TRÁI TIM CỐNG HIẾN CHO VIỆT NAM ĐÃ NGỪNG ĐẬP
Hành trình 50 năm với Việt Nam như Thông điệp
Nguyễn Xuân Xanh
Chỉ có một cuộc sống vì người khác mới đáng sống.
— Albert Einstein
Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây
Đã vui chơi trong cuộc đời nầy
Đã bay cao trong vòm trời đầy
Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai
Không có ai, từng ngày, không có ai đời đời
Ru anh ngủ vùi,
Mùa mưa tới trong nghĩa trang này có loài chim thôi!
— Trịnh Công Sơn
Đêm ngày 27.11.2025 Giáo sư Klaus Krickeberg qua đời tại thành phố Bielefeld, hưởng thọ 96 tuổi. “Klaus đã ra đi trong giấc ngủ bình yên”, bà Helga Zeile bạn đời ông thông báo. Klaus Krickeberg là người vô cùng yêu mến đất nước Việt Nam, vừa là người bạn lớn của Việt Nam, đồng hành với Việt Nam, và giúp đỡ không mệt mỏi ngót nửa thế kỷ. Ông rất hãnh diện khi có một người gọi ông là “Người Việt Nam”, là điều có lẽ khao khát trong sâu thẳm trái tim ông. Ông có một tình yêu và gắn bó kỳ lạ với Việt Nam.
Ông sẽ được mai táng ngày 8 tháng 12, dưới gốc cây dẻ ngựa (Aesculus hippocastanum), thành phố Bielefeld, nơi ông từng giảng dạy, và nơi xuất phát của chuyến đi thăm Hà Nội để đổi hướng cuộc hành trình. Bạn bè, đồng nghiệp Việt Nam có thể gửi vòng hoa về địa chỉ:
Elke Althoff Bestattungen
Dornberger Str. 521
33619 Bielefeld
Tel. cố định. 0049 (0)521 100760
Tel. cầm tay: 01704790876
Helga Zeile là tên người bạn đời của ông.
Tôi xin phép kể vài câu chuyện, với tư cách là một trong những học trò của ông. Nhưng trước hết Trang báo Tuổi Trẻ sáng ngày 4/12:
Tuổi Trẻ online:
https://tuoitre.vn/giao-su-klaus-krickeberg-hanh-trinh-50-nam-voi-viet-nam-20251204110354267.htm
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, dưới thời GS Phan Thanh Bình, là nơi từng trao danh hiệu cao quý honoris causa cho Klaus Krickeberg, cũng có đăng bài về ông:
https://vnuhcm.edu.vn/bai-viet/gs-klaus-krickeberg-va-nam-thap-ky-cong-hien-vi-khoa-hoc-viet-nam
Năm 1967 tôi từ Bonn chân ướt chân ráo tôi đến Đại học Heidelberg để “tìm thầy học đạo” và tình cờ quen biết ông mà không biết rằng lúc đó ông đã là người “yêu nước” Việt Nam nhiều hơn tôi rồi, và có một ý thức dấn thân rất sớm. Năm 1964/5 ông đã gửi tiền cho Vietnam Hilfsaktion, một tổ chức nhân đạo ở Cộng Hòa Liên Bang Đức giúp đỡ Việt Nam. Nhưng hành động có ý nghĩa chính trị và có tiếng vang hơn là việc ông là nhà toán học Tây Đức duy nhất ký tên vào Tuyên cáo năm 1966, sáng kiến của nhà toán học uy tín Pháp giải Fields 1950 Laurent Schwartz tại Hội nghị quốc tế các nhà toán học (IMC) lần thứ 15 tại Moscow kêu gọi chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Bản Tuyên cáo được rất nhiều nhà toán học Nhật Bản ủng hộ. Năm 1966 đánh dấu bằng việc Mỹ bắt đầu oanh tạc miền Bắc, đồng thời bằng sự hình thành của phong trào phản chiến Mỹ ở UC Berkeley, với sự tham gia của nhà toán học Mỹ Stephen Smale (giải Fields 1966 năm đó). Phải nói đó là hành động rất dũng cảm của Klaus Krickeberg bởi vì CHLB Đức lúc đó là đồng minh thân cận nhất của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh lạnh.
Năm 1966 cũng là năm Tòa án Quốc tế Russell được thành lập, và một nhà văn Thụy Điển gốc Đức có tham gia: Peter Weiss. Ông là một nhà văn hiện đại với nhiều vở kịch được diễn ở Đức rất thành công.
Klaus Krickeberg thuộc giới tinh hoa Đức thời hậu chiến, là nhà toán học làm về xác suất đầu tiên giúp xây dựng lại ngành xác suất từ con số không sau khi Quốc xã phá tan nền khoa học đỉnh cao của nước Đức. Ông được mời đi diễn thuyết, hầu như khắp nơi: Mỹ, Đan Mạch, Pháp, Liên Xô… Ông được tặng nhiều vinh dự, như được bầu làm Chủ tịch của Hội toán học thống kê và xác suất Bernoulli quốc tế (Bernouilli Society for Mathematical Statistics and Probability) nhiệm kỳ 1977-1979, và năm 1983 được bầu làm viện sĩ của “Hàn lâm viện Khoa học Đức Leopoldina” nơi mà Albert Einstein và David Hilbert cũng từng là thành viên.
Chức vụ của ông rất nhiều, chỉ xin đơn cử vài chức vụ chính:
Tổng biên tập tạp chí “Xác suất và các lĩnh vực liên quan” của Đức, 1971-85.
Đồng biên tập, trong một thời gian, của bốn tạp chí khoa học khác.
Cố vấn thống kê cho Nhà xuất bản Springer-Verlag New York, đồng biên tập một số bộ sách của nhà xuất bản này về thống kê và khoa học sức khỏe cho đến năm 2011.
Người sáng lập và đồng biên tập bộ sách “Những Văn bản cơ bản về y tế công cộng” của Nhà xuất bản Y học Hà Nội, 2013.
Thành viên của 13 hội khoa học, đặc biệt là thành viên được bầu của Viện Thống kê Quốc tế (ISI).
Thành viên Hội đồng ISI, 1985-89.
Chủ tịch “Ủy ban Phát triển Thống kê ở các nước đang phát triển của ISI”, 1987-91.
Chủ tịch “Hội Thống kê Toán học và Xác suất Bernoulli” (BS), 1977-79.
