TÍNH THÍCH ĐÁNG CỦA NHỮNG CON SỐ: VÍ DỤ VỀ CHI PHÍ MỘT NGÀY NẰM BỆNH VIỆN
Tác
giả: Laurent
Mériade
Nỗi ám ảnh với những con số
khiến chúng ta không còn biết các sự vật có giá bao nhiêu. Hình minh hoạ với
một phòng trong bệnh viện. Arsyah
Studios/shutterstock
Trên báo chí, truyền hình hay tại Quốc Hội, các con số thường được đưa ra như những lập luận không thể phản bác. Nhưng những con số nói lên điều gì? Liệu sức mạnh kỳ diệu được gắn kết cho chúng cách đây nhiều thế kỷ có hoàn toàn biến mất không? Có phải một con số là luôn luôn không thể phủ nhận? Một suy nghĩ còn cấp thiết hơn vào thời đại trí tuệ nhân tạo vạn năng.
Chi phí cho sức khoẻ, phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính, trợ cấp công cho doanh nghiệp, tỷ lệ tội phạm, chi phí cho nợ nần, gian lận thuế, hệ thống hưu trí, trợ cấp xã hội… Các nhà lãnh đạo sử dụng và thường lạm dụng các con số để minh chứng cho các quyết định của họ hay còn là cho các cách họ làm, hoặc đôi khi là không làm.
Trong lúc này, nhân dịp Quốc Hội thảo luận về luật tài chính cho năm 2026, hàng ngày chúng ta chứng kiến những cuộc tranh luận gay gắt giữa các dân biểu Quốc Hội chung quanh “những con số”. Tuy nhiên, liệu ta có thể thực sự tin vào các con số? Và trao cho chúng những ý nghĩa gì?
Những con số có giá trị tượng trưng
Từ thời đại Lưỡng Hà (3000 năm trước Công Nguyên), các nhà toán học đã quy cho các con số ba ý nghĩa chính: kinh tế, ý hệ và thần bí.
Những bảng khắc chữ hình nêm bằng đất sét thuộc thời kỳ này được tìm thấy thể hiện 80% các văn bản hành chính có tính chất kinh tế trước tiên, chủ yếu bao gồm những dữ liệu bằng số. Đó có thể là các chiều kích của một cánh đồng hay một ngôi nhà, các khẩu phần thực phẩm, số quân nhân của một quân đội hay còn là số lượng của một khối dự trữ.
Đọc thêm: La gouvernance par les nombres ne façonne-t-elle pas trop les politiques publiques? Liệu việc quản trị bằng số liệu có định hình thái quá các chính sách công?
Số liệu cũng đóng một vai trò về ý hệ, đặc biệt là tuỳ theo tầm quan trọng của chúng. Ta có thể dẫn ra con số 3600 vốn có nghĩa vừa là “toàn bộ” vừa là “vô số”. Các con số cũng có thể mang một ý nghĩa thần bí. Những cư dân Lưỡng Hà xưa gắn kết một số những con số với thần linh. Ví dụ, người ta dùng hoặc lồng vào số 15 (được gắn với nữ thần tình yêu và chiến tranh Ishtar) để chỉ ra sức mạnh của con số.
Một con số, ba chiều kích
Một cách tương tự đáng ngạc nhiên với cách của người dân Lưỡng Hà, ngày nay các nhà quản trị cũng cho rằng nguyên liệu mà các con số thể hiện vừa là kết quả của một kỹ thuật tính toán, vừa là của một triết lý và của sự thể hiện thực tại. Ý nghĩa theo ba chiều kích này vốn đánh dấu từng giai đoạn của lịch sử các con số thúc đẩy phân tích chi tiết hơn các cách mà các con số này (còn gọi là số lượng) được tạo ra, ngay lúc chúng ta có ít công cụ để ước lượng giá trị khoa học của các cách mã hoá này.
Một trong số các bài báo mới đây của chúng tôi nêu ra rằng giá trị khoa học của các mã hoá này trước hết đến từ tính thích đáng của chúng, tương ứng với một thước đo công dụng của một lời giải. Thước đo biểu thị tầm quan trọng của lời giải này cho một mục tiêu quan trọng. Những con số thích đáng là những con số gắn kết chặt chẽ với một vấn đề và việc bỏ qua chúng sẽ làm thay đổi vấn đề.
Một cách tổng thể, những công trình về quản trị hay kinh tế ghi nhận ba hình thức của sự thích đáng – thực hành, lý thuyết, xã hội – thường được gắn với các đức hạnh trí thức của Aristote:
- Tính thích đáng trong thực hành tương ứng với công dụng của một con số về một câu hỏi hay một vấn đề đặc biệt (la technè aristotélicienne -kỹ thuật Aristote-);
- Tính thích đáng về lý thuyết tương ứng với tri thức được con số này tạo ra (l’episteme);
- Tính thích đáng về xã hội và mang tính xã hội sâu rộng tương ứng với tri thức thực tiễn chung được tạo ra (la phronesis).
