SỰ XUỐNG DỐC NGUY HIỂM VỀ CHIẾN LƯỢC CỦA ISRAEL
Tác giả: Stephen M. Walt, Foreign Policy 16-8-2024
Biên dịch: Nguyễn Hàn Giang
Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, Jerusalem ngày 18/11/2018. MENAHEM KAHANA/AFP qua Getty Images |
Israel đang gặp rắc rối nghiêm trọng. Người dân nước này bị chia rẽ sâu sắc, và tình hình này khó có thể cải thiện. Nước này đang sa lầy trong cuộc chiến không thể thắng ở Gaza, quân đội đang cho thấy dấu hiệu căng thẳng, và một cuộc chiến rộng lớn hơn với Hezbollah hoặc Iran vẫn có khả năng xảy ra. Nền kinh tế Israel đang chịu tổn thất nặng nề, và tờ Times of Israel gần đây đưa tin rằng có tới 60.000 doanh nghiệp có thể đóng cửa trong năm nay.
Hơn nữa, hành vi gần đây của Israel đã làm tổn hại nghiêm trọng đến uy tín toàn cầu của nước này và đang trở thành một quốc gia bị nguyền rủa theo những cách mà trước đây khó lòng tưởng tượng được. Sau các cuộc tấn công tàn bạo của Hamas vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, Israel đã nhận được sự đồng cảm sâu sắc từ khắp nơi trên thế giới, và người ta đã chấp nhận rộng rãi rằng Israel có quyền đáp trả mạnh mẽ. Nhưng hơn 10 tháng sau, chiến dịch diệt chủng của Israel chống lại người Palestine ở Gaza và tình trạng bạo lực gia tăng của những người định cư ở Bờ Tây đã làm suy giảm làn sóng ủng hộ ban đầu đó. Công tố viên trưởng của Tòa án Hình sự Quốc tế đã nộp đơn xin lệnh bắt giữ Thủ tướng Benjamin Netanyahu và Bộ trưởng Quốc phòng Yoav Gallant về các cáo buộc tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người; Tòa án Công lý Quốc tế đã ban hành các phán quyết sơ bộ mô tả hành động của Israel có bản chất và mục đích diệt chủng, và cuối cùng tòa án đã tuyên bố việc Israel chiếm đóng và thực dân hóa Bờ Tây, Gaza và Đông Jerusalem là hành vi vi phạm rõ ràng luật pháp quốc tế.
Omer Bartov (1954-) |
Chỉ những người bảo vệ chủ nghĩa phục quốc Do Thái ngoan cố nhất mới có thể nhìn vào những gì đang diễn ra ở Gaza mà không cảm thấy lo lắng sâu sắc, nếu không muốn nói là kinh hoàng. Sự ủng hộ tại Hoa Kỳ đối với các hành động của Israel đang giảm mạnh, và những người Mỹ trẻ tuổi (bao gồm nhiều người Do Thái trẻ tuổi ở Mỹ) phản đối phản ứng yếu ớt của chính quyền Biden đối với các hành động của Israel. Hãy đọc dòng tweet này của Eran Etzion, cựu phó giám đốc Hội đồng An ninh Quốc gia Israel, và bạn sẽ hiểu rõ về thiệt hại mà Israel đã gây ra cho chính mình. Sau đó, hãy đọc bài tường thuật về chuyến thăm Israel gần đây của nhà sử học Omer Bartov, một trong những học giả hàng đầu thế giới về nạn diệt chủng, và bạn sẽ hiểu được vấn đề này sâu sắc như thế nào.
Thật chính xác khi đổ lỗi cho Netanyahu về tất cả những vấn đề này, và ông ta chắc chắn xứng đáng với những lời chỉ trích mà ông ta đã nhận được cả trong và ngoài nước. Nhưng việc đổ lỗi cho Netanyahu làm chúng ta quên một vấn đề sâu sắc hơn nhiều: sự xói mòn dần dần trong tư duy chiến lược của Israel trong 50 năm qua. Những thành tựu và năng lực chiến thuật của đất nước trong hai thập kỷ đầu tiên có xu hướng bị xói mòn – đặc biệt là đối với những người lớn tuổi. Mức độ mà các lựa chọn chiến lược quan trọng của Israel kể từ năm 1967 đã làm cho an ninh của nước này trở nên suy yếu.