Thành viên Hội đồng BS, 1975-87.
Những năm ở Heidelberg tôi thường nghe ông giảng bài, phải nói đó là một nghệ thuật mà ông là một nghệ sĩ. Ông vào lớp chỉ có một miếng giấy nhỏ ghi dàn bài trong túi khi cần, ngoài ra ông giảng bài như diễn thuyết, thao thao bất tuyệt, duyên dáng, hay làm sao, mỗi bài giảng là một masterpiece.
Chuyện kể của Klaus Krickeberg. Trong một bài viết Một góc nhìn đương đại về toán học ở Đại học Berlin (Đại học Humboldt từ 1949 trở đi) sau năm 1945 — Ấn tượng cá nhân về các bài giảng toán học tại Đại học Humboldt sau khi chiến tranh kết thúc đăng trên Hội Toán học Berlin năm 2015, Klaus Krickeberg kể một số chuyện thú vị về không khí học tập tại Đại học Berlin sau chiến tranh:
Mùa hè năm 1946, một số lượng đặc biệt lớn người đã nộp đơn xin học tại Đại học Berlin cho học kỳ mùa đông 1946/47. Ngay cả khi đó, trường vẫn thường được gọi là “Đại học Humboldt”, một cái tên chính thức được sử dụng từ năm 1949. Có cả những ứng viên trẻ tuổi lẫn lớn tuổi. Bên cạnh những ứng viên “chính thức”, dĩ nhiên còn có rất nhiều cựu chiến binh và nạn nhân của sự ngược đãi (Verfolgung bởi nazi) đã mất đi nhiều năm tháng tuổi trẻ. Họ đương nhiên được hưởng chế độ ưu tiên. Thậm chí còn có những cuộc thảo luận về việc ưu tiên cho con cái của công nhân và nông dân. Ngược lại, tôi mới 17 tuổi, không bị ngược đãi, và xuất thân từ một gia đình học thức trung lưu; cha tôi là bác sĩ X-quang và mẹ tôi là trợ lý kỹ thuật y tế. Tôi thậm chí còn chưa hoàn thành nghĩa vụ “dọn dẹp đống đổ nát” bắt buộc. Tuy nhiên, tôi đã được nhận ngay vào học ngành vật lý. Có lẽ là vì tôi đã đỗ Abitur (Tú tài) “với điểm xuất sắc”, là người duy nhất trong số sáu học sinh tốt nghiệp trường Gymnasium (trung học nhân văn) của Pháp, tình cờ là những người đã tham dự kỳ thi Abitur đầu tiên sau chiến tranh tại Berlin vào ngày 28 tháng 6 năm 1946. Giấy chứng nhận tốt nghiệp của tôi, do hiệu trưởng Johannes Stroux ký, có ngày 18 tháng 10 năm 1946.
Toán học là một môn phụ trong chương trình vật lý của tôi (ông đầu tiên chọn ngành vật lý). Tôi rất thích bài giảng “Phép tính vi phân và tích phân I” của Erhard Schmidt. Ông bắt đầu bài giảng bằng câu: “Trước hết, bạn phải quên hết những gì đã học về toán ở trường“. Sau học kỳ đầu tiên, tôi chuyển đổi chuyên ngành chính và chuyên ngành phụ, nhưng tôi cũng học thêm một khóa nhập môn về hóa hữu cơ.
Erhard Schmidt, một trong những nhà toán học vĩ đại nhất của thế kỷ 20, là nhân vật chủ chốt trong toán học tại Đại học Humboldt trong những học kỳ đầu tiên sau chiến tranh. Người ta nói rằng ông, người đã bị (chiến tranh) cuốn đi đến Hamburg vào cuối chiến tranh, đã trở về Berlin bằng xe ngựa (lúc đó tàu hỏa chưa chạy lại) để tiếp tục các bài giảng của mình, mặc dù ông đã ngoài 70 tuổi, vì toán học cũng đã mất đi một số giáo sư. Khóa học của ông kéo dài sáu học kỳ. Đó là những bài giảng tuyệt vời nhất mà tôi từng được nghe, được truyền đạt hoàn toàn bằng trí nhớ mà không cần một tờ giấy giúp trí nhớ nào. Chúng sống động và về cơ bản là hình học. Một phép chiếu trong không gian Hilbert được minh họa bằng tay của ông. Nếu muốn làm rõ rằng các điểm nằm rất xa nhau, ông sẽ nói “đến tận Timbuktu”. Đôi khi ông dừng lại giữa chừng một bài chứng minh và bắt đầu lại từ đầu vì một bài chứng minh hay hơn, hay như các nhà toán học nói, “thanh lịch hơn” đã nảy ra trong đầu ông. Ông cũng cố tình đưa vào những lỗi nhỏ để thử thách sự chú ý của chúng tôi và khơi gợi những mâu thuẫn. Trong tất cả các bài giảng, không chỉ riêng bài giảng của ông, người ta chắc chắn có thể đặt câu hỏi và đưa ra bình luận. Schmidt từng là hiệu trưởng Đại học Berlin những năm 1929/30, nhưng ông không hề thỏa hiệp về mặt chính trị. Vào sinh nhật lần thứ 75 của ông năm 1951, mà tôi đã tham dự, Hans Freudenthal, một nhà toán học Do Thái đã sống lâu năm ở Hà Lan, đã khẳng định rõ điều này trong bài diễn văn chúc mừng dành cho ông.
Điều kiện vật chất dĩ nhiên là rất khó khăn. Trong khi các bài giảng toán học diễn ra trong phòng sưởi ấm vào mùa đông, thì nhiệt độ phòng giảng vật lý với Gerthsen đôi khi xuống tới -10°C vào mùa đông năm 1946/47, khiến một số thí nghiệm cần nước bị hủy bỏ. Cứ mỗi 20 phút, chúng tôi lại “dậm chân” một cái để làm nóng người. Nhưng điều tồi tệ nhất đối với tôi là cơn đói. Ít nhất thì căng tin cũng chỉ phục vụ một món súp loãng với rau củ không định nghĩa được và không có một giọt mỡ nào.
Bù đắp lại, người ta thấy có một sự nhiệt tình, siêng năng học tập và yêu thích thảo luận vô cùng lớn trong số sinh viên nam và nữ chúng tôi (đáng tiếc là nhóm sau chỉ chiếm thiểu số).
