NHỮNG NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL GIÚP GIẢI QUYẾT CÂU ĐỐ BẤT BÌNH ĐẲNG
![]() |
Ảnh chụp bởi Atila Altuntas/Anadolu, Getty Images |
Trong khi ngay cả những nền kinh tế nghèo nhất thế giới cũng giàu lên thêm trong những thập kỷ gần đây, họ vẫn còn tụt hậu rất xa so với các nền kinh tế có thu nhập cao hơn – và khoảng cách này không hề thu hẹp lại. Theo các nhà kinh tế đoạt giải Nobel năm nay, lý do chính nằm ở các thể chế. Từ quá trình tái thiết Ukraine đến việc quản lý trí tuệ nhân tạo, những tác động này có hệ quả quan trọng và tầm ảnh hưởng rộng khắp.
BỨC TRANH TOÀN CẢNH
Ngày 14 tháng
10 năm 2024 | Các biên tập
viên của PS
Giải Nobel Kinh tế năm nay đã được trao cho Daron
Acemoglu, Simon Johnson và James A. Robinson vì
đã mở mang sự hiểu biết của chúng ta về mối quan hệ giữa các thể chế và sự thịnh vượng.
Các công cụ lý thuyết để phân tích tại sao và khi nào các thể chế thay đổi của những học giả này đã nâng cao đáng kể khả năng giải
thích – và giải quyết – sự khác biệt lớn về sự giàu có giữa các quốc gia.
Thất bại của các nhà hoạch định chính sách trong việc
nắm bắt cách thức hoạt động của các thể chế hiện lên rõ
ràng ở Afghanistan. Như
Acemoglu đã giải thích vào năm 2021, “sự sụp đổ nhục nhã” của đất
nước này, và
việc Taliban tiếp quản sau cuộc rút quân hỗn loạn của Mỹ, phản ánh ý tưởng sai lầm sâu sắc rằng một “nhà
nước vận hành tốt” có thể được “áp đặt từ trên xuống bởi các lực lượng
nước ngoài”. Như ông và Robinson
đã chỉ ra trước đây, “cách tiếp cận này thật vô nghĩa khi khởi điểm bạn có là một
xã hội cực kỳ hỗn tạp thiết lập xung quanh các phong tục và chuẩn mực địa phương,
nơi các thể chế nhà nước đã vắng bóng
hoặc bị suy yếu từ lâu”.
Các nhà lãnh đạo không nên mắc phải những sai lầm tương tự trong quá trình
tái thiết Ukraine. Như Acemoglu và Robinson đã quan sát vào năm 2019, sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng
sản, đất nước này “vẫn kẹt trong các thể chế tham nhũng trong giới cầm quyền vốn đã tạo ra một nền văn hóa tham nhũng và phá hủy
lòng tin của công chúng”. Nếu Ukraine muốn phát triển sau khi cuộc chiến hiện tại
kết thúc thì
cần tránh việc khôi phục (áp đặt) từ trên xuống của các “thể chế tước
đoạt” [extractive institutions] trong quá
khứ, thay vào đó, cần huy động xã hội dân sự để “xây dựng các thể chế tốt hơn” từ
cơ sở.
Acemoglu và Johnson còn lập luận rằng việc hiểu rõ hơn về các thể chế cũng chỉ đường cho chính
sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Mặc dù sự trỗi dậy của ngành sản xuất Trung
Quốc dường như là ví dụ hoàn hảo cho “quy luật lợi thế so sánh” nổi tiếng của nhà kinh tế học thế kỷ 19 David Ricardo, Trung Quốc đã luôn dựa
vào các thể chế đàn áp để đạt được lợi thế đó.
Vì vậy, trái với giả định của quy luật Ricardo rằng mọi người đều
được lợi, sức mạnh kinh tế của Trung
Quốc “đe dọa sự ổn định toàn cầu và lợi ích của Hoa Kỳ” theo những cách mà Hoa Kỳ phải – và ngày càng ra sức – định hướng chính sách của
họ đối với quốc gia này.
Và không chỉ có Trung Quốc. Như Acemoglu đã chỉ ra, “dự án toàn cầu hóa hậu Chiến tranh Lạnh cũng tạo điều kiện cho chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy
trên toàn thế giới”, chẳng hạn như ở Hungary, Ấn Độ, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong bối
cảnh này, phương Tây phải suy nghĩ lại cách tiếp cận trong
việc giao thiệp, cả về kinh tế và
chính trị, với các quốc gia này.
Hồi đầu năm nay, Acemoglu và Johnson đã lưu ý rằng những hiểu biết sâu sắc của Ricardo cũng có liên quan đến các cuộc tranh luận về trí tuệ nhân tạo (AI). Việc máy móc “phá hủy hay tạo ra việc làm hoàn toàn phụ thuộc vào cách chúng ta triển khai chúng và vào những người đưa ra những lựa chọn đó”, họ viết, lưu ý rằng “cần có những cải cách chính trị lớn để tạo ra nền dân chủ thực sự, hợp pháp hóa các nghiệp đoàn, và thay đổi hướng tiến bộ công nghệ ở Anh trong Cách mạng Công nghiệp”. Tương tự như vậy, việc xây dựng AI “ủng hộ người lao động” ngày nay sẽ đòi hỏi chúng ta phải “thay đổi hướng đổi mới trong ngành công nghệ và đưa ra các quy định và thể chế mới”.
Theo Acemoglu, các nhà hoạch định chính sách nên tuân theo ba nguyên tắc sau. Đầu tiên, các biện pháp phải được đưa ra để giúp những người bị ảnh hưởng tiêu cực bởi “sự phá hủy mang tính sáng tạo” đi kèm với tiến bộ công nghệ. Thứ hai, “chúng ta không nên cho rằng sự đứt gãy là điều không thể tránh khỏi”. Ví dụ, thay vì thiết kế và triển khai AI “chỉ với mục đích tự động hóa” – một cách tiếp cận mà Acemoglu và Johnson đã chỉ ra sẽ có “những tác động khủng khiếp đến sức mua của người Mỹ” – chúng ta nên khai thác “tiềm năng to lớn của AI để giúp người lao động làm việc có năng suất hơn”. Cuối cùng, kỷ nguyên của những nhà đổi mới tiến nhanh và phá vỡ mọi thứ phải lùi vào quá khứ. Điều cấp bách là chúng ta cần “chú ý nhiều hơn đến việc làn sóng đổi mới mang tính đột phá tiếp theo có thể ảnh hưởng đến các thể chế xã hội, dân chủ và công dân của chúng ta ra sao”.
![]() |
Cung điện Tổng thống Afghanistan, Getty Images |
TẠI SAO VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC Ở AFGHANISTAN LẠI THẤT BẠI
Ngày 20 tháng 8 năm 2021 | Daron Acemoglu
Mặc dù Hoa Kỳ rõ ràng có thể làm tốt hơn trong việc quản lý quá trình rút quân
khỏi Afghanistan, nhưng thảm kịch diễn ra trong tháng này thực ra
đã âm ỉ suốt 20 năm qua. Ngay từ đầu,
Hoa Kỳ và các đồng minh đã chấp nhận – và không bao giờ cân nhắc lại – một
chiến lược xây dựng nhà nước áp đặt từ trên xuống vốn dĩ là tất
bại.
ISTANBUL – Hoa Kỳ đã xâm lược Afghanistan 20 năm
trước với hy vọng tái thiết một đất nước đã trở thành tai họa cho thế giới và cho chính người dân nước
này. Như Tướng Stanley McChrystal đã giải thích trước đợt tăng cường quân đội của Hoa Kỳ
vào năm 2009, mục tiêu là “chính phủ Afghanistan đủ sức kiểm soát lãnh thổ
của mình nhằm hỗ trợ ổn định trong khu vực và ngăn chặn việc sử dụng lãnh thổ cho mục
đích khủng bố quốc tế”.
Giờ đây, với hơn 100.000 người
đã chết và khoản chi khoảng 2 nghìn tỷ đô la (khoảng 46,4 triệu tỷ
VND ở thời điểm 8/2021 – ND), tất cả bằng chứng cho nỗ lực của nước Mỹ là cảnh tượng tuyệt
vọng tháo chạy khỏi Afghanistan trong tháng này – một sự sụp đổ nhục nhã gợi nhớ
đến sự sụp đổ của Sài Gòn năm 1975. Sai lầm nằm ở đâu?
Hầu như mọi thứ, nhưng không phải theo cách mà hầu hết mọi người nghĩ. Mặc dù việc
lập kế hoạch kém và thiếu thông tin tình báo chính xác chắc chắn đã góp phần
gây ra thảm họa, nhưng thực tế vấn đề này đã âm ỉ trong suốt 20 năm.
Hoa Kỳ đã sớm hiểu rằng cách duy nhất để tạo ra một quốc gia ổn định
với luật pháp và trật
tự có vẻ là
thiết lập các thể chế nhà nước vững mạnh. Được khuyến
khích bởi nhiều chuyên gia và các lý thuyết hiện
đã lỗi thời, quân đội Hoa
Kỳ coi đây là thách thức về mặt kỹ thuật: Afghanistan thiếu các thể chế nhà nước, lực lượng an ninh đang hoạt
động, tòa án và các viên chức có chuyên môn, vì vậy giải pháp là đổ nguồn lực vào và chuyển
giao chuyên môn từ người nước ngoài. Các tổ chức phi chính phủ (NGO) và mạng lưới viện trợ nước
ngoài rộng lớn từ phương Tây cũng đã đến hỗ trợ theo cách riêng của họ (bất kể
người dân địa phương có mong muốn hay không). Và vì công việc của họ đòi hỏi mức độ ổn định nhất định, nên binh lính nước ngoài – chủ yếu là lực lượng NATO, cùng một số nhà thầu tư
nhân – đã được triển khai để duy trì an ninh.
Khi xem việc xây dựng quốc gia là một quá trình từ trên xuống, “nhà nước là
trên hết”, các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ đã tuân theo một truyền thống lâu
đời trong khoa học chính trị.
Giả định đặt ra ở đây là nếu
có thể thiết lập ưu thế quân sự áp đảo trên một lãnh thổ và khuất phục mọi nguồn quyền lực khác, thì bạn có
thể áp đặt ý chí của mình lên đó. Tuy nhiên, ở hầu hết các nơi, lý thuyết này nhiều nhất cũng chỉ đúng một
phần; và ở
Afghanistan thì hoàn toàn sai lầm.
