4.12.25

Đọc lại Tư bản (VII): Chương 6 - Tư bản như là quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất

 

Đọc lại Tư bản (VII):

CHƯƠNG 6 - TƯ BẢN NHƯ LÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

Trần Hải Hạc

LƯU Ý CỦA TÁC GIẢ - DỊCH GIẢ

Năm 2003, công trình nghiên cứu Pháp ngữ Relire Le Capital. Marx, critique de l’économie politique et objet de la critique de l’économie politique của Trần Hải Hạc ra mắt ở nhà xuất bản Page Deux (Lausanne, Thụy Sĩ) và gồm hai tập sách (t.1, 397 trang; t.2, 366 tr.). Từ đầu năm 2021, với nhan đề Đọc lại Tư bản. Marx, phê phán chính trị kinh tế học và đối tượng của phê phán chính trị kinh tế học, một bản dịch tiếng Việt do tác giả tự thực hiện được công bố từng phần trên trang Phân tích kinh tế.

Đọc lại Tư bản (VII) bao gồm các nội dung như sau:

Chương 6: Tư bản như là quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất

Mục lục

Xem các phần trước:

-          Đọc lại Tư bản (I)

-          Đọc lại Tư bản (II)

-          Đọc lại Tư bản (III)

-          Đọc lại Tư bản (IV)

-          Đọc lại Tư bản (V)

-          Đọc lại Tư bản (VI)

Do không có đầy đủ bản Việt ngữ các trước tác của Marx, mỗi khi cần thiết, dịch giả đã tự chuyển ngữ từ phiên bản Pháp ngữ của Marx. Trong thư mục, các văn bản của Marx được xếp theo thứ tự năm xuất bản hoặc năm biên soạn bản thảo, tiếp theo là nhan đề tiếng Việt của tác phẩm và quy chiếu của văn bản tiếng Pháp. Đặt ở phía sau mỗi chương, các chú thích trích dẫn tác phẩm của Marx gồm tên của văn bản Việt ngữ và quy chiếu đến văn bản Pháp ngữ.

Khi chuyển ngữ những thuật ngữ của Marx chưa được thông dụng, lần đầu chúng tôi kèm theo từ Pháp ngữ trong dấu ngoặc đơn. Đồng thời phía sau đây chúng tôi gom các thuật ngữ đó trong một bảng đối chiếu Việt – Pháp và, khi cần thiết, chúng tôi bổ sung với những chú giải về cách chuyển ngữ.

THUẬT NGỮ VIỆT–PHÁP

-          Hình thái giá trị/Hình thái của giá trị (Forme valeur/Forme de la valeur)Trong lý luận về giá trị, Marx phân biệt “hình thái giá trị” [forme valeur] và “hình thái của giá trị” [forme de la valeur]. Phạm trù “hình thái giá trị” chỉ giá trị với tính cách là hình thái xã hội, giá trị như là quan hệ xã hội lịch sử đặc thù. Phạm trù “hình thái của giá trị” [forme de la valeur] chỉ hình thái biểu hiện của giá trị hay hình thái hiện tượng của nó, tức hình thái tiền tệ của giá trị mà Marx còn gọi là “giá trị trao đổi” để phân biệt với “giá trị”. Sự phân biệt này không phải lúc nào cũng rõ ràng trong các văn bản của Tư bản, chẳng hạn như trong ấn bản đầu tiên của Quyển I năm 1867, cho nên trong ấn bản 1875, tức phiên bản tiếng Pháp, Marx đã phải đính chính khi trình bày hình thái của giá trị hay giá trị trao đổi: “Nếu ở đoạn đầu chương này, theo cách nói thông thường, chúng tôi có nói: hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, thì xét theo nghĩa đen từng chữ, nói như vậy là sai. Hàng hoá là giá trị sử dụng hay vật hữu dụng, và là giá trị. Hàng hoá chỉ biểu hiện thành một vật hai mặt khi giá trị của nó có một hình thái hiện tượng riêng, khác với hình thái tự nhiên của nó, tức hình thái giá trị trao đổi”[1]. Còn trong Bản thảo 1861-1863, để tránh hiểu sai, Marx phải cảnh báo người đọc: “Khi chúng tôi sử dụng từ giá trị mà không có chi tiết gì khác thì bao giờ cũng nên hiểu là giá trị trao đổi”[2].