Nhìn lại, tôi tin rằng các ngành khoa học tự nhiên (tôi không thể nói về y khoa) tại Đại học Humboldt đã đạt trình độ rất cao trong vài năm đầu sau khi trường mở cửa trở lại. Điều này đã góp phần đáng kể vào việc duy trì tính liên tục của các ngành khoa học tự nhiên ở Đức, ít nhiều. Ví dụ, ít nhất bốn người bạn học toán của tôi từ những năm đầu học đã trở thành giáo sư chính thức ở Tây Đức. Các giáo sư này, đến lượt mình, đã đào tạo ra những sinh viên xuất sắc, sau đó làm việc trong các ngành công nghiệp, giáo dục hoặc học thuật. Bảy sinh viên của tôi đã giữ chức giáo sư chính thức (vị trí C4) tại các trường đại học./.
Sự kiện Tết Mậu Thân ở Việt Nam đã cuốn hút thế giới. Người Việt Nam cũng không tránh khỏi. Giai đoạn chính trị hóa của tôi bắt đầu từ đó, không biết rằng, Klaus Krickeberg là người đã bị “chiến tranh hóa” trước tôi mấy năm. Từ 1964, nghĩa là ba năm trước khi tôi đến Heidelberg, ông đã tự nguyện chuyển tiền hàng tháng cho tổ chức Vietnam Hilfsaktion một tổ chức thiên tả để giúp Việt Nam.
Trước tình hình biến động và cuộc chiến leo thang, một số anh em chúng tôi tập hợp lại ra một tờ báo tên Hòn Kẽm để thông tin và bình luận về những diễn biến chiến tranh và những biến động trong nước. Tờ báo nhắm “khai sáng” lòng yêu nước những người Việt Nam du học trẻ, chia sẻ với họ những gì đang diễn ra tại quê nhà và trên thế giới. Tuyệt đại đa số sinh viên du học Đức lúc đó, mà có lẽ cũng như ở những nơi khác, đều có thái độ “phi chính trị”. Tôi sử dụng căn phòng làm việc của tôi trong Viện toán cho việc làm báo, có khi làm việc xuyên đêm tới sáng. Thật là một việc làm “cả gan”. Nhưng không có cách nào khác trong tình hình khó khăn lúc bấy giờ. May mắn cũng nhờ uy tín của Klaus Krickeberg mà những việc làm đó được dung dưỡng. Ông là người âm thầm che chở cho hoạt động của chúng tôi.
![]() |
| Klaus Krickeberg (1.3.1929-27.11.2025), hưởng thọ 96t. Ảnh Đại học Heidelberg. |
Năm 1971, Klaus Krickeberg chuyển về làm giáo sự ở Đại học mới ở Bielefeld là đại học có không khí chính trị tương đối cởi mở hơn, và tôi cũng đi theo. Ông lúc này tham gia các hoạt động chống chiến tranh tại Việt Nam, hằng tháng tiếp tục gửi tiền cho Tổ chức Hilfsaktion Vietnam tại Tây Đức để ủng hộ về mặt nhân đạo cho Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Hè năm 1974, một khúc quanh lớn diễn ra trong đời ông. Nhận lời mời của Viện toán Việt Nam (Hà Nội), Klaus Krickeberg lấy xe lửa đi từ thành phố Bielefeld, nơi ông đang làm giáo sư ngành toán xác suất và thống kê, đi xuyên qua Tây Á Lợi Á đến Bắc Kinh rồi vòng xuống Hà Nội, mất khoảng mười mấy ngày. Nó đánh dấu một cuộc “phiêu lưu”, theo tiếng gọi của con tim, trên con đường sự nghiệp của ông. Ông có lẽ là người thứ ba thăm Việt Nam sau Laurent Schwartz và Alexander Grothendieck. Để đi Hà Nội, ông đã phải từ chối lời mời đọc bài tham luận toàn thể trước Hội nghị toán học thế giới (IMC) được tổ chức tại Vancouver năm đó, một vinh dự rất lớn dành cho một nhà toán học. Nhưng Việt Nam mới là mục tiêu ưu tiên của ông, xứ sở mà ông muốn “khám phá”.
Trên đường đi, ông tranh thủ soạn những bài giáo trình toán – bằng tiếng Việt do ông tự học, ngôn ngữ không biết thứ mấy mà ông quyết tâm học, chuẩn bị cho các buổi thuyết trình tại Hà Nội. Lúc đó ông mới 45 tuổi, còn khá trẻ.
Tại Hà Nội ông gặp được các trí thức hàng đầu lúc bấy giờ, Bộ trưởng giáo dục Tạ Quang Bửu, GS Lê Văn Thiêm, Tôn Thất Tùng, … Các trí thức hàng đầu rất niềm nở và có tinh thần học hỏi cao. Việt Nam (Hà Nội) lúc đó đang bị cô lập, cho nên gặp một nhà toán học đến từ Đức là một điều rất thú vị. Họ “đặt hàng” rất nhiều cho ông về những đề tài nghiên cứu lấy toán làm công cụ ứng dụng. Tất cả mọi người đều ham hiểu biết. Một không khí học hỏi rất sôi động.
Trong quá trình tiếp cận Việt Nam sau đó, một đề tài quan trọng chợt đến với ông như một tia sáng:
Cũng vào đầu năm 1978, một lãnh đạo khác của ngành y tế Việt Nam đã tiếp xúc với tôi. Đó là nhà virus học Hoàng Thủy Nguyên, người đã nghiên cứu ở Đông Đức và sau đó là giám đốc của “Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương”, gọi tắt là “Viện Vệ sinh Dịch tễ”, nguyên là Viện Pasteur Hà Nội, có chức năng phòng ngừa và kiểm soát các bệnh truyền nhiễm. Ông Nguyên hỏi về các phương pháp toán học trong Dịch tễ học. Đó chính là chủ đề của buổi nói chuyện về các bệnh truyền nhiễm. Câu hỏi có vẻ vô tình của ông đã trở thành nguồn gốc của sự hợp tác được tiếp diễn tích cực suốt 35 năm sau đó. Nó đã làm thay đổi hoàn toàn các mối quan tâm khoa học của tôi.
