LƯỢNG KHÍ THẢI
CARBON TOÀN CẦU VẪN TIẾP TỤC GIA TĂNG. TUY NHIÊN, 35 QUỐC GIA SAU ĐÃ CÓ BƯỚC TIẾN
TRONG VIỆC CẮT GIẢM CARBON
| Charlie Riedel/AAP |
Lượng khí thải từ nhiên liệu hóa
thạch toàn cầu dự kiến sẽ đạt đỉnh mới vào năm 2025, tất cả các nguồn nhiên
liệu – than đá, khí đốt và dầu mỏ – đều góp phần vào đó.
Đồng thời, báo cáo toàn cầu mới
nhất của chúng tôi về lượng khí thải carbon dioxide và các bể hấp thụ carbon
cho thấy có ít nhất 35 quốc gia đã có kế hoạch giảm phát thải carbon. Úc, Đức,
New Zealand và nhiều quốc gia khác đã ghi nhận mức giảm đáng kể về mặt thống kê
về lượng khí thải carbon từ nhiên liệu hóa thạch trong thập kỷ qua, trong khi nền
kinh tế của họ vẫn tiếp tục tăng trưởng. Lượng khí thải của Trung Quốc cũng
tăng chậm hơn nhiều so với xu hướng gần đây và thậm chí có thể đi ngang vào cuối
năm.
Trong khi các nhà lãnh đạo và đại
biểu thế giới đang họp mặt tại Brazil để tham dự hội nghị thượng đỉnh về khí hậu
toàn cầu của Liên hợp quốc, COP30, nhiều quốc gia đã đệ trình các cam kết phát
thải mới đến năm 2035 với tham vọng cao hơn.
Nhưng trừ khi các nỗ lực này được mở rộng quy mô đáng kể, nhiệt độ toàn cầu được dự báo có thể tăng vượt xa ngưỡng 2°C mà Thỏa thuận Paris đã đề ra.
![]() |
| 35 quốc gia này hiện phát thải ít carbon dioxide hơn ngay cả khi nền kinh tế vẫn tăng trưởng. Dự án Carbon Toàn cầu 2025, CC BY-NC-ND |
Cùng với các đồng nghiệp từ 102
viện nghiên cứu trên toàn thế giới, Dự án Carbon Toàn cầu hôm nay công bố Ngân sách Carbon Toàn cầu 2025. Đây là
báo cáo kiểm kê thường niên về các nguồn phát thải và bể hấp thụ carbon dioxide
trên toàn thế giới.
Chúng tôi cũng công bố những tiến bộ khoa học quan
trọng, cho phép chúng tôi xác định chính xác hơn các nguồn và bể carbon dioxide
do con người và tự nhiên trên toàn cầu. Bể hấp thụ carbon là các hệ thống tự
nhiên hoặc nhân tạo như rừng cây, nơi hấp thụ nhiều carbon dioxide từ khí quyển
hơn lượng chúng thải ra.
Lượng khí thải CO₂ toàn cầu do sử
dụng nhiên liệu hóa thạch tiếp tục tăng. Dự kiến con số này sẽ tăng 1,1% vào
năm 2025, tương tự mức tăng hồi 2024. Tất cả các loại nhiên liệu hóa thạch đều
góp phần vào sự gia tăng này. Lượng khí thải từ khí đốt tự nhiên tăng 1,3%, tiếp
theo là dầu mỏ (tăng 1,0%) và than đá (tăng 0,8%). Tổng cộng, nhiên liệu hóa thạch
đã thải ra 38,1 tỷ tấn CO₂ vào năm 2025.
Không phải chỉ có toàn tin xấu.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy lượng khí thải từ quốc gia phát thải hàng đầu,
Trung Quốc (chiếm 32% lượng khí thải CO₂ toàn cầu) sẽ tăng chậm hơn đáng kể so
với tốc độ tăng trưởng trong thập kỷ qua, chỉ tăng nhẹ 0,4%. Lượng khí thải từ Ấn
Độ (chiếm 8% toàn cầu) dự kiến sẽ tăng 1,4%, cũng thấp hơn xu hướng gần đây.
Tuy nhiên, lượng khí thải từ Hoa
Kỳ (chiếm 13% toàn cầu) và Liên minh Châu Âu (chiếm 6% toàn cầu) dự kiến sẽ
tăng cao hơn xu hướng gần đây. Đối với Hoa Kỳ, mức tăng dự kiến là 1,9% do đầu
năm thời tiết lạnh hơn, tăng xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG), tăng sử dụng
than đá và nhu cầu điện cao hơn.