Ngoài ra, thuật ngữ Đức ngữ “Werthform” mà Marx dùng để trình bày hình thái của giá trị ở Quyển I không được chuyển ngữ một cách thống nhất trong các ấn bản tiếng Pháp của Tư bản. Trong ấn bản tiếng Pháp 1875 do chính tay Marx chỉnh sửa, thuật ngữ được dịch là “forme de la valeur”; còn trong ấn bản sau cùng của nhà xuất bản Editions Sociales năm 1983, nó được được dịch là “forme-valeur” làm cho khó phân biệt phạm trù hình thái giá trị với phạm trù hình thái của giá trị[3].

- Thâu gồm (Subsomption) - Trong triết học Kant, “thâu gồm” [subsomption] là đưa một đối tượng vào khái niệm của nó, đưa cái cá biệt vào cái phổ quát, theo nghĩa đặt nó vào quy luật của cái phổ quát. Marx vay mượn khái niệm này để phân tích các quan hệ về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong Hệ tư tưởng Đức, ông phân tích “sự thâu gồm của những cá nhân vào những giai cấp nhất định”[4]. Bộ Tư bản triển khai lý luận về “sự thâu gồm lao động vào tư bản” [subsomption du travail sous le capital] theo đó, trong mối quan hệ với tư bản, lao động chỉ tồn tại như là hình thái của tư bản; lao động không tồn tại như là hoạt động thể lực và trí lực mà người lao động tiến hành trong mọi phương thức sản xuất, nó trỏ hoạt động đặc thù của người làm công trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là tạo ra giá trị thặng dư cho chủ tư bản. Theo nghĩa đó tư bản thâu gồm lao động như là hình thái của nó[5].

Trong các bản dịch tiếng Việt của nhà xuất bản Sự Thật, thuật ngữ Đức ngữ “Subsumtion” được chuyển ngữ là: “sự phụ thuộc” của những cá nhân vào những giai cấp nhất định (Hệ tư tưởng Đức), “sự lệ thuộc” của lao động vào tư bản (Tư bản, Quyển I) hay “sự phục tùng” của lao động đối với tư bản (Bản thảo kinh tế những năm 1861-1863) – tức là chỉ nói lên một khía cạnh của nội dung khái niệm của Marx. Theo Trần Hữu Quang mà chúng tôi có tham khảo ý kiến, muốn diễn tả hết nội dung đó có lẽ cần tạo ra một thuật ngữ mới như là “sự hàm nhiếp” (hàm: bao hàm; nhiếp: thu lấy) đã xuất hiện trong từ điển Trung Quốc. Tạm thời, chúng tôi sử dụng cách chuyển ngữ đơn giản của Bùi Văn Nam Sơn là “sự thâu gồm” trong bản dịch Phê phán lý tính thuần túy của Kant (nxb Văn học, 2004, tr. 1231).

-          Tính khách thể, tính vật (Objectalité) - Bản thân tác giả của Tư bản đã gặp khó khăn khi chuyển thuật ngữ tiếng Đức “Gegenstandlichkeit” sang tiếng Pháp. Trong phiên bản Pháp ngữ 1875 của Quyển I do chính Marx kiểm tra việc dịch thuật, ông đã tránh né khó khăn trong Chương 1 bằng cách không chuyển ngữ mà dùng một từ khác là “réalité” [thực tế] để thay thế[6]. Trong các phiên bản Pháp ngữ về sau của Quyển I, các dịch giả đều chuyển ngữ “Gegenstandlichkeit” là “objectivité”[7] và gặp phải trở ngại là thuật ngữ này thường được dùng để chỉ “tính khách quan” đối lập với tính chủ quan [subjectivité].

Để khắc phục vấn đề đó, phiên bản Pháp ngữ mới nhất của Quyển I ở nxb Editions Sociales 2016 đã chọn thay “objectivité” bằng một từ tạo mới là “objectalité” để chỉ “tính vật” [le caractère d’objet][8]. Trong khảo cứu việt ngữ này, chúng tôi đề nghị chuyển ngữ “Gegenstandlichkeit” là “tính vật” hay là “tính khách thể”.