Cuộc gặp gỡ năm 1974, cũng như nhiều cuộc gặp gỡ sau diễn ra những năm 1978, 79, 80 đã tạo thêm niềm tin ở ông rằng, dân tộc này có tiềm năng trí tuệ lớn, có ý chí, cần cù lao động, ham học hỏi khoa học kỹ thuật để xây dựng đất nước bất chấp trở ngại gian khổ. Và ông quyết tâm góp phần lớn nhất của mình vào việc xây dựng một nền toán học ứng dụng, và cởi trói sự cô lập khoa học của Việt Nam.
Trở lại Bielefeld từ chuyến đi Hà Nội lịch sử, ông triển khai một loạt hoạt động ủng hộ VN, như tổ chức “Tuần lễ VN” cùng Hội sinh viên ở đó, chiếu phim Đường mòn Hồ Chí Minh, tổ chức gửi sách khoa học từ Đức về VN, thuyết trình về ngành toán học VN tại Đức và Pháp.
Nhưng ông ở lại Bielefeld không lâu. Sau chuyến đi Việt Nam, ông chuyển tiếp sang Paris, được bổ nhiệm làm “Giáo sư ngoại hạng” (classe exceptionnelle) tại Đại học Paris V. Ông là người có hai quốc tịch. Từ trẻ, ông đã theo học tại Trường Trung học Phổ thông Pháp ở Berlin cho đến tú tài năm 1946. Tại Paris, ông ghi danh học tiếng Việt và văn hóa Việt Nam, và lấy được bằng cử nhân, một nỗ lực phi thường. Ông biết nhiều thứ tiếng, tiếng Pháp, Anh, Nga, Đan Mạch, Tây Ban Nha và tiếng Hy Lạp hiện đại. Ông từng giảng dạy ở Đại học Chile bằng tiếng Tây Ban Nha. Lần này ông quyết theo đuổi học tiếng Việt Nam. Paris là môi trường có lẽ thích hợp đối với ông hơn là Đức. Ở đó có nhiều sinh hoạt văn hóa chính trị mạnh của một cộng đồng Việt Nam lớn. Chính phủ Pháp từ thời de Gaulle cũng cởi mở hơn về chính trị.
* * *
Sau 1974 tôi có qua thăm ông một lần ở Paris. Căn hộ ông (và bà Angela Zassenhaus, người bạn gái mà ông sống chung) được trang trí với những bàn ghế làm bằng mây nứa được ông mang về từ Việt Nam. Ông rất thích và hãnh diện có được những sản phẩm thủ công mỹ nghệ đó. Đó có lẽ không phải là những sản phẩm tre nứa bình thường, mà là những sản phẩm mang tính biểu tượng của một dân tộc nhỏ nhưng có nền văn hóa bất khuất, và hiện đang đấu tranh cho độc lập, tự do để xây dựng một tương lai mới mà ông cam kết giúp đỡ. Cuộc chiến đấu của dân tộc Việt Nam có lẽ đã truyền cảm hứng mạnh mẽ cho ông và đưa ông đến một định hướng hoạt động khoa học mới.
Rồi từ đó chúng tôi hầu như không còn gặp nhau nữa. Đầu năm 1980 tôi chuyển về Đại học kỹ thuật Berlin, và làm việc ở đây cho đến hết hạn hợp đồng năm 1986. Có một lần duy nhất tôi gặp lại ông tại Berlin, nhưng rồi chỉ để chia tay. Đó là lần chia tay bịn rịn của tôi, bởi tôi linh cảm, con đường của tôi có thể sẽ khác hơn những gì ông biết về tôi. Hà Nội 1974 đối với Klaus Krickeberg có thể cũng sẽ giống như Berlin 1980 đối với tôi, một khúc quanh, nhưng có lẽ “kịch tính” hơn với tôi.
Sau khi trở về sống tại quê nhà, 1986/87, tôi rất ngạc nhiên gặp lại ông ở thành phố Hồ Chí Minh với những đề án giúp Việt Nam! Lúc này Việt Nam đang trong giai đoạn khó khăn chồng chất. Nhưng chính trong những lúc khó khăn đó, Klaus Krickeberg vẫn luôn luôn có mặt bên cạnh Việt Nam. Ông không phải là nhà hoạt động nhất thời, giai đoạn, mà lâu dài, với những mục tiêu khoa học dài hạn cho Việt Nam. Lúc đó tôi mới biết rằng sau 1975 Klaus Krickeberg vẫn tiếp tục hoạt động cho Việt Nam, rồi mở rộng sang Lào và Campuchia với nhiều đề án về y tế. Ông giống như một “thiên thần” đi giúp người khác. Tôi cảm thấy ông ấy “yêu nước” hơn tôi và đóng góp không mệt mỏi. Những năm ở Heidelberg, ông cũng là người “yêu nước” hơn tôi. Rồi ở Bielefeld. Rồi sau 1975 cũng như thế, nhất là trong giai đoạn khó khăn. Trong những lúc khó khăn của Việt Nam, ông đều có mặt. Không biết có bao bạn bè quốc tế lúc đó có mặt với Việt Nam. Tôi cảm thấy mình xấu hổ vì là người Việt Nam mà chưa đóng góp được gì cho đất nước. Chuyến đi Hà Nội 1974 thật sự là làm cho ông ngày càng gắn bó sâu với đất nước Việt Nam. Từ đó ông thường xuyên về Việt Nam, tự bỏ tiền túi ra, thỉnh thoảng mới xin được đề án nước ngoài tài trợ. Tôi không ngờ về những diễn biến đó. Ông đã có thể sống thảnh thơi ở trời Tây, đâu phải lặn lội khó khăn như thế, về tận các trạm y tế địa phương để nghiên cứu hoạt động họ. Nhưng phục vụ cho Việt Nam mới chính là niềm vui của ông.
Ông Hoàng Thủy Nguyên, Giám đốc Viện dịch tể Trung ương NIHE rất tâm đắc với sự hợp tác của Klaus Krickeberg, cho thành lập một nhóm các nhà toán học trẻ để tiếp thu những vấn đề toán học của ông, trong đó có bà Phan Vũ Diễm Hằng, là nữ sinh đầu tiên của Việt Nam giành được huy chương đồng tại cuộc thi Olympic Toán học Quốc tế (IMO) năm 1975. Nhóm này được ông huấn luyện thống kê học để áp dụng vào y tế. Bà Hằng trở thành người bạn thân thiết của Krickeberg. Bà là một người rất dấn thân xã hội, chủ trương “đem tri thức toán học ứng dụng được vào cuộc sống và vì cộng đồng”, và đó là lựa chọn theo đuổi suốt cuộc đời bà.