Tất nhiên, Afghanistan cần một nhà nước vận hành được. Nhưng suy định rằng một nhà nước có thể bị áp đặt từ trên xuống bởi các thế lực nước ngoài là sai lầm. Như James Robinson và tôi lập luận trong cuốn sách năm 2019, The Narrow Corridor, cách tiếp cận này không có ý nghĩa gì khi khởi điểm là một xã hội cực kỳ không đồng nhất được tổ chức xung quanh các phong tục và chuẩn mực địa phương, nơi các thể chế nhà nước từ lâu đã vắng bóng hoặc bị suy yếu.
Đúng là cách tiếp cận từ trên xuống đối với việc xây dựng nhà nước từng có hiệu quả trong một số trường hợp (như triều đại nhà Tần ở Trung Quốc hoặc Đế chế Ottoman). Nhưng hầu hết các nhà nước được xây dựng không phải bằng vũ lực mà bằng sự thỏa hiệp và hợp tác. Quá trình tập trung hóa quyền lực thành công dưới sự lãnh đạo của các thể chế nhà nước thường liên quan đến sự đồng thuận và hợp tác từ chính người dân. Trong mô hình này, xã hội không bị áp đặt bởi một nhà nước trái với mong muốn của nó; thay vào đó, các thể chế nhà nước xây dựng tính chính danh bằng cách đảm bảo chút ít ủng hộ từ người dân.
Điều này không có nghĩa là Hoa Kỳ nên hợp tác với Taliban. Mà nghĩa là Hoa Kỳ nên hợp
tác chặt chẽ hơn với các nhóm địa phương khác nhau, thay vì đổ nguồn lực vào chế
độ tham nhũng, không có tính đại diện của vị tổng thống Afghanistan hậu Taliban đầu tiên, Hamid Karzai (và các
anh em của ông). Ashraf Ghani, tổng
thống Afghanistan được Hoa Kỳ hậu thuẫn đã chạy trốn đến Các Tiểu vương quốc Ả
Rập Thống nhất vào tuần này, là đồng tác giả một cuốn sách xuất bản năm 2009 cung cấp tư liệu
cho thấy chiến lược này đã thúc đẩy
tham nhũng và không đạt được mục đích đã định ra sao. Tuy nhiên, sau khi nắm quyền, Ghani vẫn tiếp tục
đi theo con đường đó.
Tình hình mà Hoa Kỳ phải đối mặt ở Afghanistan thậm chí còn tệ hơn so với
tình hình điển hình của những người xây dựng quốc gia đầy tham vọng. Ngay từ đầu,
người dân Afghanistan đã coi sự hiện diện của Hoa Kỳ là một hoạt động nước
ngoài nhằm làm suy yếu xã hội của họ. Đó không phải giao
kèo mà họ muốn.
Điều gì xảy ra khi những nỗ lực xây dựng nhà nước từ trên xuống đang diễn
ra trái với mong muốn của xã hội? Ở nhiều nơi, lựa chọn hấp dẫn duy nhất là rút
lui. Đôi khi, điều này diễn ra dưới hình thức di cư (khỏi vùng đất đó), như James C. Scott đã chỉ ra trong The Art of Not
Being Governed (tạm dịch: Nghệ thuật
không bị cai trị – ND), một nghiên cứu của ông về
người Zomia ở Đông Nam Á. Hoặc đó có thể là chung sống mà
không hợp tác, như trường hợp của người Scotland ở Anh hoặc người
Catalan ở Tây Ban Nha. Nhưng trong một xã hội có tinh
thần độc lập
mãnh liệt, được trang bị vũ khí tốt với truyền thống lâu đời về thù hận truyền kiếp và lịch sử nội chiến gần đây, phản ứng khả dĩ hơn là xung đột bạo
lực.
Có lẽ mọi chuyện đã có thể diễn biến khác nếu Cơ quan Tình báo Liên ngành Pakistan (Inter-Services Intelligence – ISI) không hỗ trợ Taliban khi lực lượng này bị đánh bại về mặt quân sự, nếu các cuộc tấn công
bằng máy bay không người lái của NATO không khiến dân chúng thêm căm phẫn, và nếu giới tinh hoa Afghanistan được Hoa Kỳ hậu
thuẫn không tham nhũng quá mức. Nhưng tình thế hoàn toàn bất
lợi cho chiến lược đặt nhà nước lên
hàng đầu của Hoa Kỳ.
Và thực tế là, giới lãnh đạo Hoa Kỳ đáng lẽ phải biết rõ hơn. Như Melissa Dell và Pablo
Querubín đã ghi chép lại, Hoa Kỳ đã áp dụng chiến lược áp đặt từ trên xuống tương
tự ở Việt Nam, và nó đã phản tác dụng một cách ngoạn mục. Những nơi bị dội bom nhằm chế ngự Việt Cộng thậm
chí còn ủng hộ cuộc nổi dậy chống Mỹ mạnh mẽ hơn nữa.
Thậm chí, điều đáng nói hơn là kinh nghiệm gần đây của quân đội Hoa Kỳ tại
Iraq. Như nghiên cứu của Eli Berman, Jacob Shapiro và Joseph Felter chỉ ra, “chiến lược tăng quân đột
biến” [surge] ở Iraq đã hoạt động tốt hơn nhiều khi người Mỹ cố gắng giành được trái tim
và khối óc bằng cách vun đắp sự ủng hộ của các nhóm địa phương. Tương tự như vậy, công trình của riêng tôi với Ali Cheema, Asim Khwaja và
James Robinson phát hiện ra rằng ở vùng nông thôn Pakistan, chính xác là mọi người chuyển sang
các tác nhân phi nhà nước khi họ nghĩ rằng các thể chế nhà nước không hiệu quả
và xa lạ với mình.
Những điều trên
không có nghĩa là việc rút quân không
thể được thực hiện tốt hơn. Nhưng sau 20 năm nỗ lực sai lầm, Mỹ đã định chắc phải thất bại
trong mục tiêu kép của mình là rút khỏi Afghanistan và để lại một xã hội ổn định,
dựa trên pháp luật.
Kết quả là một thảm kịch nhân đạo nặng nề. Ngay cả khi Taliban không tái diễn những hành vi tồi
tệ nhất như trong quá khứ, đàn ông Afghanistan và đặc biệt là phụ nữ sẽ phải trả giá đắt cho những
thất bại của nước Mỹ trong nhiều năm và hàng thập kỷ tới.
![]() |
Spencer Platt/Getty Images |
LÀM CÁCH NÀO ĐỂ NGĂN CHẶN THAM NHŨNG Ở UKRAINE
Ngày 14 tháng 10 năm 2019 | Daron Acemoglu, James A. Robinson
Về mặt tăng trưởng kinh tế, những trải nghiệm của Ba Lan và Ukraine trong những
thập kỷ kể từ khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ là hai gam
màu tương phản. Trong khi Ba
Lan nhận lấy sức mạnh của xã hội dân sự dân chủ và trở nên giàu có hơn, Ukraine vẫn
bị mắc kẹt bởi các thể chế tham nhũng đã tạo ra một nền văn hóa tham nhũng và phá hủy lòng tin của
công chúng.
CAMBRIDGE – Trong khoảnh khắc phấn khích ngay sau
khi Liên Xô sụp đổ, ít ai ngờ rằng Ukraine – một quốc gia công nghiệp hóa với lực
lượng lao động có trình độ và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú – sẽ phải chịu tình trạng trì
trệ trong 28 năm tới. Trong khi nước láng giềng Ba Lan, vốn nghèo hơn Ukraine vào
năm 1991, đã xoay xở để tăng gần gấp ba lần GDP bình quân đầu người (theo sức
mua tương đương) trong ba thập kỷ tiếp theo.
Hầu hết người dân Ukraine đều biết lý do tại sao họ
tụt hậu: Ukraine là một trong những
quốc gia tham nhũng nhiều nhất thế giới. Nhưng tham nhũng không tự nhiên mà
có, vậy nên câu
hỏi thực sự là cái gì đã tạo ra nó.
Giống như các nước cộng hòa Xô Viết khác, quyền lực ở Ukraine từ lâu đã tập
trung vào tay giới tinh hoa của Đảng Cộng sản, vốn là những người thường được Điện Kremlin bổ nhiệm.
Nhưng Đảng Cộng sản Ukraine thực chất là sản phẩm do Đảng Cộng sản Nga cấy vào
đất nước này, và thường xuyên hoạt động nhằm bòn rút người dân bản xứ Ukraine.
Hơn nữa, giống như hầu hết các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ khác (trừ các
nước Baltic), quá trình chuyển đổi khỏi chủ nghĩa cộng sản của Ukraine được
lãnh đạo bởi những cựu tinh hoa cộng sản đã tự tái tạo mình thành những nhà
lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc. Đây vốn là chuyện
không hiệu quả ở bất cứ đâu. Nhưng
trong trường hợp Ukraine, tình hình đã trở nên tồi tệ hơn do cuộc đấu tranh
liên tục giành quyền lực giữa các nhóm tinh hoa cộng sản cạnh tranh
nhau và các nhà
tài phiệt mà họ đã tiếp tay tạo ra và để cho phát triển lan tràn.
Do sự thống trị của nhiều phe phái đối địch, Ukraine đã bị chiếm giữ
bởi những gì chúng tôi gọi là các thể chế tước đoạt
[extractive institutions]: các thỏa thuận xã hội trao quyền cho một bộ phận nhỏ của xã hội và tước đi tiếng nói chính
trị của phần còn lại. Bằng cách đánh nghiêng vĩnh viễn sân chơi kinh tế, các cuộc dàn xếp này từ lâu đã
ngăn cản đầu tư và đổi mới cần thiết cho tăng trưởng bền vững.