Lượng khí thải của EU dự kiến sẽ
tăng 0,4%, liên quan đến việc sản lượng thủy điện và điện gió sụt giảm do thời
tiết. Điều này dẫn đến tăng sản xuất điện từ khí tự nhiên hóa lỏng. Những yếu tố
bất trắc trong dữ liệu hiện có cũng cho thấy khả năng (lượng khí thải) không
tăng hoặc giảm nhẹ.
| Lượng khí thải từ nhiên liệu hóa thạch đạt đỉnh mới vào năm 2025, nhưng tốc độ tăng đang chậm lại và có những dấu hiệu đáng khích lệ từ các quốc gia cắt giảm khí thải. Dự án Carbon Toàn cầu 2025, CC BY-NC-ND |
Tin tích cực là lượng khí thải
carbon ròng từ thay đổi sử dụng đất như phá rừng, suy thoái rừng và trồng lại rừng
đã giảm trong thập kỷ qua. Dự kiến, các hoạt động này dự kiến sẽ thải ra 4,1 tỷ
tấn carbon dioxide vào năm 2025, giảm so với mức trung bình 5 tỷ tấn mỗi năm trong
thập kỷ qua. Nạn phá rừng vĩnh viễn (chặt phá rừng để chuyển sang mục đích khác
vĩnh viễn – ND) vẫn là nguồn phát thải lớn nhất. Con số trên cũng đã tính đến 2,2
tỷ tấn carbon được hấp thụ hằng năm từ hoạt động trồng lại rừng do con người thực
hiện.
Ba quốc gia – Brazil, Indonesia
và Cộng hòa Dân chủ Congo – chiếm 57% lượng khí thải CO₂ ròng từ việc thay đổi
mục đích sử dụng đất trên toàn cầu.
Khi kết hợp lượng khí thải ròng từ
việc thay đổi mục đích sử dụng đất và nhiên liệu hóa thạch, tổng lượng khí thải
toàn cầu do con người tạo ra sẽ đạt 42,2 tỷ tấn carbon dioxide vào năm 2025. Tổng
lượng khí thải này đã tăng 0,3% mỗi năm trong thập kỷ qua, so với mức 1,9%/năm
trong thập kỷ trước đó (2005–14).
Phần lớn bể hấp thụ carbon đình
trệ
Các bể hấp thụ carbon tự nhiên
trong hệ sinh thái đại dương và trên cạn loại bỏ khoảng một nửa lượng khí thải
carbon do con người tạo ra. Tuy nhiên, dữ liệu mới của chúng tôi cho thấy các bể
hấp thụ này không phát triển như mong đợi.
Bể hấp thụ carbon đại dương đã
tương đối trì trệ kể từ năm 2016, chủ yếu do biến đổi khí hậu
và tác động từ các đợt sóng nhiệt đại dương.
Bể hấp thụ CO₂ trên cạn đã tương
đối trì trệ kể từ năm 2000, với mức suy giảm đáng kể vào năm 2024 do hiện tượng
El Niño mạnh diễn ra trên nền nhiệt độ toàn cầu cao kỷ lục. Các ước tính sơ bộ
năm 2025 cho thấy bể hấp thụ này đã phục hồi về mức trước El Niño.
Kể từ năm 1960, những tác động
tiêu cực của biến đổi khí hậu lên các bể hấp thụ carbon tự nhiên, đặc biệt là với
bể trên cạn, đã ức chế một phần khả năng hấp thụ tối đa. Điều này khiến CO₂
trong khí quyển tăng lên, cụ thể là nồng độ CO₂ tăng thêm 8 phần triệu (ppm).
Năm nay, nồng độ CO₂ trong khí quyển dự kiến sẽ vượt mức 425 ppm.
Theo dõi tiến triển toàn cầu
Mặc dù lượng khí thải carbon toàn
cầu tiếp tục tăng, dữ liệu của chúng tôi cho thấy vẫn có những dấu hiệu rõ ràng
về tiến triển hướng tới năng lượng và sử dụng đất thải ít carbon hơn.
Hiện có 35 quốc gia đã giảm lượng
khí thải carbon từ nhiên liệu hóa thạch trong thập kỷ qua, trong khi vẫn duy
trì tăng trưởng kinh tế. Nhiều quốc gia khác, bao gồm cả Trung Quốc, đang chuyển
sang sản xuất năng lượng sạch hơn. Tốc độ tăng trưởng khí thải theo đó cũng chậm
lại đáng kể.
Các chính sách hiện hành hỗ trợ cắt
giảm khí thải quốc gia theo Thỏa thuận Paris
được dự đoán sẽ làm nhiệt độ toàn cầu tăng 2,8°C so
với thời kì tiền công nghiệp vào cuối thế kỷ này.
Người dân tuần hành phản đối để kêu gọi khí hậu an toàn tại hội nghị thượng đỉnh về khí hậu COP31 của Liên hợp quốc ở Belem, Brazil. AndrewBorges/AAP |
Mức độ cắt giảm dự kiến này vẫn
còn kém xa mức cần thiết để đạt được mục tiêu của Thỏa thuận chung Paris là giữ
mức nóng lên ở dưới 2°C.