Nghiên cứu tính thích đáng của các con số thường bao gồm việc chất vấn những người sử dụng những con số này. Tuy nhiên, khó nhận định được tính thích đáng này cho số lượng lớn hơn, vì những người sử dụng thường thông tin tuỳ theo tính chủ quan và những lợi ích riêng của chính họ.
Phần vô hình của những con số
Qua phân tích việc tạo ra những con số của các chi tiêu và chi phí của bệnh viện ở Pháp, chúng tôi chỉ ra rằng các tính thích đáng về thực hành, lý thuyết và xã hội của các con số trước hết được quyết định bởi phương pháp tính toán. Những phương pháp này lại thường là phần vô hình của các con số.
Ở Pháp, ví dụ trong năm 2023, tổng các chi phí bệnh viện hàng năm (cả công và tư) ước khoảng 100 tỷ euro trong Mục tiêu quốc gia về chi tiêu cho bảo hiểm y tế (Ondam) được Quốc Hội thông qua, ước khoảng 122 tỷ euro bởi Cục Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá và thống kê (Drees) và 248 tỷ euro bởi Viện quốc gia thống kê và nghiên cứu kinh tế (Institut national de la statistique et des études économiques -Insee). Các chi tiêu này tuỳ thuộc vào chi phí cho một ngày nằm bệnh viện. Ở Pháp, từ cuộc cải cách tài trợ các cơ sở y tế [tarification à l’activité (T2A)], một phần các chi phí bệnh viện được hoàn lại cho các cơ sở y tế theo một giá biểu trung bình của thời gian nằm viện của bệnh nhân (giá biểu cho hoạt động mà phương pháp tính toán cũng rất bị tranh cãi). Phần còn lại (phải thanh toán), người sử dụng hoặc quỹ bảo hiểm sức khoẻ bổ sung (mutuelle) phải trả tính theo ngày hiện diện của bệnh nhân ở bệnh viện. Đối với Cơ quan kỹ thuật thông tin về chăm sóc nội trú (Agence technique de l’information sur l’hospitalisation – ATIH), chi phí trung bình cho một ngày nằm bệnh viện trong một bệnh viện công tại Pháp là vào khoảng 700 euro, nhưng là 600 euro trong các dịch vụ y tế, 950 euro trong các dịch vụ phẫu thuật và khoảng 2000 euro cho các hoạt động chăm sóc đặc biệt.
Có tồn tại một giá đúng cho việc nằm bệnh viện không?
Ngày nằm bệnh viện này được tính cho bệnh nhân hoặc cho quỹ bảo hiểm sức khoẻ trung bình là 1400 euro trong một dịch vụ y tế, nhưng trung bình là 1700 euro cho phẫu thuật và 3000 euro cho chăm sóc đặc biệt.
Đối với văn phòng kiểm toán Ernst & Young, vào năm 2025, chi phí một ngày nằm bệnh viện lại khác nữa. Chi phí trung bình là 873 euro về y tế và 365 euro trong dịch vụ chăm sóc và phục hồi chức năng (SSR).
Như đại biểu Quốc Hội và là bác sĩ Cyrille Isaac-Sibille đã tố cáo tại cuộc họp mới đây của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc Hội: “Không còn ai biết đánh giá các chi tiêu cho y tế!”
Tính thích đáng của các phương pháp tính toán đi trước các con số
“Trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi nêu ra rằng độ tin cậy của những con số được tạo ra xuất xứ trước hết từ phương pháp tính toán ra chúng. Để làm việc này, trong một nhóm làm việc bao gồm các nhà quản trị, trưởng phòng, lãnh đạo y tế và bác sĩ của một trung tâm chống ung thư của Pháp phụ trách phân tích các số liệu được tạo ra tại cơ sở này, chúng tôi xác nhận rằng tính thích đáng của phương pháp tính toán chi phí cho một ngày nằm bệnh viện có thể được đo lường bởi bốn tiêu chí chính: tính nhân quả, khả năng truy xuất nguồn gốc, tính toàn diện và tính đại diện (mô hình CTER).
· Tính nhân quả bao gồm việc hiểu và giải thích nguồn gốc của các con số được tính toán nghĩa là mối liên hệ chặt chẽ giữa con số đã được tính ra và những yếu tố tính toán của nó. Ví dụ, trong trường hợp các chi phí của một ngày nằm bệnh viện, cần bảo đảm mối liên hệ giữa con số được tính và những yếu tố quyết định chính của nó: số lượng hoặc thời gian nhân viên y tế ở gần bệnh nhân trong một ngày, thời gian nằm bệnh viện, chi phí cho một bữa ăn, số lượng và chi phí dùng thuốc hoặc các hoạt động chụp hình ảnh y tế, v.v..