Sẽ không thể hiểu được tham
nhũng nếu không thể hiểu thấu đáo bối cảnh
thể chế rộng hơn này. Ngay cả khi nạn hối lộ và vụ lợi cá
nhân ở Ukraine đã được kiểm soát, các
thể chế tước đoạt vẫn sẽ cản trở tăng trưởng. Ví dụ như
ở Cuba, khi Fidel Castro lên nắm quyền và ngăn chặn nạn tham nhũng của chế độ
trước, nhưng lại thiết lập một loại hệ thống tước đoạt khác. Giống như chứng nhiễm trùng thứ phát, tham nhũng khuếch đại sự kém hiệu quả do các thể
chế tước đoạt tạo ra. Và căn bệnh này đã trở nên đặc biệt trầm trọng ở Ukraina,
do sự mất lòng tin hoàn toàn vào các thể chế.
Các xã hội hiện đại dựa vào mạng lưới phức tạp của các thể chế để giải
quyết tranh chấp, điều tiết thị trường và phân bổ nguồn lực. Nếu không có sự
tin tưởng của công chúng, các thể chế này không thể thực hiện đúng chức năng của chúng. Một khi những
công dân bình thường bắt đầu cho rằng thành công phụ thuộc vào các mối quan hệ
và hối lộ, thì giả định đó sẽ trở thành một lời tiên tri tự ứng nghiệm. Thị trường
bị thao túng,
công lý biến thành món hàng và các chính trị gia bán mình cho người trả giá
cao nhất. Theo thời gian, “văn hóa tham nhũng” này sẽ ngấm
vào xã hội. Ở Ukraine, ngay cả các
trường đại học cũng bị dàn xếp: bằng cấp thường xuyên bị đem ra mua bán.
Mặc dù tham nhũng chỉ là triệu chứng hơn là nguyên
nhân cho các vấn đề của Ukraine, văn
hóa tham nhũng phải bị xóa bỏ trước khi tình hình cải
thiện được. Người ta có thể cho rằng
điều này chỉ đơn giản là cần một nhà nước mạnh mẽ, với các phương tiện giúp
loại bỏ các chính trị gia và doanh
nhân tham nhũng. Than ôi, chuyện không đơn giản như vậy. Chiến dịch chống tham nhũng của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình là minh chứng, động thái áp đặt từ trên
xuống thường trở thành cuộc săn phù thủy chống lại các đối thủ chính trị của
chính phủ, thay vì trấn áp hành vi tham nhũng nói chung. Hiển nhiên, áp dụng tiêu
chuẩn kép không phải là cách hiệu quả để tạo dựng lòng tin
Thay vào đó, việc chống tham nhũng hiệu quả đòi hỏi sự tham gia mạnh mẽ của xã hội dân sự. Thành công phụ thuộc vào việc tăng cường tính minh bạch,
đảm bảo tính độc lập của ngành tư pháp và trao quyền loại bỏ các chính trị gia
tham nhũng cho công dân bình thường. Xét cho cùng, đặc điểm nổi bật của quá
trình chuyển đổi hậu cộng sản của Ba Lan không phải là sự lãnh đạo từ trên xuống
hiệu quả hay sự ra đời của thị trường tự do. Đó là sự tham gia trực tiếp của xã
hội Ba Lan vào việc xây dựng các thể chế hậu cộng sản của đất nước từ bước cơ sở.
Chắc rằng, nhiều nhà kinh tế phương Tây đổ về Warsaw sau khi Bức tường Berlin sụp đổ
đã ủng hộ việc tự do hóa thị trường theo hướng áp đặt từ trên xuống. Nhưng những đợt “liệu pháp sốc” đầu
tiên của phương Tây đã dẫn đến tình trạng sa thải và phá sản tràn lan, gây ra
phản ứng xã hội rộng khắp do các nghiệp đoàn dẫn đầu. Người Ba Lan đổ ra đường, và các cuộc đình
công tăng vọt về tần suất – từ khoảng 215 cuộc vào năm
1990 lên hơn 6.000 cuộc vào năm 1992 và hơn 7.000 vào năm 1993.
Bỏ qua (lời
khuyên) các chuyên gia phương Tây,
chính phủ Ba Lan đã lùi bước trong các chính sách từ trên xuống của mình, và
thay vào đó tập trung vào việc xây dựng sự đồng thuận chính trị xung quanh một
tầm nhìn chung về cải cách. Các công đoàn được đưa vào bàn đàm phán, nhiều nguồn
lực hơn được phân bổ cho khu vực nhà nước và một loại thuế thu nhập lũy tiến mới
được đưa ra. Chính những phản ứng này từ chính phủ đã tạo dựng lòng tin vào các
thể chế hậu cộng sản. Và theo thời gian, chính những thể chế đó đã ngăn chặn
các nhà tài phiệt và giới tinh hoa cộng sản trước đây chiếm đoạt quá trình chuyển
đổi, lan truyền và bình thường hóa nạn tham nhũng.
Ngược lại, Ukraine (cũng như Nga) đã nhận đủ “tư nhân hóa” và “cải cách thị trường” áp đặt từ trên xuống. Thậm
chí không cần phải giả vờ trao quyền cho xã hội dân sự,
không khó để đoán ra, quá trình chuyển
đổi đã bị các nhà tài phiệt và tàn dư của KGB chiếm đoạt.
Liệu một cuộc huy động toàn xã hội có còn khả thi ở một đất nước đã phải gánh chịu giới lãnh đạo tham nhũng
và các thể chế tước đoạt lâu như Ukraine không? Câu trả lời ngắn gọn là có.
Ukraine là nơi có dân số trẻ, tham gia chính trị, như chúng ta đã thấy trong Cách mạng màu da Cam năm 2004-2005
và trong Cách mạng Maidan năm 2014. Điều quan trọng không kém nữa là, người dân Ukraine hiểu rằng tham nhũng phải bị
nhổ tận gốc để xây dựng các thể chế tốt hơn. Tổng thống mới của họ, Volodymyr
Zelensky, đã vận động tranh cử với lời hứa chống tham nhũng và đã được bầu với số phiếu áp đảo. Ông hiện phải khởi động quá
trình thanh lọc.
Những nỗ lực của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump nhằm lôi kéo Ukraine vào
các giao dịch tham nhũng của chính mình đã cho Zelensky cơ hội hoàn hảo để thực
hiện một cử chỉ mang tính biểu tượng. Ông nên công khai từ chối giao dịch với
người Mỹ cho đến khi họ giải quyết được các vấn đề tham nhũng của chính họ (kể
cả khi điều đó có nghĩa là từ chối nguồn viện trợ “ô uế”).
Rốt cuộc, Hoa Kỳ hiện là một trong những quốc gia có
ít tư cách thuyết giảng cho Ukraine về
nạn tham nhũng nhất. Để có thể tái đảm nhận vai trò đó, tòa án và cử tri của nước này sẽ phải làm rõ rằng
hành vi sai trái, tấn công vào các thể chế dân chủ và vi phạm lòng tin của công
chúng của chính quyền Trump sẽ không được dung thứ. Chỉ khi đó, Hoa Kỳ mới trở thành hình mẫu đáng noi theo.
![]() |
Que Hure/VCG, Getty Images |
VẤN ĐỀ THỰC SỰ CỦA TRUNG QUỐC TẠI MỸ
Ngày 6 tháng 11 năm 2023 | Daron Acemoglu, Simon
Johnson
Mặc dù lý thuyết kinh tế chính thống cho rằng mọi quốc gia đều hưởng lợi khi khai thác lợi thế so sánh của mình,
lý thuyết này có thể gặp vấn đề khi bị áp dụng một cách mù quáng vào thế giới thực. Trong
trường hợp của Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã không xem xét lý do tại
sao quốc gia này bộc lộ những thế mạnh như vậy.
BOSTON – Thay vì cho rằng càng
nhiều thương mại quốc tế càng tốt cho người lao động
Mỹ và an ninh quốc gia, chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden muốn đầu tư vào năng lực công nghiệp trong nước
và củng cố mối quan hệ chuỗi cung ứng với các quốc gia đồng minh. Tuy nhiên, dù
sự điều chỉnh cách nhìn nhận này đáng hoan nghênh, chính sách mới có lẽ chưa đủ mạnh, đặc biệt
là trong việc giải quyết vấn đề do Trung Quốc đặt ra.
Tình hình chung
(của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ - ND) trong tám thập kỷ qua là “tâm thần phân liệt”. Trong khi Hoa Kỳ theo đuổi chính sách đối ngoại
hung hăng – và đôi khi bất chấp đạo lý – ủng hộ các nhà độc tài và đôi lúc là các cuộc đảo chính
do CIA khởi xướng, thì Hoa Kỳ cũng chấp nhận toàn cầu hóa, thương mại quốc tế
và hội nhập kinh tế với danh nghĩa mang lại sự thịnh vượng và khiến thế giới
thân thiện hơn với lợi ích của Hoa Kỳ.
Giờ đây trạng thái này đã sụp đổ hoàn toàn, các nhà hoạch định chính sách cần đưa ra một bản thay thế nhất quán. Để đạt được mục
đích đó, có
hai nguyên tắc mới có thể tạo nền móng cho chính sách của Hoa Kỳ. Thứ nhất, thương mại quốc
tế nên được cấu trúc theo cách khuyến khích một trật tự thế giới ổn định. Nếu
việc mở rộng thương mại đưa nhiều tiền hơn vào tay những kẻ cực đoan tôn giáo
hoặc những kẻ độc tài muốn phục thù, sự ổn định toàn cầu và lợi ích của Hoa Kỳ sẽ bị ảnh
hưởng. Cũng như Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã nói vào năm 1936, “chế độ chuyên quyền trong các vấn đề thế giới đe dọa hòa bình”.
Thứ hai, việc kêu gọi một cách trừu tượng về “lợi ích thương mại” không còn đủ nữa. Người lao động
Mỹ cần thấy được lợi ích thiết thực. Bất kỳ thỏa thuận thương mại nào làm suy yếu
đáng kể chất lượng và số lượng việc làm của tầng lớp trung lưu Mỹ đều có hại
cho đất nước và người dân, và có khả năng sẽ kích động phản ứng chính trị.