![]() |
| GS Klaus Krickeberg thích ăn “bụi” ở VN – Ảnh: N.X.X. |
* * *
Năm 1978, sau khi chuẩn bị quy mô, Klaus Krickeberg trở lại Việt Nam ba lần liên tiếp trong năm để giảng bài và làm hội thảo tại nhiều nơi, trong đó có TP.HCM, làm việc với nhiều đại học, viện nghiên cứu và Bộ Nông lâm, Tổng cục Thống kê, đề nghị cách dạy toán có thực nghiệm hơn cho trường học… Các nhà y học Việt Nam đến với ông ngày càng nhiều hơn. Ông viết biên bản ghi nhớ về các phương pháp toán và thống kê học trong y tế, đặc biệt trong ngành dịch tễ học. Qua các xêmina về phương pháp lấy mẫu của ông, lần đầu tiên được đưa vào Việt Nam, và chẳng bao lâu đã trở thành công việc “cơm bữa” của những người làm thống kê khắp nơi ở Việt Nam. Một vài học trò của ông từ các xêmina này sau đó xây dựng Viện khoa học về kế hoạch gia đình, viện có vai trò lớn ở Việt Nam. Trong những năm đầu, ông đào tạo tiếp những người đã có chức vụ cao trong hệ thống y tế. Bên cạnh đó, ông đào tạo Nhóm toán học bốn người trong Viện Vệ sinh Dịch tễ. Những người này đều thành công với những công việc mới ở những vị trí cao hơn.
Ông tiếp tục giảng dạy, làm xêmina, chăm sóc sinh viên, ứng viên tiến sĩ, gửi các nhà nghiên cứu ra nước ngoài để nâng cao chất lượng. Ông đi đến nhiều làng quê để biết về hệ thống y tế Việt Nam. Ông viết những bản ghi nhớ, gửi Bộ Y tế các đề nghị. Ông nhận được sự hỗ trợ của một số tổ chức nước ngoài như chương trình như Chương trình 10 năm của Bộ ngoại giao Pháp tập huấn cán bộ hệ thống y tế; Chương trình UNICEF về kiểm soát bệnh tiêu chảy, mở rộng chủng ngừa, và sức khỏe bà mẹ và trẻ em, kiểm soát bệnh sốt rét, lao, dịch tễ học tại các hệ thống làng xã; chương trình của GTZ (Tổ chức hợp tác kỹ thuật của Đức) về kế hoạch hóa gia đình; “Chương trình phát triển các hệ thống y tế” của Cộng đồng châu Âu.
Từ năm 1980 trở đi, tại Paris, ông vừa học, nghiên cứu và đã dạy 12 năm liền những ý tưởng về “Dịch tễ học” và Y tế công cộng, kèm theo toán ứng dụng, những điều ông sẽ ứng dụng tại Việt Nam. Những người Việt công tác với ông đều rất trân quý ông, coi ông là người bạn lớn của Việt Nam. Từ năm 1978, Klaus Krickeberg nhận hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho nhiều nhà khoa học trẻ đến trình độ tiến sĩ, tạo điều kiện cho nhiều nhà khoa học VN tham dự các hội thảo quốc tế trong ngành.
Klaus Krickeberg dần dần trở thành người đưa luồng gió mới của toán học ứng dụng khá sớm vào Việt Nam, làm phấn chấn các nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam. Họ hiểu, và tìm thấy ở ông một người khai phá và gieo trồng những hạt giống mới trên mảnh đất khoa học còn mới. Những năm sau, ông xây dựng ngành Dịch tễ học và Y tế công cộng hiện đại theo những chuẩn mực thế giới, những ngành mà không một quốc gia nào phát triển lại dám làm ngơ từ thế kỷ 19, nhằm ngăn ngừa những thảm họa dịch bệnh như từng đã diễn ra trong lịch sử nhân loại. Phòng bệnh, tránh bệnh hơn chữa bệnh.
Năm 1998 ông nghỉ hưu ở Pháp, “Chương trình các hệ thống y tế” cũng kết thúc năm 2004 với báo cáo 45 trang của ông, nhưng ông chưa nghỉ hưu đối với Việt Nam. Ông khởi động một đề án mười năm tới, 2006-2016, được Quỹ Đức “Else Kröner-Stiftung” tài trợ nhằm phát triển Y tế công cộng mà điểm khởi đầu là Đại học Thái Bình do GS Hoàng Thủy Nguyên giới thiệu. Đề án này sau đó được mở rộng trên quy mô lớn đến các tỉnh khác. Sau 10 năm lao động cật lực ở ba miền mà ông đã đúc kết những nhận xét cần phải cải tổ ngành Y tế công cộng Việt Nam để nâng cao vị thế của ngành và chất lượng lên hàng quốc tế. Đã có hơn 600 nhà khoa học tham gia các workshop ông tổ chức. Ông có rất nhiều học trò và đồng nghiệp trên nhiều miền đất nước.
* * *
Đầu năm 2009, Klaus Krickeberg tròn 80 tuổi. Ông mong muốn có một buổi tiệc sinh nhật ở Đà Lạt chung với bạn bè. Đó là một ý tưởng vô cùng hay. Tôi đã nhận đứng ra tổ chức. Có hai học trò từ Đức sang, Klaus Dietz và Hans Zessin. Ông mời hơn chục đồng nghiệp Việt Nam từ Hà Nội tham dự. Lễ sinh nhật được tổ chức rât thành công, một cuộc hội ngộ của những người bạn lâu năm, làm cho ông rất hài lòng. Ông, hai bạn Đức và tôi cũng “thử sức” leo núi Lang Biang. Người Đức leo núi có truyền thống. Ông còn khỏe lắm. Đến Việt Nam lúc nào cũng thích tìm những nơi vắng vẻ để bơi. Báo Tuổi Trẻ có đăng một bài về ông, và một thợ may Đà Lạt đã nhận ra ông khi ông đến may đồ. Người thợ may chào mừng ông rất niềm nở và tặng cho ông tấm ảnh màu của ông đăng trên báo Tuổi Trẻ. Bà chủ nhà hàng VHL cũng rất hào phóng, chiêu đãi những vị khách quý bằng một món cá hồi nuôi tại Việt Nam, một đặc sản hiếm thấy.