-          Bàng quan: Indifférent

-          Bề ngoài giả hình: Fausse apparence

-          Bóp nặn: Extraction

-          Cái biểu đạt - Cái được biểu đạt: Signifiant - Signifié

-          Cái phổ quát, phổ biến: Universel, généralité

-          Cảm giác - Siêu cảm giác: Sensible - Supra sensible

-          Chỉ số hóa: Indexation

-          Chuyển dịch: Transposition

-          Cụ thể hiện thực - Cụ thể trong tư duy: Concret réel - Concret de pensée

-          Cương vị lý luận: Statut théorique

-          Cưỡng chế giá trị thặng dư: Contrainte à la survaleur, à la plus-value

-          Cương vị lý luận: Statut théorique

-          Cưỡng chế lao động thặng dư - Cưỡng chễ giá trị thặng dư: Contrainte au surtravail - Contrainte à la plus-value

-          Cưỡng chế tiền tệ: Contrainte monétaire

-          Danh pháp: Nomenclature

-          Duy danh: Nominalisme

-          Duy hình thức: Formalisme

-          Duy kim loại: Métallisme

-          Duy chính trị luận: Politisme

-          Duy kinh tế luận: Economisme

-          Duy lịch sử luận: Historicisme

-          Duy nhà nước luận: Etatisme

-          Duy thực thể luận: Substancialisme

-          Đẳng cầu (tính): Isomorphie

-          Đè xẹp: Aplatissement

-          Đổi chác: Troc

-          Đối cực - Thế thống nhất đối cực: Polarité - Unité contradictoire

-          Đồng đại (tính): Synchronie

-          Đồng chất (tính): Homogénéité

-          Đồng đẳng (tính): Homologie

-          Đồng nhất (tính): Unité, homogénéité

-          Đúc tiền - Đặc quyền đúc tiền: Monnayage – Seigneuriage

-          Giảm độ lành nghề - Tặng lại độ lành nghề: Déqualification - Requalification

-          Hai chiều (tính): Ambivalence

-          Hai mặt (tính): Dualité

-          Hàng hoá thưc sự, đúng nghĩa: Marchandise proprement dite, à proprement parler

-          Hàng hoá tưởng tượng, giả tưởng - Phi-hàng hoá - Giả hàng hoá: Marchandise imaginaire, fictive - Non-marchandise - Pseudo-marchandise

-          Hàng háo hóa - Phi hàng hóa hóa: Marchandisation - Démarchandisation

-          Hiện thân: Incarnation

-          Hợp thức hóa - Hợp thức hóa giả - Tiền-hợp thức hóa: Validation - Pseudo-validation - Anté-validation

-          Khuất phục: Assujettissement

-          Ký hiệu học: Sémiologie

-          Làm tăng giá trị - Làm giảm giá trị: Valorisation - Dévalorisaton

-          Lãnh trường lý luận: Champ théorique

-          Lao động ngang bằng - Phép làm cho lao động ngang bằng: Travail égal - Égalisation des travaux

-          Lịch đại (tính): Diachronie

-          Loài - Tính loài: Genre - Générique

-          Ngôn từ hiện thực (theo): En termes réels

-          Người mang quan hệ xã hộiPorteur du rapport social

-          Nhân loại học - Nhân loại luận: Anthropologie - Anthropologisme

-          Nhập nhằng (tính): Ambiguité

-          Nội hiện hóa: Intériorisation

-          Phái sinhDérivation

-          Phản hữu dụng: Désutilité

-          Phân đôi: Dédoublement

-          Phép phân nhỏ: Fractionnement

-          Phụ thuộc: Subordination

-          Phục tùng: Soumission

-          Quá trình phát sinh: Genèse

-          Quan hệ loại trừ - bao hàm: Rapport d’exclusion – inclusion

-          Quy chiếu đến - Cái quy chiếu: Se référer - référent

-          Sản phẩm thước đo: Numéraire (theo nghĩa của kinh tế học)

-          Siêu cấu trúc: Métastructure

-          Sùng bái/Tha hóa: Fétichisme/Aliénation

-          Sự bao phủ: Recouvrement

-          Thể nền hình thức: Substrat formel

-          Thỏa dụng (tính): Ophélimité

-          Thông ước (tính): Commensurabilité

-          Thực tế/Hiện thực: Réalité/Réel

-          Thực thể: Etre

-          Thiết địnhPoser; position

-          Tiền giả địnhPrésupposer; présupposition

-          Tiền đúc: Numéraire (theo nghĩa của Marx)

-          Tiếp thu duy vật: Reprise matérialiste

-          Tính không đầy đủ: Incomplétude

-          Tính năng trao đổi - Tinh năng trao đổi trực tiếp: Echangeabilité - Echangeabilité immédiate;

-          Tính quy định - Tính bất định - Quy định - Quy định ở cấp độ sau cùng: Détermination - Indétermination - Déterminer - Détermination en dernière instance