Những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái đầu tiên và thế hệ lãnh đạo đầu tiên của Israel là những nhà chiến lược sắc sảo. Họ đã làm được một điều gần như bất khả thi: thành lập một nhà nước Do Thái ở giữa thế giới Ả Rập, mặc dù dân số Do Thái ở Palestine vào năm 1900 rất nhỏ và vẫn là một nhóm thiểu số rõ rệt khi Israel được thành lập vào năm 1948. Những người sáng lập đã thành công bằng phương pháp thực dụng đến độ tàn nhẫn: tận dụng các cơ hội thuận lợi, xây dựng lực lượng bán quân sự có năng lực (và sau đó là quân đội và không quân hạng nhất), và làm hết mức để giành được sự ủng hộ từ các cường quốc thống trị thế giới. Ví dụ, cần nhớ rằng cả Liên Xô và Hoa Kỳ đều ủng hộ Kế hoạch phân chia của Liên hợp quốc năm 1947 và cả hai đều công nhận Israel ngay sau khi thành lập. David Ben-Gurion và các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái của ông thường sẵn sàng chấp nhận các thỏa thuận vốn dĩ không đạt được mục tiêu ban đầu của họ, ít nhất là tạm thời, với điều kiện là các thỏa thuận đó đưa họ đến gần hơn với mục tiêu cuối cùng của mình.
Sau khi đạt được vị thế nhà nước, chính phủ mới đã làm việc cần cù để vun đắp sự ủng hộ của quốc tế thông qua hasbara (tuyên truyền) không ngừng nghỉ và để hình thành các liên minh làm việc với Pháp, Nam Phi và một số quốc gia khác. Quan trọng nhất, chính phủ đã thiết lập một “mối quan hệ đặc biệt” với Hoa Kỳ, chủ yếu dựa trên sức mạnh và ảnh hưởng ngày càng tăng của “nhóm vận động hành lang Israel”. Các nhà lãnh đạo đầu tiên của Israel hiểu rằng một quốc gia nhỏ bị bao quanh bởi các thế lực thù địch phải tính toán cẩn thận và nỗ lực hết sức để giành được sự ủng hộ của quốc tế. Ngoại giao khéo léo và không thiếu sự lừa dối cũng đã giúp Israel phát triển một kho vũ khí hạt nhân bí mật và che giấu những thực tế tàn khốc của thời kỳ thành lập Israel, điều này không được biết đến rộng rãi cho đến khi có tác phẩm có tính khai sáng của Benny Morris, Ilan Pappe, Avi Shlaim, Simha Flapan và những “nhà sử học mới” khác vào những năm 1980.
Không có chính phủ nào là hoàn hảo, và những nhà lãnh đạo đầu tiên của Israel đôi khi cũng mắc sai lầm. Ben-Gurion đã sai lầm khi thông đồng với Anh và Pháp tấn công Ai Cập trong cuộc khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956 và sau đó gợi ý rằng Israel có thể không rút quân. Tuy nhiên, ông đã nhanh chóng từ bỏ lập trường đó khi chính quyền Eisenhower tuyên bố rõ ràng rằng họ sẽ không dung thứ cho sự bành trướng vô lý như vậy. Nhưng nhìn chung, sự nhạy bén về mặt chiến lược của nhà nước Do Thái trong những ngày đầu là rất ấn tượng, đặc biệt là khi so sánh với các đối thủ của mình.
Bước ngoặt là chiến thắng ngoạn mục của Israel trong Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1967. Kết quả không kỳ diệu như nó xuất hiện vào thời điểm đó (trong số những thứ khác, tình báo Hoa Kỳ đã dự đoán rằng Israel sẽ dễ dàng giành chiến thắng), nhưng tốc độ và phạm vi của chiến thắng này đã khiến nhiều người bất ngờ và góp phần nuôi dưỡng cảm giác kiêu ngạo làm suy yếu năng lực phán đoán chiến lược của Israel kể từ đó.
Sai lầm chính, như các học giả Israel đã nhiều lần lập luận, là quyết định giữ lại, chiếm đóng và dần dần thuộc địa hóa Bờ Tây và Dải Gaza, như một phần của nỗ lực lâu dài nhằm tạo ra một “Đại Israel”. Ben-Gurion và những người theo ông đã tìm cách giảm thiểu số lượng người Palestine trong nhà nước Do Thái mới, nhưng việc giữ lại Bờ Tây và Dải Gaza có nghĩa là Israel hiện kiểm soát một dân số Palestine đang tăng nhanh chóng, gần bằng dân số người Do Thái Israel. Sự chiếm đóng này, như thường được gọi, đã tạo ra một căng thẳng không thể tránh khỏi giữa bản chất Do Thái của Israel và hệ thống dân chủ của nước này: Israel chỉ có thể duy trì một nhà nước Do Thái bằng cách đàn áp các quyền chính trị của người Palestine và tạo ra một hệ thống phân biệt chủng tộc, trong kỷ nguyên hiện tại, khi mà một trật tự chính trị như vậy là điều đáng nguyền rủa đối với số lượng người ngày càng tăng trên khắp thế giới. Israel có thể giải quyết vấn đề này thông qua việc thanh trừng sắc tộc và/hoặc diệt chủng bổ sung, nhưng cả hai đều là tội ác chống lại loài người mà không một người bạn thực sự nào của Israel có thể tán thành.