Trong lịch sử, đã có những ví dụ quan trọng về việc mở rộng thương mại mang lại cả quan hệ
quốc tế hòa bình lẫn thịnh vượng chung. Tiến bộ đạt được từ hợp tác kinh tế Pháp-Đức sau Thế chiến
II đến Thị trường chung châu Âu cho tới Liên minh châu Âu là một ví dụ điển hình. Sau nhiều
thế kỷ chiến tranh đẫm máu, châu Âu đã tận hưởng tám thập kỷ hòa bình và ngày
càng thịnh vượng, với một số trở ngại nhỏ. Người lao động châu Âu được hưởng lợi nhiều hơn
nhờ kết quả này.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ có một lý do khác để áp dụng khẩu hiệu “luôn tăng cường
thương mại” trong và sau Chiến tranh Lạnh: cụ thể là để đảm bảo lợi nhuận dễ
dàng cho các công ty Mỹ, những công ty kiếm tiền thông qua chênh lệch thuế và bằng
cách thuê ngoài một số bộ phận trong chuỗi sản xuất của họ cho các quốc gia
cung cấp lao động giá rẻ.
Khai thác nguồn lao động giá rẻ có vẻ phù hợp với “quy
luật lợi thế so sánh” nổi tiếng của nhà kinh tế học thế kỷ 19 David
Ricardo, cho thấy nếu mỗi quốc gia chuyên môn hóa về những
gì mình giỏi, thì trung bình mọi người
sẽ khá giả hơn.
Nhưng vấn đề phát sinh khi lý thuyết này được áp dụng một cách mù quáng vào thế
giới thực.
Đúng là,
vì có chi phí lao động
thấp hơn, quy luật Ricardo cho rằng Trung Quốc nên chuyên về sản xuất hàng hóa thâm dụng lao động và xuất khẩu
sang Hoa Kỳ. Nhưng ta vẫn phải hỏi lợi thế so sánh đó đến từ đâu, ai được lợi từ
nó và những thỏa thuận thương mại như vậy ngụ ý gì cho tương lai.
Câu trả lời, trong mỗi trường hợp, đều liên quan đến các thể chế. Ai có quyền quyền sở hữu tài sản được bảo đảm và bảo vệ trước pháp luật, và quyền con người của ai có thể bị xâm phạm hoặc không?
Lý do miền Nam Hoa Kỳ là nơi cung cấp bông cho thế giới vào những năm 1800 không chỉ do điều kiện nông nghiệp tốt
và “nhân công giá rẻ”. Chính chế độ nô lệ đã mang lại lợi thế so sánh cho miền
Nam. Nhưng trật tự (xã hội) này có những tác động khủng khiếp. Những chủ nô miền
Nam đã giành được quá nhiều quyền lực đến mức họ có thể gây ra cuộc xung đột chết chóc nhất của thời cận đại, cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.
Tình hình đó cũng không khác gì dầu mỏ
ngày nay. Nga, Iran và Ả Rập Xê Út có
lợi thế so sánh về sản xuất dầu mỏ, và nhờ đó mà các nước công nghiệp hóa trả
cho họ một
khoản hậu hĩnh. Nhưng các thể chế đàn
áp của các nước này đảm bảo rằng người dân không được hưởng lợi từ sự giàu có về tài nguyên, và
họ ngày càng tận dụng những lợi ích từ lợi thế
so sánh của mình để gây bất ổn khắp thế giới.
Ban đầu Trung Quốc có vẻ khác vì mô hình xuất khẩu của họ đã giúp hàng trăm triệu
người thoát khỏi đói nghèo và cho ra đời tầng lớp trung lưu đông đảo. Nhưng Trung Quốc đạt “lợi thế so sánh” trong sản xuất của mình nhờ các thể chế đàn áp.
Người lao động Trung Quốc có ít quyền lợi và thường làm việc trong các điều kiện nguy
hiểm, và nhà nước dựa vào
trợ cấp và tín dụng giá rẻ để hỗ trợ các công ty xuất khẩu của mình.
Đây không phải là lợi thế so sánh mà Ricardo đã
nghĩ. Thay vì cuối cùng là làm lợi cho tất cả mọi người, các chính sách của Trung Quốc lại gây tổn hại đến người lao động Mỹ, những người nhanh chóng mất việc làm trước sự
gia tăng không kiểm soát của hàng nhập khẩu từ Trung Quốc vào thị trường Hoa Kỳ,
đặc biệt là sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO năm 2001. Khi nền kinh
tế Trung Quốc phát triển, Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể đầu tư vào loạt công nghệ đàn áp thậm chí còn phức tạp
hơn.
Quỹ đạo của Trung Quốc không hứa hẹn tương lai tốt đẹp. Có thể nước này chưa phải là một quốc gia bị cô lập, nhưng sức mạnh
kinh tế ngày càng tăng của nước này đe dọa sự ổn định toàn cầu và lợi ích của
Hoa Kỳ. Trái ngược với những gì một số nhà khoa học
xã hội và nhà hoạch định
chính sách tin tưởng, tăng trưởng kinh tế không làm cho Trung Quốc trở nên dân
chủ hơn (hai thế kỷ qua đã cho thấy tăng trưởng dựa trên khai thác và bóc lột
hiếm khi làm được điều đó).
Vậy, làm thế nào để Hoa Kỳ đặt sự ổn định toàn cầu và người lao động vào
trung tâm của chính sách kinh tế quốc tế? Trước hết, các công ty Hoa Kỳ nên được khuyến khích không đặt
các mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng sản xuất tại các quốc gia như
Trung Quốc. Cựu Tổng thống Jimmy Carter từng bị chế giễu vì nhấn mạnh tầm quan trọng của nhân quyền trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, nhưng
ông đã đúng. Cách duy nhất để đạt được một trật tự thế
giới ổn định hơn là đảm bảo rằng các
quốc gia thực sự dân chủ sẽ thịnh vượng.
Những ông chủ doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận không phải là những người duy
nhất đáng trách ở đây. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ lâu đã đầy rẫy mâu thuẫn, với việc CIA
thường xuyên phá hoại các chế độ dân chủ không phù hợp với lợi ích quốc gia hoặc
thậm chí là lợi ích của
các tập đoàn Hoa Kỳ. Phát triển một cách tiếp cận
có nguyên tắc hơn là điều cần thiết. Nếu không, những tuyên bố của Hoa Kỳ về việc
bảo vệ nền dân chủ hoặc nhân quyền vẫn là không thành
thật.
Thứ hai, chúng ta phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế
trung hòa carbon, đây là cách duy nhất để vô hiệu hóa các quốc gia dầu mỏ bị cô lập (điều này cũng có lợi
cho việc tạo ra việc làm tại Hoa Kỳ). Nhưng chúng ta cũng phải tránh bất kỳ sự
phụ thuộc mới nào vào Trung Quốc để gia công các khoáng sản thiết yếu hoặc các đầu vào “xanh” quan trọng khác. May mắn
thay, còn rất nhiều quốc gia
khác là nguồn cung đáng tin cậy cho các đầu vào này, bao gồm Canada, Mexico, Ấn Độ và Việt Nam.
Cuối cùng, chính sách công nghệ phải trở thành một thành phần chủ chốt của
quan hệ kinh tế quốc tế. Nếu Hoa Kỳ ủng hộ sự phát triển của các công nghệ có lợi
cho vốn hơn là lao động (thông qua tự động hóa, chuyển dịch ra nước ngoài và
chênh lệch thuế quốc tế), chúng ta sẽ kẹt trong cùng một trạng thái cân bằng tồi
tệ như nửa thế
kỷ qua. Nhưng
nếu chúng ta đầu tư vào các công nghệ hướng tới người lao động giúp xây dựng chuyên môn và năng suất tốt hơn, chúng
ta có cơ hội khiến lý thuyết của Ricardo vận hành đúng
với bản chất của nó.
![]() |
Ritesh Shukla, Getty Images |
HIỂU VỀ CHỦ NGHĨA DÂN TỘC MỚI
Ngày 8 tháng 6 năm 2022 | Daron Acemoglu
Dù chắc chắn mang lại lợi ích to lớn, dự án toàn cầu hóa hậu Chiến tranh Lạnh cũng
tạo điều kiện cho chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy trên toàn thế giới. Với uy tín quốc
tế đang ở mức thấp, các nhà hoạch định chính sách phương Tây sẽ cần phải suy
nghĩ lại về cách họ tham gia về mặt kinh tế và chính trị với các quốc gia đã chấp
nhận dự án này.
CAMBRIDGE – Niềm hân hoan sau khi Bức tường Berlin
sụp đổ năm 1989 không chỉ là về cái mà Francis Fukuyama gọi là “chiến thắng đầy tự tin của chủ nghĩa tự do kinh tế và chính trị”. Mà còn luôn cả về sự suy tàn của
chủ nghĩa dân tộc. Khi nền kinh tế thế giới đang nhanh chóng trở nên hợp
nhất hơn, người ta cho rằng mọi người
sẽ từ bỏ bản sắc dân tộc của mình. Dự án hợp nhất châu Âu – được những người trẻ tuổi có trình độ học vấn cao và có xu hướng
thăng tiến trong xã hội nhiệt tình ủng hộ – không chỉ là mang tính siêu quốc gia mà còn là hậu
quốc gia [post-national].
Nhưng chủ nghĩa dân tộc đang quay trở lại và đóng vai trò trung tâm trong chính trị toàn cầu. Xu hướng này không
chỉ giới hạn ở Hoa Kỳ hay Pháp, những nước mà theo thứ
tự cựu Tổng thống Donald Trump và nhà
lãnh đạo Đảng cực hữu National Rally Marine Le Pen dẫn dắt các liên minh dân tộc chủ nghĩa mới. Chủ nghĩa dân
tộc cũng đang thúc đẩy các phong trào dân túy ở Hungary, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và
nhiều quốc gia khác. Trung Quốc đã chấp nhận một chủ nghĩa dân tộc độc tài mới, và Nga thì phát động một cuộc chiến
tranh dân tộc chủ nghĩa nhằm xóa sổ quốc gia Ukraine.
Có ít nhất ba yếu tố thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc mới. Đầu tiên, nhiều quốc
gia bị ảnh hưởng mang trong mình những mối bất bình lịch sử. Ấn Độ đã bị Anh bóc lột một cách có
hệ thống dưới chế độ
thực dân, và Đế chế Trung Hoa đã bị suy yếu, bị sỉ nhục và bị khuất phục
trong Chiến tranh thuốc
phiện thế kỷ XIX. Chủ nghĩa dân tộc Thổ
Nhĩ Kỳ hiện đại được khơi gợi bởi ký ức về sự chiếm đóng của
phương Tây đối với phần
lớn đất nước sau Thế chiến I.