-          Trạng huống lịch sử: Conjoncture historique

-          Trung giới: Médiation

-          Trở thành độc lập - Độc lập: Autonomisation - Autonomie

-          Tuyệt đối luận: Absolutisme

-          Tương đối luận: Relativisne

-          Uốn nắn lại: Remodelage

-          Ưu thể duy cơ giới: Primat mécaniste

-          Ưu thế duy chủ quan: Primat subjectiviste

-          Vật đỡ - Vật đỡ quan hệ xã hội - Cá nhân-vật đỡ: Support - Support du rapport social - Individu-support

-          Vật chất hóa: Matérialisation

-          Vật hóa: Objectivation

-          Vật thể hóa: Réification

-          Vượt bỏ: Dépassement

-          Xác định tiêu chuẩn giá cả: Etalonnage

-          Ý tưởng biến thành thực thể: Hypostase

* * *

CHƯƠNG 6

TƯ BẢN NHƯ LÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT

VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

Tư bản “bàng quan” [indifférent] đối với giá trị của hàng hóa mà nó sản xuất ra, bởi điều tư bản quan tâm chỉ là giá trị thặng dư do giá trị ấy mang lại. Hơn thế, một khi giá trị thặng dư tăng với sự phát triển sức sản xuất của lao động xã hội, trong khi giá trị thì giảm cùng với chuyển động ấy, cho nên “cũng một quá trình” làm giảm giá trị của hàng hóa và làm tăng giá trị thặng dư mà hàng hóa ấy chứa đựng. Khảo cứu quá trình qua đó tư bản phát triển lực lượng sản xuất đặt ra hai loại vấn đề.

1. Sự vật chất hóa tư bản trong lực lượng sản xuất: tư bản không chỉ đơn thuần là thâu gồm hình thức mà còn là thâu gồm hiện thực của lao động vào tư bản; sự cưỡng chế lao động thặng dư không chỉ đặc trưng bởi hình thái giá trị của nó, mà còn vật chất hóa trong xu thế cách mạng hóa các lực lượng sản xuất (Tiết 61).

2. Tính hai mặt của lực lượng sản xuất do tư bản phát triển: tư bản là thể thống nhất của mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mà quan hệ ấy triển khai; mâu thuẫn của sự phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bởi tính hai mặt của nó là tái sản xuất tư bản và phủ định tư bản. Tính chất kép này quy chiếu đến cương vị của sức lao động như là khái niệm đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (Tiết 62).

TIẾT 61:

SỰ VẬT CHẤT HÓA TƯ BẢN TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

Tư bản được phân biệt với các hình thái xã hội bóc lột khác ở chỗ sự cưỡng chế lao động thặng dư mang hình thái giá trị, thể hiện một mối quan hệ tách rời kép: tách rời người lao động khỏi các điều kiện lao động (quan hệ giai cấp), và tách rời các quá trình của lao động xã hội thành những quá trình tư nhân (quan hệ giữa các nhà tư bản với nhau). Theo Marx, sự tách rời người lao động với điều kiện lao động lại được phân tích như là tách biệt kép: người lao động không chỉ tách rời về mặt kinh tế với các tư liệu lao động, vốn là sở hữu của nhà tư bản (tách rời kinh tế), mà người lao động còn bị tước năng lực chế ngự về mặt kỹ thuật các tư liệu lao động (tách rời kỹ thuật). Tách biệt kép này đưa Marx đến phân tích tính chất hình thức - hiện thực của “sự phụ thuộc” [subordination], “sự phục tùng” [soumission] của lao động đối với tư bản; hay xác đáng hơn, là phân tích “sự thâu gồm hình thức và hiện thực của lao động vào tư bản” [subsomption formelle et réelle du travail sous le capital][1]. Thể thâu gồm được gọi là “hiện thực” hay “hình thức” tùy theo nó vật chất hóa hay không trong các lực lượng sản xuất.

Thể thâu gồm “hình thức” được xác lập ngay từ khế ước lao động, tức là trong quá trình lưu thông hàng hóa, nơi sự cưỡng chế lao động thặng dư xuất phát từ quan hệ lệ thuộc tiền tệ của người lao động (§ 611). Thâu gồm trở nên “hiện thực” khi nó được áp đặt từ bên trong quá trình sản xuất, ở đó sự cưỡng chế lao động thặng dư xuất phát từ quan hệ lệ thuộc kỹ thuật của người lao động (§ 612).

