique. Précédée de trois études d’ethnologie kabyle, Genève, Droz, rééd. Paris, Seuil, “Points”, 2000.
1994 [RP] Raisons pratiques. Sur la théorie de l’action, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 1996.
1997 [MP] Méditations pascaliennes, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 2003.
2012 [SÉ] Sur l’État. Cours au Collège de France, 1989-1992, Paris, Raisons d’agir/Seuil.
[PB 1971d] “Le marché des biens symboliques”, L’Année sociologique, vol. 22, p. 49-126.
[PB 1973a] “Les stratégies de reconversion. Les classes sociales et le système d’enseignement” (avec L. Boltanski et M. de Saint-Martin), Information sur les sciences sociales, vol. 12, no 5, p. 61-113.
[PB 1975c] “Le couturier et sa griffe. Contribution à une théorie de la magie” (avec Y. Delsaut), ARSS, no 1, p. 7-36.
[PB 1995i] “Sur les rapports entre la sociologie et l’histoire en Allemagne et en France” (avec L. Raphael), ARSS, no 106-107, p. 108-122.
* * * * *
CAPITALISME [CHỦ NGHĨA TƯ BẢN]
Các bài đầu tiên của Pierre Bourdieu, kể từ Sociologie de l'Algérie (1958), được đặt rõ ràng trong quan điểm của Weber về nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, được xác định bởi các thể chế riêng của chính chủ nghĩa này (quyền sở hữu và đầu tư tư nhân, ngân hàng, tiết kiệm, làm công ăn lương, v.v.) và trên hết bởi những hành vi đặc thù, được coi là “duy lý”, liên kết với những thể chế này.
Tuy nhiên, “vũ trụ” tư bản chủ nghĩa không phải là một thực tại tự nhiên: nó là kết quả của một quá trình lịch sử lâu dài và của những mối quan hệ chính trị, đôi khi mang tính bạo lực, như trường hợp của Algérie bị Pháp thuộc địa hóa, gây ra một “sự xung đột về văn minh” [PB 1959c], đối lập một bên là thế giới tư bản chủ nghĩa xuất xứ từ chính quốc và bên kia là xã hội truyền thống, vốn dựa trên một logic biểu tượng hoàn toàn khác, đi kèm với những thái độ có vẻ như “phản kinh tế” và “không thuần lý” (chính xác là theo nghĩa của sự thuần lý tư bản chủ nghĩa) xa vời với sự tìm kiếm mạch lạc và có hệ thống để đạt được lợi ích trong tương lai bằng cách giảm thiểu chi phí và công sức. Quan điểm này được phát triển trong các bài viết của ông về xã hội truyền thống ở Algérie [Esquisses algériennes] và, một cách có hệ thống, trong tác phẩm tổng hợp Algérie 60 (1977), tập trung vào khía cạnh thời gian của những ràng buộc do thế giới tư bản chủ nghĩa áp đặt.
Thậm chí còn hơn cả Max Weber, chủ nghĩa tư bản do đó gắn liền với một “văn hóa” đặc thù chứ không chỉ với các cơ chế và thể chế, và không chỉ với sự bóc lột theo nghĩa mác xít (ngay cả khi sự bóc lột là một phần của chủ nghĩa này): “văn hóa” này được áp đặt thông qua hệ thống giáo dục và hệ thống Nhà nước cũng như thông qua tác động của sự gia tăng quyền lực của các chủ thể tư bản chủ nghĩa và các thể chế đặc trưng của họ. Như vậy đạo đức tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là các quy định hướng tới việc tích lũy và tính toán hướng tới tương lai, là trung tâm của việc tái sản sinh hệ thống kinh tế “hiện đại”. Mối quan hệ thống trị gắn kết người làm công ăn lương với ông chủ cấu thành hệ thống này, trong đó người nắm giữ quyền sở hữu các tư liệu sản xuất định hướng toàn bộ các thực tiễn và cũng quyết định phần lớn các giá trị thống trị.