Menachem Begin (1913-1992) |
Những sai lầm khác sớm xảy ra sau quyết định theo đuổi một Israel vĩ đại. Các nhà lãnh đạo Israel (và những người đồng cấp Hoa Kỳ của họ, bao gồm cả Henry Kissinger) đã bỏ lỡ những dấu hiệu cho thấy Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat đã sẵn sàng hòa bình để đổi lấy việc trả lại Bán đảo Sinai mà Israel đã chiếm được vào năm 1967. Hơn nữa, tình báo Israel đã sai lầm khi cho rằng quân đội Ai Cập quá yếu để thách thức Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) ở Sinai, và do đó đã ngăn cản việc tham chiến. Kết quả của sự đánh giá sai lầm này là Chiến tranh tháng Mười năm 1973. Cho dù những thất bại ban đầu, Israel đã chiếm ưu thế trên chiến trường, nhưng thất bại trên bàn đàm phán sau chiến tranh. Chi phí của cuộc chiến, cùng với áp lực từ Hoa Kỳ, đã thuyết phục các nhà lãnh đạo Israel bắt đầu các cuộc đàm phán nghiêm túc để từ bỏ Sinai. Sự thay đổi này cuối cùng đã dẫn đến chuyến đi lịch sử của Sadat tới Jerusalem, Hiệp định Trại David và hiệp ước hòa bình Ai Cập-Israel sau đó (được đỡ đẻ bởi sự hòa giải kiên trì và khéo léo của Tổng thống Hoa Kỳ khi đó là Jimmy Carter). Thật không may, vì Thủ tướng Menachem Begin khi đó rất say sưa với mục tiêu của một Nhà nước “Đại Israel” và không muốn chấm dứt tình trạng chiếm đóng, nên ông đã bỏ lỡ cơ hội đầy hứa hẹn này để giải quyết vấn đề Palestine một lần và mãi mãi.
Ariel Sharon (1928-2014) |
Dấu hiệu rõ ràng tiếp theo của sự suy giảm năng lực phán đoán chiến lược là cuộc xâm lược Lebanon không thành công của Israel vào năm 1982. Kế hoạch này là đứa con tinh thần của Bộ trưởng Quốc phòng diều hâu Ariel Sharon, người đã thuyết phục Begin rằng một cuộc tấn công quân sự ở đó sẽ làm tan rã Tổ chức Giải phóng Palestine, hay PLO (có sự hiện diện đáng kể ở Lebanon), thành lập một chính phủ thân Israel tại Beirut và trao cho Israel toàn quyền kiểm soát Bờ Tây. Cuộc xâm lược là một thành công quân sự ngắn hạn, nhưng nó đã dẫn đến việc IDF chiếm đóng miền nam Lebanon, đến lượt nó, trực tiếp dẫn đến việc thành lập Hezbollah, lực lượng kháng cự ngày càng mạnh mẽ của họ cuối cùng đã buộc Israel phải rút khỏi Lebanon vào năm 2000. Và việc loại bỏ PLO khỏi Lebanon không ngăn cản được sự kháng cự của người Palestine: Thay vào đó, nó mở đường cho phong trào Intifada đầu tiên vào năm 1987, một dấu hiệu rõ ràng khác cho thấy người Palestine sẽ không rời bỏ quê hương của họ hoặc lùi bước trước sự khuất phục vĩnh viễn của Israel.