§ 611 - Thâu gồm hình thức và sự cưỡng chế kinh tế về lao động thặng dư

Trong thể thâu gồm hình thức của lao động vào tư bản, khi người ta để qua một bên tác động của lực lượng sản xuất, “sự cưỡng chế được vận dụng để tạo nên lao động thặng dư chỉ khác về hình thái so với các phương thức sản xuất trước đó”. Thay vì mang hình thái của quan hệ phụ thuộc cá nhân, như là cưỡng chế chính trị chẳng hạn, thì trong phương thức sản xuất của tư bản, cưỡng chế lao động thăng dư mang hình thái của quan hệ phụ thuộc về kinh tế, là sự cưỡng chế tiền tệ.

“Điều cơ bản trong thể thâu gồm hình thức - Marx viết ở Chương VI chưa công bố của Tư bản - là: 1/ Mối quan hệ thuần túy tiền tệ giữa người chiếm đoạt lao động thặng dư và người cung cấp nó. Quan hệ phụ thuộc ở đây xuất phát từ nội dung đặc thù của hành vi mua-bán, chứ nó không tồn tại trước đó như là trường hợp của người sản xuất trong mối quan hệ không mang tính tiền tệ với kẻ bóc lột lao động của mình, do một phép cưỡng chế chính trị chẳng hạn. Chỉ vì nắm giữ các điều kiện lao động mà người mua (sức lao động) đặt người bán trong mối quan hệ phụ thuộc họ về mặt kinh tế […] . 2/ Các điều kiện khách quan của lao động (tư liệu sản xuất) và những điều kiện chủ quan của lao động (tư liệu sinh hoạt) đối mặt với công nhân như là tư bản và thuộc độc quyền của người mua sức lao động, điều này bao hàm mối quan hệ thứ nhất [quan hệ thuần túy tiền tệ], bởi nếu không thì công nhân không cần phải bán sức lao động của mình”[2].

Vậy thì điều xác định thể thâu gồm là hình thức, chính là hình thái hàng hóa của sức lao động, hình thái tiền tệ của mối quan hệ giai cấp, hình thái lao động làm thuê. Nghĩa vụ về lao động thặng dư mà nhà tư bản áp đặt đối với người lao động xuất phát ở đây từ sự phụ thuộc thị trường hàng hóa của người lao động, buộc nó phải bán sức lao động của mình để mua tư liệu sinh hoạt. Thể thâu gồm hình thức chỉ ra mối quan hệ phụ thuộc tiền tệ của người lao động trong quá trình lưu thông hàng hóa.

Điều này có nghĩa rằng quan hệ cưỡng ép lao động thặng dự đã thắt nối với hành vi mua-bán sức lao động, nghĩa là mua sự phục tùng của người lao động trong một khoảng thời gian nhất định. Trên cơ sở của phương thức lao động hiện có, tức là ở một trình độ phát triển nhất định về sức sản xuất của người lao động, việc bóc lột lao động thặng dư chỉ tùy thuộc thời gian - độ dài và cường độ - sử dụng sức lao động. Trong chừng mực này, khái niệm thâu gồm hình thức tương ứng với việc sản xuất ra giá trị thặng dư ở dạng tuyệt đối. Cương vị này cần được làm rõ ra.     