Thứ hai, toàn cầu hóa làm gia tăng những căng thẳng vốn có. Nó không chỉ làm trầm trọng thêm bất
bình đẳng ở nhiều quốc gia (thường theo cách bất
công, bằng cách làm giàu cho những
người có mối quan hệ chính trị); mà còn làm xói mòn các truyền thống lâu đời và chuẩn mực xã hội.
Và thứ ba, các nhà lãnh đạo chính trị ngày càng lão
luyện và vô đạo
đức trong việc khai thác chủ nghĩa
dân tộc để phục vụ cho các chương trình nghị sự của riêng họ. Ví dụ, dưới chế
độ độc tài của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, tình cảm dân tộc chủ nghĩa
đang được vun đắp thông qua chương trình giảng dạy
trung học mới
và các chiến dịch tuyên truyền.
Tương tự, dưới chế độ Hindutva theo
chủ nghĩa dân tộc của Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, nền dân chủ lớn nhất thế
giới đã khuất phục trước chủ nghĩa phi tự do ưu tiên số
đông [majoritarian illiberalism]. Ở
Thổ Nhĩ Kỳ, Tổng thống Recep Tayyip Erdoğan ban đầu đã tránh xa chủ nghĩa dân tộc,
thậm chí còn đi đầu trong tiến trình hòa bình với người Kurd vào
đầu những năm 2010. Nhưng kể từ đó, ông đã hoàn toàn ủng hộ chủ nghĩa dân tộc
và đàn áp các phương tiện truyền thông độc lập, các
nhà lãnh đạo đối lập và những người bất đồng chính kiến.
Chủ nghĩa dân tộc ngày nay cũng là một phản ứng tự củng cố đối với dự án
toàn cầu hóa hậu Chiến tranh Lạnh. Năm 2000, ứng cử viên tổng thống khi đó là
George W. Bush đã mô tả thương mại tự do là “một đồng minh quan trọng
trong cái mà Ronald Reagan gọi là 'một chiến lược tiến tới tự do'... Thương mại tự do với Trung
Quốc, và thời gian sẽ chứng minh chúng ta đúng.” Hy vọng là thương mại và giao
tiếp toàn cầu sẽ dẫn đến sự hội tụ về văn
hóa và thể chế. Và khi thương mại trở nên quan trọng hơn, ngoại giao phương Tây
sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, bởi vì các nước đang phát triển sẽ lo sợ mất quyền tiếp
cận thị trường và tài chính của Mỹ và châu Âu.
Kết quả không
như mong đợi. Toàn cầu hóa được vận hành theo cách tạo ra
lợi nhuận lớn cho các nước đang phát triển, những nước có thể định hướng lại nền
kinh tế của mình theo hướng xuất khẩu công nghiệp trong khi vẫn giữ mức lương
thấp (bí quyết giúp Trung Quốc trỗi dậy), và cho các nền kinh tế mới nổi giàu dầu khí.
Nhưng chính
những xu hướng này đã trao quyền cho các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc có
sức lôi cuốn.
Khi các nước đang phát triển có vị thế tốt tích lũy được nhiều nguồn lực
hơn, họ có khả năng trong việc thực hiện tuyên truyền và xây dựng liên minh giỏi hơn. Nhưng quan trọng hơn cả là chiều kích ý thức hệ. Bởi vì ngoại giao phương Tây ngày càng được coi là một
hình thức can thiệp (một nhận thức có cơ sở), những nỗ lực bảo vệ nhân quyền, tự do báo chí
hoặc dân chủ ở nhiều quốc gia đã tỏ ra vô hiệu hoặc phản tác dụng.
Trong trường hợp của Thổ Nhĩ Kỳ, triển vọng gia nhập Liên minh châu Âu được
cho là sẽ cải thiện hồ sơ nhân quyền và củng cố các thể chế dân chủ của nước này. Và đúng là điều đó đã xảy ra trong một thời gian. Nhưng khi các yêu cầu từ các đại diện EU nhiều lên, chúng trở thành
mồi cho chủ nghĩa dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ. Quá trình gia nhập bị đình trệ và nền dân
chủ Thổ Nhĩ Kỳ đã suy yếu kể từ đó.
Chủ nghĩa dân tộc thúc đẩy cuộc xâm lược Ukraine của Nga phản ánh ba yếu tố
tương tự được liệt kê ở trên. Nhiều giới tinh hoa chính trị và an ninh Nga tin
rằng đất nước họ đã bị phương Tây làm nhục kể từ khi Bức tường
Berlin sụp đổ. Sự hội nhập của Nga vào nền kinh tế thế giới ít làm lợi cho người dân
trong khi mang lại sự giàu có không tưởng tượng nổi cho một nhóm đầu sỏ chính trị, vô đạo đức, thường phạm pháp. Và mặc dù Tổng
thống Nga Vladimir Putin chủ trì một hệ thống thân hữu rộng lớn, ông đã khéo
léo nuôi dưỡng và khai thác tình cảm dân tộc.
Chủ nghĩa dân tộc Nga là tin xấu cho Ukraine, bởi nó cho phép Putin củng cố
chế độ của mình mạnh hơn bình thường. Dù có lệnh trừng phạt hay không, ông ta khó có thể bị lật đổ, vì ông ta được bảo vệ bởi những người thân cận
chia sẻ lợi ích và tình cảm dân tộc của ông ta. Nếu có
chuyện gì xảy ra, thì đó là sự cô lập có thể
củng cố thêm quyền lực của Putin. Nếu chiến tranh không làm suy yếu chế độ của
ông ta, cuộc chiến có thể tiếp tục vô thời hạn, bất kể nó gây thiệt hại cho nền kinh tế Nga
như thế nào.
Kỷ nguyên chủ nghĩa dân tộc được hồi sinh này cho chúng ta một số bài học. Chúng ta có thể cần phải suy nghĩ
lại về cách ta tổ chức các quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Chắc chắn thương mại mở có
thể làm lợi
cho cả nền kinh tế đang phát triển lẫn phát triển. Nhưng thương mại giúp giảm giá cả cho người tiêu dùng phương Tây trong khi lại làm tăng bất bình đẳng
theo cấp số nhân và làm giàu
cho các nhà tài phiệt ở Nga và những kẻ bất lương trong Đảng Cộng sản ở Trung Quốc. Tư bản, chứ không phải lao
động, là bên
hưởng lợi chính.
Do đó, chúng ta cần xem xét các cách tiếp cận thay thế. Trên hết, các thỏa
thuận thương mại không còn được quyết định bởi các tập đoàn đa quốc gia hưởng lợi
từ việc kiếm lời dựa vào chênh lệch mức lương thấp một cách giả tạo và các tiêu chuẩn lao động không thể chấp nhận
được ở các thị trường mới nổi. Chúng ta cũng không thể để các mối quan hệ
thương mại (được xây dựng) dựa trên lợi thế về chi phí vốn có được là nhờ
nhiên liệu hóa thạch giá rẻ, được trợ
cấp.
Hơn nữa, phương Tây có thể cần phải chấp nhận rằng họ không thể có ảnh hưởng chắc chắn đến lộ trình chính trị của các đối tác thương mại của mình. Phương Tây cũng cần tạo ra
các biện pháp phòng vệ mới để đảm bảo rằng các chế độ độc tài, tham nhũng không ảnh hưởng đến chính
trị của chính họ. Và quan
trọng nhất, các nhà lãnh đạo phương Tây nên nhận ra rằng họ sẽ giành được nhiều uy tín
hơn trong các vấn đề quốc tế nếu thừa nhận hành vi sai trái trong quá khứ của
chính quốc gia mình trong cả thời kỳ thuộc địa và Chiến tranh Lạnh.
Việc thừa nhận ảnh hưởng hạn chế của phương Tây đối với chính trị của những
nước khác không có nghĩa là dung thứ cho các hành vi vi phạm nhân quyền. Nhưng điều đó
có nghĩa là các chính phủ phương Tây nên áp dụng một cách tiếp cận mới, hạn chế
sự tham gia chính thức trong khi dựa nhiều hơn vào hành động của xã hội dân sự
thông qua các tổ chức như Tổ chức Ân xá Quốc tế hoặc Tổ chức Minh bạch Quốc tế.
Không có giải pháp mầu nhiệm nào để đánh bại chủ nghĩa độc tài dân tộc, nhưng
có những lựa chọn tốt hơn để chống lại nó.
![]() |
Hulton Archive/Getty Images |
LỊCH SỬ ĐÃ CHO CHÚNG TA BIẾT TƯƠNG LAI CỦA A.I.
Ngày 23 tháng 4 năm 2024 | Daron Acemoglu, Simon
Johnson
David Ricardo, một trong những người sáng lập ra nền kinh tế hiện đại vào đầu
những năm 1800, hiểu rằng máy móc không nhất thiết là tốt hoặc xấu. Nhận định
của ông rằng việc chúng phá hủy hay tạo ra việc làm đều phụ thuộc vào cách
chúng ta triển khai chúng và vào những người nắm
quyền lựa chọn, chưa bao giờ phù hợp với thời nay đến thế.
BOSTON – Trí tuệ nhân tạo (AI)
và mối đe dọa nó đặt ra đối với công việc tốt dường như là
vấn đề hoàn toàn mới. Nhưng chúng ta có thể tìm thấy những ý tưởng hữu ích về
cách ứng phó trong tác phẩm của David Ricardo, nhà sáng lập kinh
tế học hiện đại, người đã trực tiếp quan sát Cách mạng
Công nghiệp Anh. Sự tiến triển trong tư
duy của ông, bao gồm một số
điểm mà ông đã bỏ qua, mang lại nhiều bài học hữu ích cho chúng ta ngày nay.
Các nhà lãnh đạo công nghệ tư nhân hứa hẹn với chúng ta một tương lai tươi
sáng hơn với giảm căng thẳng
trong công việc việc, ít họp hành nhàm chán hơn, nhiều thời gian rảnh
rỗi hơn và thậm chí
có thể là thu nhập cơ bản toàn
dân. Nhưng chúng ta có nên
tin họ không? Nhiều người có lẽ đơn giản là mất đi một công việc họ coi là tốt – buộc họ phải tìm việc với mức lương thấp
hơn. Rốt cuộc, các thuật toán đã tiếp quản các nhiệm vụ vốn cần đến thời gian và sự
chú ý của con người.