Ở mức phát thải hiện tại, chúng
tôi tính toán rằng ngân sách carbon toàn cầu còn lại – tức lượng carbon dioxide
vẫn có thể thải ra trước khi đạt đến mốc nhiệt độ toàn cầu cụ thể (trung bình
trong nhiều năm) – sẽ cạn kiệt trong bốn năm để đạt 1,5°C (còn được phép thải
thêm 170 gigaton), 12 năm để đạt 1,7°C (còn 525 Gt) và 25 năm để đạt 2°C (còn 1.055
Gt).
Còn kém xa
Ngân sách carbon toàn cầu được cải
thiện và cập nhật của chúng tôi cho thấy lượng khí thải CO₂ từ nhiên liệu hóa
thạch không ngừng tăng trên khắp thế giới. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy những tiến
bộ rõ ràng và có thể đo lường được hướng tới quá trình khử cacbon ở nhiều quốc
gia.
Sự phục hồi của các bể hấp thụ
CO₂ tự nhiên là một phát hiện tích cực. Tuy nhiên, mức biến động lớn giữa các năm
cho thấy độ nhạy cảm cao của các bể hấp thụ này với sức nóng và hạn hán.
Nhìn chung, báo cáo carbon năm
nay cho thấy lượng sử dụng nhiên liệu hóa thạch toàn cầu vẫn chưa đạt đỉnh (chưa
đạt mức cao nhất để bắt đầu giảm – ND). Chúng ta vẫn chưa bắt đầu giảm nhanh lượng
khí thải carbon cần thiết để ổn định khí hậu.
Tác giả
Nhà khoa học nghiên cứu chính,
CSIRO Environment; Giám đốc điều hành, Dự án Carbon toàn cầu, CSIRO
Nhà nghiên cứu cao cấp về Khoa học
Khí hậu, Đại học Ludwig Maximilian Munich
Giáo sư nghiên cứu khoa học về biến
đổi khí hậu của Hội Hoàng gia, Đại học East Anglia
Nhà nghiên cứu cao cấp, Trung tâm
nghiên cứu khí hậu và môi trường quốc tế - Oslo
Trưởng nhóm nghiên cứu trẻ
Helmholtz và phó trưởng phòng Khoa học sinh học biển tại Viện Alfred Wegener, Đại
học Bremen
Giáo sư Địa lý Vật lý và Hệ thống
Sử dụng Đất, Khoa Địa lý, Đại học Ludwig Maximilian Munich
Giảng viên Toán học và Thống kê,
Đại học Exeter
Chủ tịch, Mô hình toán học về khí
hậu, Đại học Exeter
Nhà nghiên cứu cao cấp, Trung tâm
nghiên cứu khí hậu và môi trường quốc tế - Oslo
Tuyên bố công khai
Pep Canadell nhận được tài trợ từ
Chương trình Khoa học Môi trường Quốc gia Úc - Trung tâm Hệ thống Khí hậu
Clemens Schwingshackl nhận được
tài trợ từ chương trình nghiên cứu và đổi mới Horizon Europe của Liên minh châu
Âu và Schmidt Sciences.
Corinne Le Quéré nhận được tài trợ
từ Hội đồng Nghiên cứu Môi trường Tự nhiên Vương quốc Anh, Hội Hoàng gia Vương
quốc Anh và Cơ quan Nghiên cứu + Phát minh Tiên tiến Vương quốc Anh. Bà đã nhận
được khoản tài trợ nghiên cứu từ Schmidt Futures (dự án CALIPSO – Mất Carbon ở
Thực vật, Đất và Đại dương). Corinne Le Quéré là thành viên của Ủy ban Biến đổi
Khí hậu Vương quốc Anh. Quan điểm của bà tại đây là của riêng bà và không nhất
thiết phản ánh quan điểm của Ủy ban. Corinne Le Quéré là thành viên của Hội đồng
Cố vấn Khoa học của Societe Generale.
Glen Peters nhận được tài trợ từ
chương trình nghiên cứu và đổi mới Horizon Europe của Liên minh châu Âu.
Judith Hauck nhận được tài trợ từ
chương trình nghiên cứu và đổi mới Horizon Europe của Liên minh châu Âu, Hội đồng
nghiên cứu châu Âu và Bộ Nghiên cứu, Công nghệ và Không gian Liên bang Đức.
Julia Pongratz nhận được tài trợ
từ chương trình nghiên cứu và đổi mới European Horizon Europe và Bộ Nghiên cứu,
Công nghệ và Không gian Liên bang Đức.
Mike O'Sullivan nhận được tài trợ
từ chương trình nghiên cứu và đổi mới Horizon Europe của Liên minh châu Âu và
Cơ quan Vũ trụ châu Âu.
Pierre Friedlingstein nhận được
tài trợ từ chương trình nghiên cứu và đổi mới Horizon Europe của Liên minh Châu
Âu
Robbie Andrew nhận được tài trợ từ
chương trình nghiên cứu và đổi mới Horizon Europe của Liên minh châu Âu và Cơ
quan Môi trường Na Uy.
Huỳnh Thị Thanh Trúc
dịch
Nguồn: The world’s carbon emissions continue to rise. But 35 countries show progress in cutting carbon, The
Conversation, November 13, 2025.