Mặc dù những người Israel có tầm nhìn xa đã nhận ra rằng vấn đề Palestine sẽ không biến mất, nhưng các chính phủ Israel liên tiếp vẫn tiếp tục hành động theo những cách khiến vấn đề trở nên tồi tệ hơn. Ví dụ, mặc dù PLO đã chấp nhận sự tồn tại của Israel bằng cách ký Hiệp định Oslo đầu tiên vào năm 1993, nhưng không có nhà lãnh đạo Israel nào từng sẵn sàng đề nghị để cho người Palestine thành lập nhà nước của riêng họ. Mặc dù lời đề nghị được cho là hào phóng do Thủ tướng Ehud Barak đưa ra tại hội nghị thượng đỉnh Camp David năm 2000 đã đi xa hơn bất kỳ đề xuất nào trước đó của Israel, nhưng vẫn chưa thể mang lại cho người Palestine một nhà nước khả thi. Lời đề nghị tốt nhất của Israel sẽ là tạo ra hai hoặc ba bang riêng biệt và phi quân sự ở Bờ Tây, với việc Israel vẫn giữ toàn quyền kiểm soát biên giới, không phận và tài nguyên nước của thực thể mới này. Đây không phải là một nhà nước khả thi, chứ đừng nói đến việc bất kỳ nhà lãnh đạo Palestine hợp pháp nào có thể chấp nhận. Không có gì ngạc nhiên khi cựu Bộ trưởng Ngoại giao Israel Shlomo Ben-Ami sau đó thừa nhận, “Nếu tôi là người Palestine, tôi sẽ từ chối Camp David.”
Để đạt được hòa bình với người Palestine, Israel phải ngừng mở rộng các khu định cư ở các Lãnh thổ bị Chiếm đóng và hợp tác với người Palestine để thành lập một chính phủ có năng lực, hiệu quả và hợp pháp. Thay vào đó, các nhà lãnh đạo Israel – đặc biệt là các chính phủ do Sharon và Netanyahu lãnh đạo – đã làm ngược lại. Họ từ chối ngừng mở rộng các khu định cư, làm mọi chuyện để giữ cho người Palestine suy yếu và chia rẽ ngay cả khi điều này có nghĩa là ngầm ủng hộ Hamas, và liên tục cản trở những nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm đạt được giải pháp hai nhà nước. Kết quả là một loạt các cuộc đụng độ mang tính hủy diệt nhưng không có hồi kết (như Chiến dịch Cast Lead năm 2008-09 và Chiến dịch Protective Edge năm 2014). Tuy nhiên, những nỗ lực liên tục này nhằm “nhổ cỏ” đã không chấm dứt được sự phản kháng của người Palestine và cuối cùng lên đến đỉnh điểm là cuộc tấn công xuyên biên giới của Hamas vào ngày 7 tháng 10, đòn giáng tồi tệ nhất vào Israel trong nhiều thập kỷ.
Một ví dụ cuối cùng, mang tính biểu tượng về sự thiển cận chiến lược của Israel là sự phản đối quyết liệt của họ đối với nỗ lực đàm phán quốc tế về giới hạn chương trình hạt nhân của Iran. Vì những lý do chiến lược chính đáng, Israel muốn vẫn là quốc gia duy nhất ở Trung Đông có vũ khí hạt nhân và không muốn thấy Iran, đối thủ khu vực hàng đầu của mình, sản xuất được bom. Do đó, Netanyahu và các nhà lãnh đạo Israel khác đáng lẽ phải vui mừng và nhẹ nhõm khi Hoa Kỳ và các cường quốc khác trên thế giới thuyết phục Iran ký Kế hoạch Hành động Toàn diện Chung năm 2015. Tại sao? Bởi vì nó yêu cầu Tehran phải giảm năng lực làm giàu, thu hẹp kho dự trữ urani đã làm giàu và chấp nhận các cuộc thanh tra sâu rộng từ Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, qua đó khiến bom nguyên tử của Iran nằm ngoài tầm với trong một thập kỷ và có thể lâu hơn nữa. Nhiều quan chức an ninh cấp cao của Israel đã khôn ngoan ủng hộ thỏa thuận này, nhưng Netanyahu và những người ủng hộ cứng rắn của ông, cùng với AIPAC và các nhóm diều hâu hơn trong nhóm vận động hành lang Israel tại Hoa Kỳ, đã kiên quyết phản đối. Những người theo đường lối cứng rắn này đã đóng vai trò chủ chốt trong việc thuyết phục Tổng thống Donald Trump khi đó từ bỏ thỏa thuận vào năm 2018, và ngày nay Iran đang tiến gần đến việc chế tạo bom hơn bao giờ hết. Thật khó để tưởng tượng ra một chính sách nào thiển cận hơn của Israel.