Sự độc đáo của Bourdieu chắc chắn là đã thúc đẩy việc nghiên cứu các thành tố, đặc biệt là về thời gian, của cái nền nếp đạo đức (ethos) tư bản chủ nghĩa, cả về mặt sản xuất (đặc biệt là sản xuất nông nghiệp), lao động, tiêu dùng và tiết kiệm, đồng thời nêu bật sự khác biệt xã hội của các nền tảng đâo đức gắn liền với các vị trí bị chiếm giữ trong hệ thống xã hội. Một khi ông đã rời xa hình thức duy kinh tế gắn với truyền thống phân tích mác xít về cấu trúc chủ nghĩa tư bản, một truyền thống quy toàn bộ đặc điểm của hệ thống tư bản vào sự bóc lột lao động thặng dư của giai cấp vô sản. Tuy nhiên, ý niệm chủ nghĩa tư bản vẫn hiện diện cùng với hàm ý mác xít trong các văn bản của những năm 1970, ví dụ như trong bài “các chiến lược chuyển đổi” cùng viết với Luc Boltanski và Monique de Saint-Martin [PB 1973a]: không đối lập sự phân tích mác xít về giá trị thặng dư, quan điểm do Bourdieu đề xuất theo một cách nào đó đã tích hợp phân tích này như một yếu tố chắc chắn là rất quan trọng nhưng không loại trừ và nhất là không đủ để suy ra tất cả các biểu hiện của hệ thống kinh tế. Theo nhiều người mác xít, kinh tế chính trị học, rồi sau đó là khoa học kinh tế vốn là những kiến trúc thượng tầng tư tưởng phát sinh từ các mối quan hệ vật chất, đối với Bourdieu, cũng là một thành tố cơ bản của vũ trụ tư bản chủ nghĩa bằng cách cung cấp các công cụ mang tính biểu tượng đi kèm với sự thống trị của giới tinh hoa công nghiệp và sau đó là giới tinh hoa tài chính, và, vào thế kỷ 20, với liên minh của hai giới này với một bộ phận của bộ máy chính quyền cao cấp và giới tinh hoa chính trị.
Quan niệm của Bourdieu về nền nếp đạo đức tư bản chủ nghĩa không chỉ mang tính “hệ thống”, như với Weber, mà còn không được phân bố đồng đều trong không gian xã hội, theo một logic gần với các phân tích của Karl Marx hơn, vì việc tiếp cận cái nền nếp đạo đức “kinh tế” thuần lý phụ thuộc chặt chẽ vào các điều kiện kinh tế và xã hội. Trong một viễn cảnh có tính hệ ý, sự đối lập trên của “những người bần cố nông” minh họa cho sự bất khả thi của những người bị tước mất mọi hình thức vốn (trước hết là vốn kinh tế, vốn văn hóa) trong việc tiếp thu các hành vi được tổ chức một cách có hệ thống vì một mục tiêu tương lai ít nhiều xa xôi, cho dù đó là những hành vi cá nhân (tư bản chủ nghĩa) hoặc tập thể (xã hội chủ nghĩa) [PB 1962e]. Trên điểm cuối cùng này, Bourdieu mô tả các hệ thống “xã hội chủ nghĩa” hiện tại (thế giới Xô Viết và các chế độ phái sinh từ nó) như là những vũ trụ xã hội trong đó một loại vốn, vốn quan liêu (hoặc vốn chính trị), dành ưu thế ở một mức độ nhất định so với vốn kinh tế [Raisons pratiques: 31-35], khác với các nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, ông không phát triển giả thuyết về sự tồn tại của một nền nếp đạo đức xã hội chủ nghĩa sẽ đi kèm với sự vận hành của các xã hội đã đoạn tuyệt với một số đặc điểm của hệ thống tư bản chủ nghĩa.