· Khả năng truy xuất nguồn gốc cho phép bảo đảm độ tin cậy của các thông tin về tính toán và khả năng thu thập chúng. Ví dụ, để tính chi phí cho một ngày nằm bệnh viện, phải chắc chắn là có thể thu thập thông tin đáng tin cậy liên quan đến thời gian chính xác của một lần nằm bệnh viện, chi phí của một bữa ăn trong thời gian đó, chi phí chính xác của một lần chụp hình ảnh y tế, số thuốc được dùng và chi phí cho những thuốc này, v.v..
· Tính toàn diện của phương pháp được xác định bởi mức độ chi tiết của thông tin được sử dụng để tính toán một con số. Nếu để tính ra con số cuối cùng mà người ta dùng cách tính toán những trị số trung bình (ví dụ thời gian trung bình nằm bệnh viện để tính chi phí cho một ngày nằm bệnh viện), thì tính toàn diện sẽ thấp. Nếu ta dùng những yếu tố đặc thù (ví dụ thời gian cụ thể của mỗi lần nằm bệnh viện), tính toàn diện sẽ cao hơn. Ta dùng những yếu tố tính toán càng cụ thể và chi tiết thì tính toàn diện sẽ càng lớn. Nếu ta dùng những giá trị trung bình hay trung vị nhiều hơn thì tính toàn diện sẽ yếu hơn.
Tôn trọng ba tiêu chí đầu tiên này cho phép bảo đảm tính chính xác của những con số được tạo ra. Ta có thể xem một con số là không chính xác nếu nó không tôn trọng, hoặc chỉ tôn trọng một phần, ba nguyên tắc này.
Cuối cùng, tính đại diện đánh giá mối tương quan giữa con số được tính ra và các giá trị được các yếu tố tính toán thể hiện ra. Tính đại diện xác định số lượng các giá trị (kinh tế, toàn bộ xã hội, đạo đức, v.v.) mà những yếu tố tính toán này có thể nêu rõ và giúp quản lý được. Nếu con số được tính từ duy nhất các yếu tố kinh tế (ví dụ chi phí cho một bữa ăn, một lần chụp hình ảnh hay một giờ của nhân viên), tính đại diện sẽ yếu. Ngược lại, nếu việc tính toán một con số cũng huy động các yếu tố kỹ thuật (thời gian nằm bệnh viện chính xác, trọng lượng của áo quần, ra giường… đã sử dụng, số các bữa ăn đã dùng, hình ảnh y tế, nhân viên được huy động hay số đơn thuốc), những yếu tố này cho chúng ta biết các giá trị xã hội hay đạo đức của một ngày nằm bệnh viện, thì lúc đó tính đại diện sẽ quan trọng hơn và phương pháp tính toán được xem là thích đáng hơn.
Video: Le cauchemar de la gouvernance par les nombres [Séverine Ventolini]- Ác mộng của việc quản trị bằng các con số
Xerfi Canal, 2022.
Phát triển các công cụ kiểm chứng
Đứng trước các luồng dữ liệu bằng số mà ta nhận được mỗi ngày, có lẽ điều cốt yếu là kiểm chứng tính thích đáng của các phương pháp tính toán trước khi kiểm chứng tính thích đáng của các con số mà các phương pháp này tạo ra. Sự huy động bốn tiêu chí về tính thích đáng của các phương pháp tính toán do các công trình nghiên cứu của chúng tôi đề ra (CTER) có thể giúp hình dung ra lý lẽ cho sự biện minh này. Trong phần lớn các tình huống, phải là chính người sử dụng những con số này (người thông báo chúng) biện minh cho một hay nhiều tiêu chuẩn này (tối thiểu là phải có tính nhân quả hoặc khả năng truy xuất nguồn gốc).
Nhưng ta cũng có thể nghĩ đến việc phát triển các thiết bị hoặc công cụ kiểm chứng các tiêu chí về tính thích đáng của các phương pháp tính toán tương tự như fact-checking (kiểm chứng thông tin) đã được thực hiện bởi các trang web thông tin chuyên môn về các số liệu được truyền thông hoặc được sử dụng (AFP Factuel, Le vrai ou faux trên đài France Info, Désintox trên đài Arte). Khi tích hợp các tiêu chí này vào các thuật toán, các công cụ trí tuệ nhân tạo cũng có thể là một điểm tựa quý báu trong những thao tác kiểm chứng các phương pháp tính toán trước khi kiểm chứng các con số.
Về tác giả:
Giáo sư đại học về khoa học quản trị - Thạc sĩ các khoa IAE- CleRMA*
Đại học Clermont Auvergne
Tuyên bố công khai
Laurent Mériade đã nhận tài trợ của Cơ quan nghiên cứu quốc gia Pháp [l'Agence nationale de la recherche (ANR)] và của Liên minh châu Âu (FEDER) để thực hiện các công trình nghiên cứu, đặc biệt là trong khuôn khổ của vai trò chủ nhiệm bộ phận nghiên cứu “Sức khoẻ & Lãnh thổ” của Đại học Clermont Auvergne.
Người dịch: Thái Thị Ngọc Dư
Nguồn: “La pertinence des chiffres en question: l’exemple du cout d’une journée d’hospitalisation”, The Conversation, 17.12.2025.
----