1. Người ta thường coi thể thâu gồm hình thức của lao động vào tư bản như là một thời kỳ lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Xuất phát từ thực tế tư bản đã chinh phục quá trình lao động “như nó tồn tại”, rằng, về mặt lịch sử, tư bản đã chế ngự quá trình lao động “như nó đã phát triển trước khi quan hệ tư bản chủ nghĩa xuất hiện”[3], người ta thấy trong thể thâu gồm gọi là hình thức khái niệm của thời kỳ phát triển đầu tiên của tư bản. Điều người ta không nhận thấy là phân tích của Marx về sự thâu gồm của lao động vào tư bản ở Chương VI chưa công bố của Tư bản không hề theo một trật tự lịch sử. Văn bản này nói đến sự chuyển hóa nông dân hay thợ thủ công thành lao động làm thuê, nhưng chỉ nhằm giải thích thâu gồm hình thức của lao động vào tư bản là gì: “những người sản xuất mất quyền tự chủ của mình”, người lao động “trở nên lệ thuộc nhà tư bản là người chỉ đạo nó và giám sát nó”[4]; ấy là những điều - mà chúng ta sẽ đồng ý - không hề đặc trưng một thời kỳ lịch sử của tư bản[5]. Phép trình bày của Chương VI này chỉ có thể hiểu được đầy đủ khi thể thâu gồm hình thức được xem xét từ góc độ lý luận thay vì là góc độ lịch sử; tức là, với điều kiện ta không khái niệm hóa nó như một thời kỳ lịch sử của chủ nghĩa tư bản, mà thiết định nó như là một thời điểm trừu tượng trong quá trình khái niệm hóa tư bản. Sự thâu gồm hình thức của quá trình lao động vào tư bản chỉ ra một cấp độ trừu tượng hóa của khái niệm tư bản mà Marx mô tả như là “sự khuất phục [assujettissement] trực tiếp của quá trình lao động trước tư bản, bất kể kiến thức kỹ thuật được sử dụng” - hay nói cách khác, để qua một bên tác động của các lực lượng sản xuất[6]. Tư bản, ở đây, phải hiểu như là hình thái chung - tức tiền tệ - của sự cưỡng chế lao động thặng dư, độc lập với mọi hình thái kỹ thuật của quá trình lao động. Duy với ý nghĩa lý luận này, chứ không phải ý nghĩa lịch sử, chúng ta mới có thể đặc trưng sự thâu gồm hình thức chỉ với “duy nhất” giá trị thặng dư tuyệt đối: “Trên cơ sở của một phương thức sản xuất hiện có, tức là một phương thức nhất định về sử dụng sức sản xuất của lao động, và phương thức lao động tương ứng với sự phát triển sức sản xuất đó, người ta chỉ có thể tước đoạt giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động, dưới dạng giá trị thặng dư tuyệt đối. Do đó, sự thâu gồm hình thức của lao động vào tư bản chỉ biết đến hình thái sản xuất giá trị thặng dư duy nhất này”[7].

Cần nhấn mạnh thêm rằng văn bản Chương VI chưa công bố không nói về thể thâu gồm hình thức như là hình thái lịch sử, mà trình bày nó như là “hình thái chung” [forme générale] đặc trưng cho mọi quá trình của tư bản. Marx còn trình bày nó như là “một hình thái riêng” [forme particulière] có thể cùng tồn tại với thể thâu gồm hiện thực. “Cái tôi gọi là phụ thuộc hình thức của lao động đối với tư bản là hình thái chung của mọi quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nó cũng có thể cùng tồn tại như hình thái riêng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hoàn toàn phát triển bao gồm nó”[8]. Và đúng như Marx nói, nếu “kế tiếp” thể thâu gồm hình thức là thể thâu gồm hiện thực thì đó là quá trình phát triển của cái trừu tượng (thâu gồm hình thức) sang cái cụ thể trong tư duy (thâu gồm hiện thực) hơn là quá trình phát sinh ra bản thân cái cụ thể[9]. Bởi nói rằng thâu gồm hình thức (giá trị thăng dư tuyết đối) “đi trước” thâu gồm hiện thực (giá trị thặng dư tương đối) như là điểm xuất phát lịch sử của nó, sẽ khiến ta quên mất thực tế là chính sự phát triển của giá trị thặng dư tương đối (thâu gồm hiện thực) tạo nên “cơ sở” trên đó giá trị thặng dư tuyệt đối (thâu gồm hình thức) đã được triển khai trong lịch sử[10]. Tóm lại, trong việc phân biệt thâu gồm hình thức/thâu gồm hiện thực - cũng như trong việc phân biệt sản xuất hàng hóa/sản xuất tư bản chủ nghĩa mà ta đã xem xét - đọc Tư bản theo phép diễn giải duy lịch sử chỉ dẫn ta đến hiểu lệch lạc tác giả của nó[11].