Trong những năm 1980-1990, chủ nghĩa tư bản trở nên toàn cầu hóa và tài chính hóa: đồng thời, nền nếp đạo đức tư bản chủ nghĩa trở nên phổ biến và đe dọa quyền tự trị của các trường sản xuất văn hóa là các ốc đảo kháng cự lại kinh tế học kinh tế [Anthropologie économique], không thua gì các thành quả xã hội của phong trào công nhân [Contre-feux 1: 108-119]. Chủ nghĩa tư bản tổng quát này chỉ có hiệu quả vì nó phần lớn được sáp nhập dưới dạng các thiên hướng xã hội được khắc ghi trong thời gian dài của các quá trình lịch sử. Tuy nhiên, ý niệm này hiện diện nhiều trong các bài chống lại chủ nghĩa tân tự do, chẳng hạn như Contre-feux 1, hơn là trong các phân tích học thuật từ nay tập trung vào khái niệm trường kinh tế [PB 1997c] và nền kinh tế của các sản phẩm biểu tượng [Les Structures sociales de l’économie; RP: 175-217].
Frédéric Lebaron
Giáo sư xã hội học tại ENS Cachan
☛ ACCUMULATION, ALGÉRIE, ALGÉRIE 60, ANTHROPOLOGIE ÉCONOMIQUE, ATTITUDE(S), AUTONOMIE, CALCUL, CAPITAL, CAPITAL CULTUREL, CAPITAL ÉCONOMIQUE, CAPITAL POLITIQUE, CHAMP(S) DE PRODUCTION CULTURELLE, CHAMP ÉCONOMIQUE, CONTRE-FEUX 1, DIFFÉRENCIATION, DISPOSITION(S), DOMINATION, ÉCONOMIE, ETHOS, FONCTIONNAIRE, INSTITUTION(S), INTÉRIORISATION, MARCHÉ, MARXISME, NÉOLIBÉRALISME, POSITION(S), RATIONALITÉ, RECONVERSION, SOCIOLOGIE DE L’ALGÉRIE, SOUS-PROLÉTAIRES, STRATÉGIE(S), STRUCTURES SOCIALES DE L’ÉCONOMIE (LES), TEMPS, TRAVAIL, WEBER
Thư mục:
1997 [MP] Méditations pascaliennes, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 2003.
1958 [SA] Sociologie de l’Algérie, Paris, PUF, “Que sais-je”, rééd. 1960, 2001*
1977 [TTA] Algérie 60, Structures économiques et structures temporelles, Paris, Minuit.
1994 [RP] Raisons pratiques. Sur la théorie de l’action, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 1996.
1998 [CF 1] Contre-feux 1. Propos pour servir à la résistance contre l’invasion néolibérale, Paris, Raisons d’agir.
2000 [SSÉ] Les Structures sociales de l’économie, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 2014.
2008 [EA] Esquisses algériennes, Paris, Seuil.
2017 [AE] Anthropologie économique. Cours au Collège de France, 1992-1993, éd. établie par P. Champagne et J. Duval, avec la collaboration de F. Poupeau et M.-C. Rivière; postface de R. Boyer, Paris, Raisons d’agir/Seuil.
[PB 1959c] “Le choc des civilisations”, in Le Sous-développement en Algérie, Alger, Secrétariat social, p. 52-64.
[PB 1962e] “Les sous-prolétaires algériens”, Les Temps Modernes, no 199, p. 1031-1051
[PB 1973a] “Les stratégies de reconversion. Les classes sociales et le système d’enseignement” (avec L. Boltanski et M. de Saint-Martin), Information sur les sciences sociales, vol. 12, no 5, p. 61-113.
[PB 1997c] “Le champ économique”, ARSS, no 119, p. 48-66.
Phạm Như Hồ dịch
Nguồn: Dictionnaire international Bourdieu, CNRS Éditions, 2020.