Những ngày vui ở Đà Lạt: GS Klaus Krickeberg áo trắng cùng tác giả và những người bạn Đức (Klaus Dietz trái, Hans Zessin phải) ở Đà Lạt. Ảnh của NXX
Năm 2014, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, dưới sự chủ trì của Hiệu trưởng Phan Thanh Bình, đã quyết định trao tặng ông honoris causa, danh hiệu Tiến sĩ danh dự cao quý cho những đóng góp to lớn và ý nghĩa của ông cho Việt Nam.
“Trong sự công nhận những đóng góp vào sự nghiệp xây dựng của Việt Nam trong 50 năm qua, đặc biệt cho nghiên cứu, đào tạo và ứng dụng các khoa học thống kê, và cho việc củng cố ngành Y tế công cộng Việt Nam, và sự phát triển các quan hệ hữu nghị giữa nhân dân các nước Đức – Pháp – Việt Nam.”
Đại học Quốc gia Khoa học tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh
![]() |
| Lễ trao tặng danh hiệu Tiến sĩ danh dự cho GS Klaus Krickeberg |
![]() |
| Một cảnh hội thảo quốc tế tại Đại học Tây Nguyên |
* * *
Năm 2019, Klaus Krickeberg tròn 90 tuổi. Nhà nước Việt Nam quyết định trao Huân chương Hữu nghị cho ông, để cảm ơn những đóng góp quý báu và kiên trì của ông. Bà Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến, người tiết lộ mình cũng đã từng nghe những bài giảng của ông tại Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh, long trọng hứa trong phát biểu của bà, rằng Bộ Y tế sẽ thức hiện những đề nghị của Klaus Krickeberg trong Memorandum của ông gửi cho bà. Klaus Krickeberg muốn cải tổ toàn diện ngành YTCC, nâng cao chất lượng nghiên cứu và giảng dạy, tính chuyên nghiệp, năng lực ứng dụng toán học, cải thiện vị thế và điều kiện làm việc của các giảng viên, và những người tốt nghiệp.
Chuyến đi tháng 2, 2019 để nhận lãnh Huân chương là chuyến thứ 33 của ông đến Việt Nam, tức trung bình mỗi 1.36 năm ông thăm đất nước này một lần. Với sự hỗ trợ của Quỹ Đức “Else Kröner-Stiftung” ông đã làm việc với vô số các viện, đại học, phân khoa từ Bắc, Trung, Nam và Cao nguyên. Ông không phải chỉ đứng trên bục giảng mà còn đi “thực địa” đến thăm các Trạm y tế xã để xem họ hoạt động thế nào. Ông đã thăm tất cả trên 50 trạm như thế.
Trong dịp này, báo Sức khỏe & Đời sống có bài phỏng vấn ông.
PV: Cảm nhận của Giáo sư khi nhận được Huân chương Hữu nghị trong Ngày Thầy thuốc Việt Nam? Việt Nam có ấn tượng gì trong lòng Giáo sư trong suốt những năm tháng vừa qua?
GS. Klaus Krickeberg:
Tôi đã làm việc với Việt Nam trong suốt hơn 40 năm qua, cả về khoa học và y tế. Tôi đến Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1974. Việt Nam ngày đó rất khác so với bây giờ.
Vào mùa hè năm 1974, tôi có bài giảng tại một hội thảo ở Hà Nội cho một số nhà toán học trẻ tuổi. Có những nhà khoa học khác tiếp cận tôi và hỏi tôi về vai trò của toán học trong lĩnh vực của họ. Có những nhà khoa học thuộc lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp nhưng hầu hết là từ ngành khoa học sức khỏe. Tôi đã có cuộc thảo luận dài và thú vị với giáo sư Tạ Quang Bửu và thầy thuốc Tôn Thất Tùng.
Tuy nhiên, những lần gặp có nhiều ý nghĩa nhất và có tác động lâu dài nhất là với Hoàng Thủy Nguyên. Ông là một nhà virus học nhưng ông nhận thức rất đầy đủ về tầm quan trọng của toán học trong y học và Y tế Công cộng.
Tôi đã giành được một số danh hiệu như Kỷ niệm chương Vì Sức khỏe Nhân dân (2009), Giáo sư Danh dự Trường Đại học Y-Dược Thái Bình, và hôm nay tại đây, tôi lại được nhận Huân chương Hữu nghị của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về cống hiến cho sự phát triển của ngành y tế. Đây thực sự là một vinh dự to lớn mà tôi vô cùng biết ơn.
Kỷ niệm đáng nhớ của tôi với Việt Nam là vào năm 1980, “Nhóm Toán” của chúng tôi làm việc trong một căn hộ nhỏ bé tại tầng trệt của Viện Vệ sinh Dịch tễ Quốc gia. Mỗi sáng tới cơ quan bằng xe đạp. Hồi đó trên đường phố Hà Nội hầu như không có xe máy. Có một buổi sáng, người tạp vụ của Viện và tôi cùng tới Viện bằng xe đạp. Gặp nhau ở cổng viện, anh ta nói với tôi rằng: “Kơ Rí Cơ Bé là một người Việt Nam.” Đó có lẽ là kỷ niệm không thể quên về quá trình gắn bó với Việt Nam.
Câu hỏi cuối của báo, Xin Giáo sư có thể chia sẻ những trăn trở của ông đối với ngành y tế công cộng? GS. Klaus Krickeberg trả lời:
Điều khiến tôi trăn trở là có những lần gặp gỡ sinh viên của mình ở Việt Nam và hỏi họ tại sao họ đến với y khoa. Đa phần sinh viên trả lời muốn trở thành bác sĩ lâm sàng thay vì theo đuổi ngành y tế công cộng. Bởi là bác sĩ, họ có thể kiếm nhiều tiền hơn là chuyên gia y tế công cộng. Điều này khiến tôi có phần trăn trở. Điều quan trọng là cần phải trao cho giảng viên y tế công cộng, khoa y tế công cộng tại các trường đại học cùng địa vị như giảng viên đào tạo bác sĩ lâm sàng. Ví dụ như liên quan đến chứng nhận về phẩm chất năng lực, địa vị, thu nhập, thời gian rảnh rỗi, khả năng nghiên cứu, và cả thực hành y tế nữa. Thầy thuốc y tế công cộng nên được đối xử bình đẳng và được coi trọng như bác sĩ lâm sàng.