Điều gì giải thích cho sự suy giảm đáng kể về sự nhạy bén trong chiến lược của Israel? Một yếu tố quan trọng là cảm giác kiêu ngạo và vô trách nhiệm xuất phát từ sự tuyệt đối bảo vệ và tôn trọng của Hoa Kỳ đối với Israel. Nếu quốc gia hùng mạnh nhất thế giới ủng hộ bạn bất kể bạn làm gì, thì nhu cầu suy nghĩ cẩn thận về hành động của bạn chắc chắn sẽ giảm đi. Ngoài ra, xu hướng của Israel là chỉ coi mình là nạn nhân và đổ lỗi cho mọi sự phản đối đối với các chính sách của mình là do chủ nghĩa bài Do Thái không giúp ích gì, vì điều đó khiến các nhà lãnh đạo Israel và công chúng của họ khó nhận ra rằng hành động của chính họ có thể gây ra sự thù địch mà họ phải đối mặt. Sự cai trị của Netanyahu với tư cách là thủ tướng tại vị lâu nhất của Israel là một phần của vấn đề, đặc biệt là vì hành động của ông phần lớn là do lợi ích cá nhân (tức là mong muốn tránh án tù vì tham nhũng), không chỉ vì lo ngại về điều gì là tốt nhất cho đất nước của mình. Thêm vào đó là ảnh hưởng ngày càng tăng của phe cánh hữu tôn giáo – những người có quan điểm cứu thế về chính sách đối ngoại gần đây đã được tóm tắt trong một bài báo rùng rợn trên tờ Haaretz, và bạn có một công thức để chuẩn bị cho thảm họa. Khi bất kỳ quốc gia nào bắt đầu đưa ra quyết định chiến lược dựa trên những lời tiên tri về ngày tận thế và kỳ vọng vào sự can thiệp của thần thánh, thì chúng ta hãy cảnh giác.
Tại sao điều này lại quan trọng? Bởi vì như Hoa Kỳ đã thể hiện trong phản ứng của chính mình đối với ngày 11 tháng 9, các quốc gia không suy nghĩ thông minh về các lựa chọn chiến lược của mình có thể gây ra tác hại đáng kể cho chính họ và những người khác. Hành động của Israel đe dọa đến triển vọng dài hạn của chính họ, vì vậy bất kỳ ai muốn Israel có một tương lai tươi sáng đều nên đặc biệt quan tâm đến sự suy giảm phán đoán chiến lược của họ. Hành vi trả thù và thiển cận của họ đã gây ra tác hại to lớn cho những người Palestine vô tội trong nhiều thập kỷ và vẫn tiếp tục làm như vậy cho đến ngày nay, nhưng họ lại có rất ít khả năng chấm dứt sự phản kháng của người Palestine. Việc gắn bó chặt chẽ với một đối tác thất thường và thiếu suy nghĩ cũng là một vấn đề nghiêm trọng đối với Hoa Kỳ, vì nó liên tục ngốn thời gian, sự chú ý và nguồn lực và khiến Hoa Kỳ trông vừa kém hiệu quả vừa đạo đức giả. Nó cũng có thể truyền cảm hứng cho một làn sóng khủng bố chống Mỹ khác, với tất cả những thiệt hại rõ ràng mà kết quả này sẽ gây ra.
Thật không may, cũng khó để tìm ra phương cách để giải quyết tình hình này. Điều tốt nhất mà những người ủng hộ Israel tại Hoa Kỳ có thể làm là gây sức ép với cả đảng Dân chủ và Cộng hòa để sử dụng một liều lượng quan hệ cứng rắn đối với nhà nước Do Thái để họ bắt đầu xem xét lại quỹ đạo hiện tại của mình. Tất nhiên, điều đó cũng đòi hỏi các nhóm vận động hành lang như AIPAC phải suy ngẫm về vai trò của chính họ trong việc đưa Israel vào tình thế tiến thoái lưỡng nan hiện tại. Đáng tiếc là không có dấu hiệu nào cho thấy điều đó sẽ xảy ra trong thời gian tới. Thay vào đó, Israel và những người ủng hộ họ tại Hoa Kỳ đang tăng gấp bội. Đây là một đơn thuốc cho rắc rối không hồi kết, nếu không muốn nói là thảm họa.
./.
Stephen M. Walt là một chuyên gia viết bài cho Foreign Policy và là giáo sư về quan hệ quốc tế Robert và Renée Belfer tại Đại học Harvard. X: @stephenwalt
Nguồn nguyên tác: The Dangerous Decline in Israeli Strategy, ForeignPolicy.Com,
Nguồn bản dịch: Sự xuống dốc nguy hiểm về chiến lược của Israel, DienDanKhaiPhong.Org, 07.09.2024