Trong tác phẩm có tính khai sáng năm 1817 của mình, Những nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế khóa, Ricardo đã có cái nhìn tích cực về máy móc đã biến đổi ngành kéo sợi bông. Noi theo quan niệm phổ biến lúc bây giờ, ông đã nói với Hạ viện rằng “máy móc không làm giảm nhu cầu lao động”.
Từ những năm 1770, tự động hóa việc kéo sợi đã làm giảm giá thành của sợi bông và tăng nhu cầu đối với một nhiệm vụ bổ sung là dệt sợi bông thành vải thành phẩm. Và vì hầu như mọi công đoạn dệt đều được thực hiện thủ công trước những năm 1810, nên sự bùng nổ về nhu cầu này đã giúp biến việc dệt bông thủ công thành một công việc thủ công được trả lương cao, sử dụng hàng trăm nghìn lao động nam giới người Anh (bao gồm cả nhiều người kéo sợi bị mất việc làm trước khi Cách mạng công nghiệp). Trải nghiệm tích cực ban đầu với tự động hóa có thể đã góp phần vào quan điểm lạc quan lúc đầu của Ricardo.
Nhưng sự phát triển của máy móc quy mô lớn không dừng lại ở việc kéo sợi. Chẳng bao lâu sau, máy dệt chạy bằng hơi nước đã được triển khai trong các nhà máy dệt bông. Những người thợ thủ công “dệt tay” sẽ không còn kiếm được nhiều tiền khi làm việc năm ngày một tuần tại nhà riêng của họ nữa. Thay vào đó, họ sẽ phải vật lộn để nuôi sống gia đình trong khi làm việc nhiều giờ hơn dưới kỷ luật nghiêm ngặt tại các nhà máy.
Khi nỗi lo lắng
và các cuộc biểu
tình lan rộng khắp miền bắc nước Anh, Ricardo đã thay đổi tư duy. Trong ấn bản thứ
ba của cuốn sách có ảnh hưởng của mình, được xuất bản năm 1821, ông đã thêm một chương mới, “Về máy móc”, trong đó ông đã đi thẳng
vào vấn đề: “Nếu máy móc có thể làm tất
cả công việc mà người lao động hiện đang làm, thì sẽ không có nhu cầu về lao động”. Mối lo ngại tương tự cũng áp dụng
được cho ngày nay. Việc các thuật toán tiếp quản các nhiệm vụ do con
người thực hiện trước đây sẽ không phải là
tin tốt cho những người lao động bị mất việc trừ khi họ có thể tìm được những việc mới được trả lương
cao.
Hầu hết những người thợ dệt thủ công đang gặp khó khăn trong những năm 1810
và 1820 đã không đến làm việc tại các nhà máy dệt mới, vì máy dệt không cần nhiều công nhân (vận hành). Trong khi việc tự động hóa kéo sợi
đã tạo ra cơ hội làm thợ dệt cho nhiều người hơn, thì việc tự động hóa dệt vải không tạo ra nhu cầu
lao động bù đắp trong các lĩnh vực khác. Nền kinh tế Anh nhìn chung không tạo
ra đủ việc làm mới có lương cao khác, ít nhất là cho đến khi ngành đường sắt cất cánh vào những năm 1830. Không có nhiều lựa chọn khác, hàng trăm nghìn thợ dệt thủ công vẫn tiếp tục hành nghề, ngay cả khi tiền lương giảm hơn một nửa.
Một vấn đề then chốt khác, mặc dù Ricardo không đề cập đến, là làm việc
trong điều kiện khắc nghiệt của nhà máy - trở thành một bánh răng nhỏ trong những “cỗ máy của quỷ dữ” do người sử dụng lao động kiểm soát vào đầu những
năm 1800 - là điều không hấp dẫn đối với những người thợ dệt thủ công. Nhiều thợ
dệt thủ công đã hoạt động như những doanh nhân và doanh nghiệp độc lập, những người
mua bông kéo sợi rồi bán thành phẩm dệt của họ trên
thị trường. Rõ ràng là họ không nhiệt tình khi phải làm việc nhiều giờ hơn, kỷ
luật hơn, ít tự chủ hơn và thường là mức lương thấp hơn (ít nhất là so với thời
kỳ hoàng kim của nghề dệt thủ công). Trong các lời khai được thu thập bởi nhiều
Ủy ban Hoàng gia, những người thợ dệt đã lên tiếng gay gắt về việc họ từ chối
chấp nhận những điều kiện làm việc như vậy, hoặc về cuộc
sống của họ đã
trở nên khủng khiếp như thế nào khi họ
bị buộc (do thiếu lựa chọn khác) phải làm những công việc như vậy.
AI tạo sinh ngày nay có tiềm năng to lớn và đã đạt được một số thành tựu ấn tượng, bao
gồm cả trong nghiên cứu khoa học. Chúng cũng có thể được sử dụng để giúp người lao động nắm nhiều thông tin hơn, năng suất hơn, độc lập hơn và linh hoạt hơn.
Thật không may, ngành công nghệ dường như có những mục đích sử dụng khác. Như
chúng tôi giải thích trong Power and Progress, các công ty lớn phát triển và triển khai AI chủ
yếu ủng hộ tự động hóa (thay thế con người) hơn là tăng cường (giúp con người năng suất hơn).
Điều đó có nghĩa là chúng ta phải đối mặt với nguy cơ tự động hóa quá mức:
nhiều công nhân sẽ bị thay thế, và những người vẫn được tuyển dụng sẽ phải chịu
các hình thức giám sát và kiểm soát ngày càng hạ thấp phẩm giá con người. Nguyên tắc
"tự động hóa trước, đặt câu hỏi sau" yêu cầu – và do đó khuyến khích hơn nữa – việc thu thập lượng
thông tin khổng lồ tại nơi làm việc và trên khắp các bộ phận của xã hội, đặt ra
câu hỏi về việc còn bao nhiêu riêng tư sót lại.
Một tương lai như vậy không phải là điều tất yếu. Quy định về việc thu thập
dữ liệu sẽ giúp bảo vệ quyền riêng tư và các quy tắc chặt chẽ hơn tại nơi làm
việc có thể ngăn chặn những khía cạnh tồi tệ nhất của hoạt động giám sát dựa
trên AI. Nhưng nhiệm vụ cơ bản hơn, Ricardo nhắc nhở chúng ta, là thay đổi toàn
bộ câu chuyện về AI. Có thể nói, bài học quan trọng nhất từ cuộc đời và công trình của ông là máy
móc không nhất thiết là tốt hoặc xấu. Việc chúng phá hủy hay tạo ra việc làm
phụ thuộc vào cách chúng ta triển khai chúng và vào những người đưa ra những lựa
chọn đó. Vào thời của Ricardo, một nhóm nhỏ chủ nhà máy đã quyết định, và những quyết định đó tập
trung vào tự động hóa và vắt kiệt người lao động hết mức có thể.
Ngày nay, một nhóm nhỏ hơn các nhà lãnh đạo công nghệ dường như đang đi
theo con đường tương tự. Nhưng tập trung vào việc tạo ra các cơ hội mới, nhiệm vụ mới cho con người
và tôn trọng tất cả các cá nhân sẽ bảo đảm cho một kết quả tốt hơn nhiều. Chúng
ta vẫn có thể có AI thiên hướng người lao động,
nhưng chỉ khi chúng ta có thể thay đổi hướng đổi mới trong ngành công nghệ và
đưa ra các quy định và thể chế mới.
Giống như thời của Ricardo, thật ngây thơ khi tin vào lòng nhân từ của các nhà lãnh đạo doanh
nghiệp và công nghệ. Phải có những cải cách chính trị lớn mới tạo ra được nền
dân chủ thực sự, hợp pháp hóa các nghiệp đoàn và thay đổi hướng tiến bộ công nghệ ở Anh
trong cuộc Cách mạng Công nghiệp. Ngày nay chúng ta
đang đối mặt với thách thức cơ bản
tương tự.
![]() |
tiero/Getty Images |
CHÚNG TA ĐÃ SẴN SÀNG CHO SỰ PHÁ HỦY MANG TÍNH SÁNG
TẠO CỦA A.I. CHƯA?
Ngày 9 tháng 4 năm 2024 | Daron Acemoglu
Thay vì tin tưởng mù quáng vào các lý thuyết tao nhã nhưng đơn giản về bản
chất của sự thay đổi lịch sử, chúng ta cần tập trung khẩn cấp vào cách làn sóng
đổi mới đột phá tiếp theo có thể ảnh hưởng đến các thể chế xã hội, dân chủ và
công dân của chúng ta. Việc để các doanh nhân công nghệ tự do quyết định có
nguy cơ dẫn đến nhiều sự phá hủy - và ít sự sáng tạo - hơn chúng ta mong đợi.
BOSTON – Khái niệm âm dương cổ xưa của Trung Quốc chứng minh con người có khuynh hướng nhìn
thấy các mô hình đối lập đan xen trong thế giới xung quanh chúng ta, một khuynh
hướng đã dẫn đến nhiều lý thuyết khác nhau về chu kỳ tự nhiên trong các hiện tượng
xã hội và kinh tế. Cũng giống như triết gia Ả Rập thời trung cổ vĩ đại Ibn
Khaldun đã nhìn thấy sự sụp đổ sau cùng của một đế chế in dấu ngay
trong thời kỳ
hưng thịnh của nó, nhà kinh tế học thế
kỷ XX Nikolai Kondratiev đã đưa ra giả thuyết rằng nền kinh tế toàn cầu hiện đại di chuyển
theo các siêu chu kỳ “sóng dài”.
Nhưng không có lý thuyết nào phổ biến như lý thuyết – quay lại với Karl
Marx – liên kết sự phá hủy một tập
hợp các mối quan hệ sản xuất với sự sáng tạo ra một tập hợp khác. Năm 1913, nhà kinh tế học
người Đức Werner Sombart đã nhận xét rằng, “từ sự phá hủy, một tinh thần sáng tạo
mới nảy sinh”.