![]() |
| Tiệc chiêu đãi sinh nhật của Bà Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến, dành cho Klaus Krickeberg và Helga tối ngày 25.2.2019 |
Tối ngày đó, Bà Kim Tiến đã có buổi chiêu đãi thân mật dành cho Klaus Krickeberg và bà Helga, không khí rất vui và tình cảm. Được Bà Bộ trưởng Y tế hỏi ông còn tiếp tục đi với chúng tôi trong giai đoạn đổi mới sắp tới nữa không, ông đã không ngần ngại mở lòng: Có chứ, tôi sẽ tiếp tục ủng hộ các bạn − trong tiếng vỗ tay lớn vui mừng của các vị khách quý. Câu trả lời khẳng định của một người tuổi đã 90 không dễ cho người thường! Sức mạnh từ đâu ông có? Từ ham muốn thực hiện các ý tưởng mới cho Việt Nam, từ cuộc sống thanh đạm, phong phú về tinh thần và văn hóa, nhưng trước hết từ tình yêu đối với Việt Nam, từ niềm tin rằng đất nước con người Việt Nam rất có tiềm năng lớn cần được hỗ trợ. Tình yêu và ý tưởng sáng tạo, đó mới chính là nguồn năng lượng sáng tạo vô biên. Hoạt động cho Việt Nam, Klaus Krickeberg không bao giờ thấy mệt mỏi.
Nhưng rồi khoảng 6 tháng sau, bà Tiến đã nghỉ việc! Và từ đó chương trình tâm huyết Y tế Công cộng của ông là “bản nhạc dang dở”. Ông đã cố gắng biên soạn chung với các tác giả Việt Nam được bộ sách cho tới năm 2017 gồm 7 quyển được xuất bản một tại Springer, sáu tại Nhà xuất bản Y học Hà Nội để làm nền tảng cho chương trình cải cách nền giáo dục Y tế Công cộng, nâng cao trình độ lên ngang bằng trình độ thế giới hoặc hơn.
![]() |
| Một trong những quyển sách của Series sách Y tế Công cộng của Klaus Krickeberg và đồng nghiệp Việt Nam. |
Klaus Krickeberg không biết rằng, chuyến đi Hà Nội năm 2019 là chuyến thăm Việt Nam cuối cùng của ông. Sau đó ông vẫn tìm cách liên lạc với Bộ y tế về chương trình YTCC, gửi tiếp nhiều đề nghị cải cách cho người lãnh đạo mới, và bày tỏ sự sẵn sàng sang Việt Nam lại khi cần thiết. Nhưng có lẽ thời gian của ông với Việt Nam đã hết mặc dù ông vẫn ngóng trông tin.
Từ giã Hà Nội, ông bay vào Đà Lạt, theo lời mời của một gia đình mạnh thường quân rất có tấm lòng, chị Bạch Mai và anh Tiêu Như Phương, có nhã ý mời ông đến khu resort EDENSEE rất đẹp của họ bên bờ Hồ Tuyền Lâm. Họ mở tiệc chiêu đãi ông mừng sinh nhật có mời một số anh chị từ Đà Lạt như Hà Ngọc Mai, Trần Hà Anh và Thành phố Hồ Chí Minh bay lên, anh Nguyễn Văn Nhã. Buổi tiệc đó thật là ấm cúng và tình cảm, như thể “chỉ có tình thương để lại đời”. Người Việt, từ người thợ may, hay chị chủ nhà hàng Đà Lạt đến vợ chồng doanh nhân Phương-Mai, đều là những người biết quý mến và ngưỡng một sự dấn thân của ông dành cho Việt Nam. Tôi rất cảm động và biết hơn. Họ như những người “đại diện” của nhân dân Việt Nam để nói với Klaus Krickeberg hai chữ: Cảm ơn.
Tiệc chiêu đãi Klaus Krickeberg tại EDENSEE. Người đứng giữa là GS. Klaus Krickeberg, bên cạnh là Helga, còn người áo trắng tay dài bên phải là anh Tiêu Như Phương. Bộ vest của Klaus Krickeberg được may tại Đà Lạt bằng tơ tằm Việt Nam năm 2009 trong dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 80 của ông. Một buổi chiêu đãi rất nhiều tình cảm. Tôi hết sức cảm ơn nghĩa cử cao đẹp của Phương-Mai.
![]() |
| Đi thuyền trên hồ Tuyền Lâm |
* * *
Có biết bao nhiêu điều để kể về Klaus Krickeberg và việc làm của ông cho Việt Nam, tại Việt Nam và bên ngoài Việt Nam. Đất nước này không thiếu dấu chân ông, từ Bắc chí Nam. Tôi có ghi lại sự hiểu biết của tôi thành hai bài viết để bạn đọc quan tâm tham khảo trên mạng rosetta.vn.
Những thông điệp cuối cùng: Cách đây đúng 3 năm, ngày 3/11/2022, Ý tưởng tâm huyết của ông về một nền Y tế công cộng hiện đại cho Việt Nam của Klaus Krickeberg được đăng trên tạp chí Tuổi Trẻ Cuối Tuần:
Một ý tưởng cải cách y tế công cộng cho Việt Nam – Tuổi Trẻ Online
![]() |
Klaus Krickeberg với tập tư liệu do ông biên soạn cho Việt Nam. Tấm ảnh này có lẽ là biểu tượng cho sự dấn thân của ông cho Việt Nam. |
Trước đó, ngày 11 tháng 7 cùng năm, ông cũng không quản ngại bỏ ra công sức làm một hồ sơ gửi cho Bộ Y tế:
Thư gửi Bộ trưởng (của Nguyễn Xuân Xanh)
Thư gửi Bộ trưởng của GS TS Klaus Krickeberg (tiếng Việt và tiếng Anh)
“Tổ chức lại ngành Y tế Công cộng tại Việt Nam” (tiếng Việt và tiếng Anh)
Những tư liệu trên là những thông điệp cuối cùng của Klaus Krickeberg gửi cho công luận và cơ quan hữu trách về đề án mà ông đã theo đuổi hơn 30 năm qua. Tôi biết, ông chờ đợi và chờ đợi một tia hy vọng dù biết nó rất mong manh nếu không muốn nói là hoài công.