2. Được xác định bởi hành vi mua-bán sức lao động, sự thâu gồm hình thức của lao động vào tư bản không chỉ có nghĩa rằng người lao động là người bán sức lao động của mình; nó còn có nghĩa rằng người lao động là người mua hàng hóa mà tư bản sản xuất. Hình thái hàng hóa của sức lao động hàm ý rằng sức lao động được tái sản xuất qua tiêu dùng sản phẩm của tư bản. Chính là nhờ tái sản xuất người lao động thông qua hàng hóa mà tư bản “buộc họ (…) phải liên tục xuất hiện trở lại trên thị trường”, và thắt nối “các sợi dây vô hình buộc chặt” người lao động vào quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa[12]. Bởi vì, nếu tái sản xuất sức lao động không tiến hành, hoặc không tiến hành chủ yếu, trong điều kiện mua-bán hàng hóa, thì người chủ tiền tệ không thể buộc người lao động tham gia vào quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: “Việc mua-bán sức lao động, như là kết quả bất biến của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, bao hàm (…) công nhân thường xuyên mua lại một phần sản phẩm của mình, đối với lao động sống của mình”[13]. Hẳn là sự tái sản xuất sức lao động nằm ở bên ngoài quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa: nó không biểu hiện trong sơ đồ T – H – T’ mà trong sơ đồ H – T – H’. Nhưng mặt khác, tái sản xuất sức lao động nằm bên trong quá trình tái sản xuất của tư bản, nó không đơn giản biểu hiện bằng H – T – H’, mà bằng sự giao nhau [croisement] của H – T – H’ với T – H – T’. Hay nói khác đi, bằng nội hiện hóa [intériorisation] H – T – H’ trong T – H – T’. Marx còn mô tả điều ấy như là “cơ chế chu chuyển kép” [double moulinet] của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa: “Không phải ngẫu nhiên mà nhà tư bản và công nhân chạm trán nhau trên thị trường hàng hóa với tư cách là người mua và kẻ bán. Ấy là cơ chế chu chuyển kép của quá trình đó, luôn luôn ném công nhân trở lại trên thị trường hàng hóa thành người bán sức lao động của mình và luôn luôn biến sản phẩm của bản thân công nhân thành phương tiện mua cho nhà tư bản”[14]. Chính cương vị vừa bên ngoài, vừa bên trong này của hình thái hàng hóa của sức lao động trong mối quan hệ với tư bản, giải thích vì sao không thể coi sức lao động là hàng hóa hay là phi hàng hóa. Cả hai cách đặc trưng này đều sai lầm vì phiến diện, Marx viết: “Thế là cả hai bên đều nhầm lẫn:

- những người coi lao động làm thuê, việc bán lao động cho tư bản, tóm lại chế độ làm công là nằm ngoài sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong khi lao động làm thuê là một hình thái trung gian thiết yếu và liên tục được tái sản xuất bởi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa;

- cũng như những người nhìn thấy trong mối quan hệ bề mặt và chủ yếu hình thức của việc mua và bán, trong phản ánh này của mối quan hệ tư bản chủ nghĩa, chính bản chất của nó, và do đó tuyên bố rằng mối quan hệ giữa công nhân và nhà tư bản phụ thuộc vào mối quan hệ chung giữa những người sở hữu hàng hóa, nhằm ca ngợi nó và xóa bỏ khác biệt đặc thù của giữa hai mối quan hệ”[15].

Bởi vì trong thể thâu gồm hình thức, quan hệ cưỡng chế lao động thặng dư được xác lập từ hành vị mua-bán sức lao động, có người cho rằng hình thái lao động làm thuê đủ để xác định tính đặc thù của tư bản như là hình thái lịch sử về bóc lột. Và một khi thể thâu gồm hình thức cấu thành với sự tham gia của sức lao động vào lưu thông, có những người đi đến kết luận rằng tư bản được xác định ở ngoài quá trình sản xuất, chỉ với quá trình lưu thông. Một tác giả như Pierre-Philippe Rey đã đưa đẩy luận điểm này xa hơn nữa: bằng cách biến lưu thông thành thời điểm của tái sản xuất tư bản “nơi bóc lột giá trị thặng dư được thực hiện”; và bằng cách thiết định hành vi mua-bán sức lao động như là “mối quan hệ sản xuất quyết đinh”. Đấy là quan hệ bóc lột ngụy trang thành quan hệ trao đổi, bởi “thật ra không có trao đổi giữa công nhân và nhà tư bản, chỉ có trao đổi giữa nhà tư bản cung cấp hàng tiêu dùng cho công nhân và nhà tư bản sử dụng sức lao động”[16]. Cách đặt vấn đề của Rey có thể tóm tắt như sau: “Trong mọi xã hội giai cấp, nghĩa là ở bất kỳ xã hội nào mà việc tập hợp người để sản xuất diễn ra theo một hệ thống xã hội bị kiểm soát bởi một thành phần của xã hội ấy (giai cấp thống trị), chính là sự kiểm soát quá trình tập hợp người đó (có trước mọi quá trình sản xuất trực tiếp) cấu thành mối quan hệ xã hội về sản xuất mang tính quyết định”[17]. Thật vậy, chính sự kiểm soát ấy cho phép giai cấp thống trị bóc lột thành phần còn lại trong xã hội (giai cấp bị trị) bằng cách cưỡng đoạt một phần sản phẩm của họ. Nhưng, trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, “thời điểm chính xác quyết định sự hình thành của các tập hợp lao dộng, hành vi mua-bán sức lao động, nằm ở ngoài quá trình sản xuất trực tiếp. Tuy nhiên, thực tế có người mua và người bán trong quá trình này xác định ai là người bóc lột và ai bị bóc lột”. Nói chung, “trong mọi phương thức sản xuất có giai cấp xã hội, mối quan hệ sản xuất quyết định không xuất hiện như là một thời điểm của quá trình sản xuất trực tiếp”. Trong trường hợp phương thức sản xuất tư bản nghĩa, mối quan hệ bóc lột nằm ở thời điểm trung gian giữa hai quá trình sản xuất trực tiếp (Sx) kết hợp sức lao động (Slđ) và tư liệu sản xuất (Tlsx):