Nhà kinh tế học người Áo Joseph Schumpeter là người đã phổ biến và mở rộng phạm vi của lập luận rằng những đổi mới luôn thay thế các công nghệ thống trị trước đây và lật đổ những gã khổng lồ công nghiệp cũ. Nhiều nhà khoa học xã hội đã xây dựng trên ý tưởng của Schumpeter về “sự phá hủy mang tính sáng tạo” để giải thích quá trình đổi mới và những hàm ý rộng hơn của nó. Những phân tích này cũng xác định những căng thẳng vốn có trong khái niệm này. Ví dụ, sự phá hủy có mang lại sự sáng tạo hay đó là sản phẩm phụ tất yếu của sự sáng tạo? Quan trọng hơn, liệu có phải mọi sự phá hủy đều là tất yếu?
Trong kinh tế học, các ý tưởng của Schumpeter đã hình thành nên nền tảng của lý thuyết tăng trưởng kinh tế, chu kỳ sản phẩm và thương mại quốc tế. Nhưng hai diễn biến liên quan đã đưa khái niệm về sự hủy diệt mang tính sáng tạo lên một tầm cao mới trong vài thập kỷ qua. Đầu tiên là thành công vang dội của cuốn sách Thế lưỡng nan của nhà cải tiến của giáo sư Clayton Christensen thuộc Trường Kinh doanh Harvard xuất bản năm 1997, cuốn sách đã đưa ra ý tưởng về “sự đổi mới mang tính đột phá”. Những sự đổi mới mang tính đột phá đến từ các công ty mới theo đuổi các mô hình kinh doanh mà những công ty đương nhiệm cho là không hấp dẫn, thường là vì chúng chỉ hấp dẫn đối với phân khúc thị trường thấp hơn. Vì những công ty đương nhiệm có xu hướng vẫn tận tình với các mô hình kinh doanh của riêng mình nên họ đã bỏ lỡ “làn sóng công nghệ vĩ đại tiếp theo”.
Sự phát triển thứ hai là sự trỗi dậy của Thung lũng Silicon, nơi các doanh nhân công nghệ đã biến “sự đứt gãy” thành một chiến lược rõ ràng ngay từ đầu. Google bắt đầu phá vỡ hoạt động kinh doanh tìm kiếm trên internet, và Amazon bắt đầu phá vỡ hoạt động kinh doanh bán sách, tiếp theo là hầu hết các lĩnh vực bán lẻ khác. Sau đó, Facebook xuất hiện với câu thần chú “hành động nhanh và đánh vỡ mọi thứ”. Phương tiện truyền thông xã hội đã biến đổi các mối quan hệ xã hội của chúng ta và cách chúng ta giao tiếp chỉ trong chớp mắt, tiêu biểu cho cả sự phá hủy mang tính sáng tạo và sự đứt gãy cùng một lúc.
Sức hấp dẫn về mặt trí tuệ của những lý thuyết này nằm ở việc biến sự phá hủy
và đứt gãy từ
chi phí rõ ràng thành lợi ích rõ ràng. Nhưng trong khi Schumpeter thừa nhận rằng
quá trình phá hủy là đau đớn và có khả năng nguy hiểm, thì những nhà đổi mới
mang tính đột phá ngày nay chỉ nhìn thấy chiến thắng các bên cùng có lợi. Do đó, nhà đầu tư mạo hiểm và
nhà công nghệ Marc Andreessen viết: “Tăng trưởng năng suất, được thúc đẩy bởi công
nghệ, là động lực chính của tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng tiền lương và tạo
ra các ngành công nghiệp mới và việc làm mới, vì con người và tư bản liên tục được giải
phóng để làm những việc quan trọng và có giá trị hơn so với trước đây”.
Bây giờ, khi hy vọng về trí tuệ nhân tạo thậm chí còn vượt xa cả Facebook
trong những ngày mới xuất hiện, chúng ta nên đánh giá lại những ý tưởng này. Rõ
ràng, đôi khi sự đổi mới mang tính phá vỡ theo bản chất, và quá trình sáng tạo
có thể mang tính hủy diệt như Schumpeter đã hình dung. Lịch sử cho thấy sự kháng cự không ngừng nghỉ đối với sự hủy diệt mang
tính sáng tạo sẽ dẫn
đến tình trạng trì trệ
kinh tế. Nhưng điều đó
không có nghĩa là sự hủy diệt nên được ca ngợi. Thay vào đó, chúng ta nên xem
nó như một chi phí đôi khi có thể cắt giảm, ít nhất là bằng cách xây dựng các thể chế tốt
hơn để giúp đỡ những người thua thiệt, và đôi khi bằng cách quản lý quá trình
thay đổi công nghệ.
Hãy xem xét toàn cầu hóa. Trong khi nó tạo ra những lợi ích kinh tế quan trọng,
nó cũng phá
hủy các công ty, việc làm và sinh kế. Nếu đi theo phản ứng tự nhiên là ca ngợi những chi phí đó, chúng ta có thể không nghĩ đến việc cố gắng giảm thiểu
chúng. Tuy nhiên, chúng ta có thể làm nhiều hơn nữa để giúp các công ty chịu ảnh hưởng bất lợi (có
thể đầu tư để mở rộng sang các lĩnh vực mới), hỗ trợ những người lao động mất việc làm (thông qua
đào tạo lại và mạng lưới an toàn) và hỗ trợ các cộng đồng bị tàn phá.
Việc không nhận ra những sắc thái này đã mở ra cánh cửa cho sự phá hủy mang tính sáng tạo và đứt gãy quá mức mà chúng ta bị Thung lũng
Silicon đẩy vào trong vài thập kỷ qua. Trước mắt, có ba nguyên tắc nên hướng dẫn cách tiếp cận của
chúng ta, đặc biệt là khi nói đến AI.
Đầu tiên, giống như toàn cầu hóa, việc giúp đỡ những người bị ảnh hưởng
tiêu cực là vô cùng quan trọng và không nên để đến sau. Thứ hai, chúng ta không nên cho rằng sự đứt gãy
là điều không thể tránh khỏi. Như tôi đã lập luận trước đây, AI không nhất thiết phải dẫn đến
việc phá hủy việc làm hàng loạt. Nếu những người thiết kế và triển khai nó chỉ
làm như vậy với suy nghĩ về tự động hóa (như nhiều ông trùm Thung lũng
Silicon mong muốn), công
nghệ này sẽ chỉ tạo ra nhiều đau khổ hơn cho những người lao động. Nhưng AI có thể đi theo những con đường thay
thế hấp dẫn hơn. Suy
cho cùng, AI có tiềm năng to lớn để giúp người lao động làm việc hiệu quả hơn, chẳng hạn như bằng cách cung cấp cho họ thông
tin tốt hơn và trang bị để họ thực hiện các nhiệm vụ phức tạp hơn.
Chúng ta không
được để niềm tôn sùng đối với sự hủy diệt mang tính sáng tạo khiến mình nhắm mắt
làm ngơ trước những viễn cảnh hứa hẹn
hơn hoặc trước con đường méo mó mà ta đang đi hiện nay. Nếu thị trường không
chuyển hướng năng lượng sáng tạo theo hướng có lợi cho xã hội, chính sách công
và các quy trình dân chủ có thể làm nhiều điều để chuyển hướng năng lượng sáng tạo này.
Cũng giống như nhiều quốc gia đã đưa ra các khoản trợ cấp để khuyến khích nhiều
đổi mới hơn trong năng lượng tái tạo, chúng ta có thể làm nhiều hơn nữa để giảm
thiểu tác hại từ AI và các công nghệ kỹ thuật số khác.
Thứ ba, chúng ta phải nhớ rằng các mối quan hệ xã hội và kinh tế hiện tại cực
kỳ phức tạp. Khi chúng bị đứt gãy, mọi loại hậu quả không lường trước có thể xảy
ra. Facebook và các nền tảng truyền thông xã hội khác không có ý định đầu độc
diễn ngôn công khai của chúng ta bằng chủ nghĩa cực đoan, thông tin sai lệch và
nghiện ngập. Nhưng trong quá trình vội vã đột phá cách chúng ta giao tiếp, họ đã tuân theo nguyên tắc
của riêng mình là hành động nhanh và xin tha thứ sau.
Chúng ta cần phải khẩn trương chú ý nhiều hơn đến cách làn sóng đổi mới mang tính đột phá tiếp theo vốn có thể ảnh hưởng đến các thể chế xã hội, dân chủ và cộng đồng của chúng ta. Để tận dụng tối đa sự phá hủy mang tính sáng tạo đòi hỏi phải có sự cân bằng hợp lý giữa các chính sách công ủng hộ đổi mới và đầu vào dân chủ. Nếu chúng ta để các doanh nhân công nghệ bảo vệ các thể chế của mình, chúng ta có nguy cơ bị phá hủy nhiều hơn những gì chúng ta mong đợi.
![]() |
NICOLAS MAETERLINCK/BELGA MAG/AFP, Getty Images |
CÓ VẤN ĐỀ GÌ VỚI CHATGPT?
Ngày 6 tháng 2 năm 2023 | Daron Acemoglu, Simon
Johnson
Trí tuệ nhân tạo đang được các công ty Mỹ thiết kế và triển khai theo những
cách sẽ làm suy yếu quyền lực và thay thế người lao động, làm giảm trải nghiệm của
người tiêu dùng, và cuối cùng khiến hầu hết các nhà đầu tư thất vọng.
Tuy nhiên, lịch sử kinh tế cho thấy rằng mọi chuyện không nhất thiết phải như vậy.
CAMBRIDGE – Microsoft được cho là rất
hài lòng với ChatGPT của
OpenAI, một chương trình trí tuệ nhân tạo ngôn ngữ tự nhiên có khả năng tạo ra
văn bản cứ như
do con người viết ra. Tận dụng lợi thế dễ dàng tiếp cận tài chính trong thập kỷ qua, các công
ty và quỹ đầu tư mạo hiểm đã đầu tư hàng tỷ đô la vào cuộc chạy đua vũ trang
AI, tạo ra một công nghệ hiện có thể được sử dụng để thay thế con người trong
nhiều nhiệm vụ hơn. Đây có thể là một thảm họa không chỉ đối với người lao động
mà còn đối với người tiêu dùng và thậm chí cả các nhà đầu tư.