* * *
Một so sánh. Không cần lặp lại sự dấn thân miệt mài của Klaus Krickeberg một nửa thế kỷ, vì tình yêu vô điều kiện đối với Việt Nam. Tuy nhiên, ông “không thành công” bằng một kỹ sư, thống kê học, chuyên gia về kiểm tra chất lượng (quality control) William E. Deming (1900 –1993) ở Nhật Bản thời hậu chiến. Lúc đầu nhiệm vụ chính thức của Deming được Tướng Douglas McArthur giao, là làm cuộc điều tra lại dân số Nhật. Tuy nhiên, do tên tuổi ông, Demng được Hiệp hội các nhà khoa học và kỹ sư Nhật Bản (JUSE) mời, nên trong năm 1950 ông đã huấn luyện hàng trăm kỹ sư, nhà quản lý, và học giả, về điều khiển quá trình thống kê (statistical process control) và khái niệm chất lượng. Ông cũng dành một khóa đặc biệt cho các nhà lãnh đạo cấp cao trong đó có những nhà công nghiệp Nhật Bản hàng đầu như Akio Morita, nhà sáng lập Sony. Thông điệp của Deming gửi đến các nhà lãnh đạo chóp bu là: cải thiện chất lượng sẽ giảm chi phí, đồng thời tăng năng suất, uy tín sản phẩm, và thị phần thế giới. Thực tế, người Nhật đã hiểu ngay tầm quan trọng của các phương pháp toán học này cho sự phát triển kinh tế sống còn của họ và đã áp dụng rộng rãi các kỹ thuật toán thống kê của Deming, và đã rất thành công trong việc nâng cao uy tín của sản phẩm công nghiệp của Nhật Bản, làm cho “Made in Japan” trở thành thương hiệu ngày càng chinh phục thế giới. Deming đã trở thành “Ông Tổ” của ngành kiểm tra chất lượng của Nhật Bản. Mười năm sau, 1960, Deming được Thủ tướng Nhật Bản Nobusuke Kishi thay mặt cho Hoàng đế Hirohito trao tặng Huân chương “Thụy bảo chương” (Zuihōshō), huân chương danh giá sau Huân chương Mặt trời mọc. Các nhà công nghệ muốn tặng ông tiền tác quyền từ lợi nhuận do phương pháp ông tạo ra, nhưng ông đã từ chối. Họ bèn liền lấy tiền đó để lập ra Giải thưởng Deming dành cho các ngành kiểm tra chất lượng và quản lý chất lượng, nói lên lòng biết ơn mãi mãi của họ đối với Deming. Toyota Motor Corporation là một trong những công ty Nhật đoạt Giải Deming này năm 1965.
Trong những thập niên Klaus Krickeberg hoạt động, Việt Nam chưa phải là quốc gia có lửa để trui rèn lưỡi gươm khoa học cho sắc bén, cũng như vì thế chưa sử dụng nguồn lực từ cộng đồng bạn bè quốc tế cũng như các Việt kiều ở nước ngoài để tạo nền tảng khoa học, công nghệ cho vững chắc. Trong bối cảnh đó, chúng ta hiểu tại sao thành công của Klaus Krickeberg là giới hạn. Ông gieo nhiều hạt giống rất tốt, hoạt động rất công phu, chăm chút, tận tụy, nhưng mùa thu hoạch của những gì ông gieo trồng trên mảnh đất Việt Nam thì chưa đến. Tôi nghĩ, Klaus Krickeberg ý thức việc này, nhưng ông có thái độ chấp nhận, không than vãn hay trách móc từ trái tim của một con người cao quý. Ông khắt khe với tiêu chuẩn khoa học của những gì ông làm, với chính mình, nhưng luôn luôn khoan dung và rộng rãi với những người khác.
Ông là một tấm gương sáng của tinh thần phụng sự, của lao động khoa học không mệt mỏi, và lòng vị tha. Ông hoạt động vì một đất nước Việt Nam phát triển, với tâm huyết và một sự dấn thân bền bỉ trong mọi thời kỳ của đất nước, và với những mục tiêu cụ thể. Vài khẩu hiệu của ông, thiết tưởng không thừa, nếu được lặp lại ở đây:
Học một biết mười
Hãy học một cách thông minh, không nên chỉ bằng lòng với cách học thuộc lòng.
Học đi đôi với hành
Như một cách học mới không từ chương, vì sự hữu ích cho xã hội.
* * *
Nếu hỏi đất nước nào Klaus Krickeberg dành nhiều tâm huyết, nguồn lực và thời gian của đời ông nhất, tôi xin trả lời ngay: Đất nước Việt Nam! Tâm huyết đó trải dài từ những năm 1964 khi ông bắt đầu ủng hộ Việt Nam, năm 1974 khi ông đi thăm Hà Nội bằng xe lửa, rồi cả thời gian xây dựng hòa bình sau 1975. Ông đi giảng dạy tại nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng trái tim dành cho đất nước nào nhiều nhất, tôi cũng xin trả lời: Đất nước Việt Nam! Có thể nói: Việt Nam luôn luôn ở trong tim ông. Ông rất xứng đáng được gọi là người Việt Nam, đúng như một nhân viên của NIHE từng gọi ông và đánh trúng tim ông!
Klaus Krickeberg để lại cho Việt Nam không chỉ di sản khoa học của mình, mà còn cả đạo đức nghề nghiệp, sự dấn thân và tình yêu khoa học phục vụ con người – cũng như văn hóa khoa học đã thấm sâu trong huyết quản của ông. Đây là những giá trị vô cùng quan trọng mà người Việt Nam có thể học hỏi từ ông.
Klaus Krickeberg ơi, người bạn, người thầy cao quý của Việt Nam, và của tôi, xin hãy ngủ yên. Nhân dân Việt Nam biết ơn ông. Đất nước này cũng từng được nhiều người bạn yêu mến một cách vô điều kiện. Mong đời sau sẽ có nhiều người Việt Nam noi gương ông phục vụ vô điều kiện mảnh đất này cho tốt đẹp hơn, giữ gìn bản sắc Việt Nam hơn, như ông hằng mong ước. Bạn đã gieo những hạt giống khai sáng. Rồi đây sẽ có những con người mạnh mẽ tiếp nối ở nơi mà bạn đã phải dừng lại.
Bạn hãy ngủ yên.
Nguyễn Xuân Xanh
Thành phố Hồ Chí Minh, 30. 11. 2025
Nguồn: Klaus Krickeberg: Trái tim cống hiến cho Việt Nam đã ngừng đập, Rosetta, 4 Tháng Mười Hai, 2025