Vấn đề đối với người lao động rất rõ ràng: sẽ có ít công việc đòi hỏi kỹ năng giao tiếp tốt hơn, và do đó ít vị
trí trả lương cao hơn. Người dọn dẹp, tài xế và một số công nhân chân
tay khác sẽ giữ được công việc của họ, nhưng những người khác nên biết sợ. Hãy xem xét mảng dịch vụ khách hàng. Thay vì thuê người để tương
tác với khách hàng, các công ty sẽ ngày càng dựa vào các AI tạo sinh như ChatGPT để xoa dịu những cuộc gọi đầy tức giận bằng những lời
lẽ khéo léo và nhẹ nhàng. Ít công việc ở cấp nhập môn hơn nghĩa là ít cơ hội để bắt đầu sự nghiệp hơn - tiếp
tục một xu hướng đã được thiết lập bởi các công nghệ kỹ thuật số trước đó.
Người tiêu dùng cũng sẽ chịu thiệt. Chatbot có thể xử lý tốt các câu hỏi
thông thường, thường mọi người không gọi đến dịch vụ
chăm sóc khách hàng vì những câu hỏi thông
thường. Khi có vấn đề thực
sự - như một hãng hàng không bị hoãn lại hoặc đường ống vỡ trong tầng hầm nhà bạn - bạn muốn nói chuyện với một chuyên gia có
trình độ, đồng cảm, có khả năng huy động nguồn lực và sắp xếp các giải pháp kịp
thời. Bạn không muốn bị chờ
máy suốt tám giờ, nhưng bạn
cũng không muốn nói chuyện ngay với một chatbot nói
năng hùng hồn nhưng cuối cùng lại vô
dụng.
Tất nhiên, trong một thế giới lý tưởng, các công ty mới cung cấp dịch vụ
khách hàng tốt hơn sẽ xuất hiện và chiếm lĩnh thị phần. Nhưng trong thế giới thực,
nhiều rào cản gia nhập khiến các công ty mới khó có thể mở rộng nhanh chóng. Bạn
có thể yêu thích tiệm bánh địa phương hoặc một đại diện hãng hàng không thân
thiện hoặc một bác sĩ cụ thể, nhưng hãy nghĩ xem tạo ra một chuỗi cửa hàng tạp hóa mới, một hãng
hàng không mới hoặc một bệnh viện mới thì cần những gì. Các công ty hiện tại có những lợi thế lớn, bao gồm
các hình thức quyền lực thị trường quan trọng cho phép họ lựa chọn công nghệ
nào có sẵn để áp dụng và sử dụng chúng theo bất kỳ cách nào họ muốn.
Về cơ bản, các công ty mới cung cấp sản phẩm và dịch vụ tốt hơn thường cần
các công nghệ mới, chẳng hạn như các công cụ kỹ thuật số có thể giúp nhân viên
làm việc hiệu quả hơn và giúp tạo ra các dịch vụ tùy chỉnh tốt hơn cho khách
hàng của công ty. Nhưng vì các khoản đầu tư vào AI đang ưu tiên tự động hóa nên
các loại công cụ này thậm chí còn không được tạo ra.
Các nhà đầu tư vào các công ty đại chúng cũng sẽ thua lỗ trong thời đại
ChatGPT. Các công ty này có thể cải thiện các dịch vụ mà họ cung cấp cho người
tiêu dùng bằng cách đầu tư vào các công nghệ mới để giúp lực lượng lao động của
họ năng suất hơn và có khả năng thực hiện các nhiệm vụ mới, đồng thời cung cấp
nhiều khóa đào tạo để nâng cao kỹ năng của nhân viên. Nhưng họ không làm như vậy.
Nhiều giám đốc điều hành vẫn bị ám ảnh bởi một chiến lược mà cuối cùng sẽ được nhớ đến như là tự chuốc lấy thất bại: cắt giảm nhân sự và
giữ mức lương ở mức thấp nhất có thể. Các giám đốc điều
hành theo đuổi những đợt cắt giảm này vì đó là điều mà những kẻ thông minh (các nhà
phân tích, cố vấn, giáo sư tài chính, các giám đốc điều hành khác) nói rằng họ
nên làm, và vì Phố Wall đánh giá hiệu suất dựa trên việc so sánh với các công
ty khác, những công ty cũng đang vắt kiệt người lao động hết mức có thể.
AI cũng được định vị để khuếch đại các tác động xã hội có hại của vốn tư nhân. Vốn dĩ người ta đã có thể kiếm được khối tài sản khổng lồ bằng cách mua lại các công ty, gánh nợ cho chúng trong khi biến chúng thành công ty tư nhân, rồi sau đó khoét rỗng lực lượng lao động – làm tất cả những điều trên trong khi vẫn trả cổ tức cao cho những chủ sở hữu mới. Giờ đây, ChatGPT và các công nghệ AI khác sẽ giúp việc vắt kiệt sức lao động càng dễ dàng hơn thông qua giám sát nơi làm việc, điều kiện làm việc khắc nghiệt hơn, hợp đồng không giờ làm việc [zero-hours contracts], v.v..
Tất cả những xu hướng này đều có tác động khủng khiếp đến sức mua của người Mỹ – động cơ của nền kinh tế Hoa Kỳ. Nhưng như chúng tôi giải thích trong cuốn sách sắp ra mắt của mình, Power and Progress: Our Thousand-Year Struggle Over Technology and Prosperity, một động cơ kinh tế đang chững lại không nhất thiết phải có trong tương lai của chúng ta. Xét cho cùng, việc đưa vào sử dụng máy móc mới và những đột phá công nghệ đã có những hệ quả rất khác nhau trong quá khứ.
Hơn một thế kỷ trước, Henry Ford đã cách mạng hóa ngành sản xuất ô tô bằng cách đầu tư mạnh vào máy móc điện mới và phát triển dây chuyền lắp ráp hiệu quả hơn. Đúng vậy, những công nghệ mới này tạo ra tự động hóa ở mức nhất định, vì các nguồn điện tập trung cho phép máy móc thực hiện nhiều nhiệm vụ hiệu quả hơn. Nhưng việc tái tổ chức nhà máy đi kèm với quá trình điện khí hóa cũng tạo ra các nhiệm vụ mới cho công nhân và hàng nghìn công việc mới với mức lương cao hơn, thúc đẩy sự thịnh vượng chung. Ford đã dẫn đầu trong việc chứng minh rằng việc tạo ra công nghệ bổ sung cho con người là một hoạt động kinh doanh tốt.
Ngày nay, AI cho chúng ta cơ hội để làm như vậy. Các công cụ kỹ thuật số hỗ
trợ dựa trên
AI có thể được sử dụng để giúp y tá, giáo viên và đại diện dịch vụ khách
hàng hiểu những gì họ đang phải đối mặt và những gì sẽ giúp cải thiện kết quả
cho bệnh nhân, học sinh và người tiêu dùng. Sức mạnh dự đoán của các thuật toán
có thể được khai thác để giúp mọi người, thay vì thay thế họ. Nếu AI được sử dụng
để đưa ra các khuyến nghị cho con người xem xét, khả năng sử dụng những khuyến
nghị đó một cách khôn ngoan sẽ được công nhận là một kỹ năng có giá trị của con
người. Các ứng dụng AI khác có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân bổ
công nhân tốt hơn cho các nhiệm vụ, hoặc thậm chí tạo ra các thị trường hoàn
toàn mới (hãy nghĩ đến Airbnb hoặc ứng dụng chia sẻ chuyến đi).
Thật không may, những cơ hội này đang bị bỏ qua, vì hầu hết các nhà lãnh đạo
công nghệ Hoa Kỳ tiếp tục chi mạnh tay để phát triển phần mềm có thể làm những
gì con người đã làm rất tốt. Họ biết rằng họ có thể dễ dàng kiếm tiền nhờ bán sản phẩm của mình
cho các tập đoàn đã phát triển tầm nhìn hạn hẹp. Mọi người đều tập trung vào việc
tận dụng AI để cắt giảm chi phí lao động, không chỉ chẳng
mấy quan tâm trải nghiệm khách hàng tức thời mà còn đến tương
lai của sức mua của người Mỹ.
Ford hiểu rằng việc sản xuất hàng loạt ô tô là vô
nghĩa nếu đại chúng không đủ khả năng mua chúng. Ngược lại, các ông trùm doanh
nghiệp ngày nay đang sử dụng các công nghệ mới theo cách sẽ hủy hoại tương lai
chung của chúng ta.
Các tác giả trong
loạt bài
![]() |
Daron Acemoglu |
Daron Acemoglu, Giáo sư Kinh tế tại MIT, là đồng tác giả (cùng với James A. Robinson) của cuốn Tại sao các quốc gia thất bại: Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo khó (Profile, 2019) và là đồng tác giả (cùng với Simon Johnson) của cuốn Power and Progress: Our Thousand-Year Struggle Over Technology and Prosperity (tạm dịch: Quyền lực và tiến bộ: Cuộc tranh đấu ngàn năm của chúng ta về công nghệ và sự thịnh vượng) (PublicAffairs, 2023).
![]() |
James A. Robinson |
James A.
Robinson, Giám đốc Viện Pearson về Nghiên cứu và Giải quyết Xung đột Toàn cầu,
là Giáo sư Đại học tại Trường Chính sách Công Harris của Đại học Chicago. Ông
là đồng tác giả (cùng với Daron Acemoglu) của The Narrow Corridor: States, Societies, and the Fate of
Liberty (tạm dịch: Hành lang hẹp: Nhà nước, Xã hội và Định mệnh của sự
tự do), và Tại
sao các quốc gia thất bại: Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo khó.
![]() |
Simon Johnson |
Simon Johnson, cựu
kinh tế trưởng tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế, là giáo sư tại Trường Quản lý Sloan của
MIT, Giám đốc Khoa của sáng kiến Định hình Tương lai Việc làm của MIT và Đồng
chủ tịch Hội đồng Rủi ro Hệ thống của Viện CFA.
Ông là đồng tác giả (cùng với Daron Acemoglu) của Power and Progress: Our Thousand-Year Struggle Over
Technology and Prosperity (PublicAffairs, 2023).
Huỳnh
Thị Thanh Trúc dịch