Đó là chu trình lưu thông: 

nơi diễn ra việc mua-bán sức lao động (Slđ)[18]. Người ta cũng tìm thấy quan điểm này ở những công trình của Claude Faure: trong đó tư bản “tồn tại ngay cả trước khi quá trình sản xuất tiến hành” vì khả năng của nhà tư bản bóc lột người lao động “đã hiện thực hóa trong lưu thông”, đặc biệt là khả năng nhà tư bản kéo dài ngày lao động “được chứa đựng từ trong quá trình lưu thông”[19].

Đối chiếu với phân tích của Marx về sự thâu gồm lao động vào tư bản, chúng ta thấy ngay tính phiến diện của cách đặt vấn đề ưu đãi quá trình lưu thông trong tái sản xuất tư bản. Phép trình bày của Rey và Faure quy giản sự thâu gồm vào khía cạnh duy nhất hình thức của nó, và sự giản lược này được họ tiến hành bằng cách chuyển đổi đối tượng phân tích: sự phục tùng của lao động đối với tư bản trở thành sự phục tùng đối với tư bản của các hình thái sản xuất xã hội khác. Từ đó, Faure đề xuất phân biệt phục tùng hình thức và phục tùng hiện thực không theo tiêu chí về lực lượng sản xuất, mà theo tiêu chí về quan hệ sản xuất: “tùy theo sự cưỡng chế lao động thặng dư diễn ra trên cơ sở quan hệ sản xuất trực tiếp và đặc thù tư bản chủ nghĩa hay không”. Trong thể phục tùng hình thức, “các quan hệ sản xuất đều tương tự như trong phương thức sản xuất tồn tại trước đó”, tức là “quan hệ lao động làm thuê không hiện hữu, nhà tư bản không có mặt, tổ chức của quá trình lao động xác nhận sự tự chủ của người sản xuất”. Người ta hiểu rằng sự thống trị của tư bản chỉ thực hiện được ở đây thông qua quá trình lưu thông, vì quá trình sản xuất trực tiếp không phải là quá trình tư bản chủ nghĩa. Về sự phục tùng hình thức của lao động đối với tư bản mà Marx phân tích ở Chương VI chưa công bố, Faure gọi đó là “sự phục tùng hình thức chuyển tiếp” [soumission formelle de transition] theo nghĩa nó nhắm tiến đến sự phục tùng hiện thực, và không có tính ổn định của “sự phục tùng hình thức” của những hình thái sản xuất phi tư bản chủ nghĩa đối với tư bản[20].

Trong mọi trường hợp, đồng nhất hóa sự thống trị của tư bản chỉ với sự thống trị hình thức của nó, dẫn Rey đến kết luận: “Marx đã chỉ ra trong Tư bản (đặc biệt trong Chương VI chưa công bố) rằng sự thống trị hình thức của tư bản đối với lao động có trước và nó quy định sự thống trị hiện thực. Nói cách khác, quyền sở hữu của giai cấp tư bản trên người công nhân có trước và quy định quyền sở hữu tư liệu sản xuất”[21]. Nếu quả là thống trị hình thức có trước thống trị hiện thực về mặt lịch sử, thì điều đó - theo chúng tôi - không cho phép nói rằng thống trị hiện thực do thống trị hình thức quy định. Ngược lại, Marx đã chỉ ra rằng, với sự chuyển đổi thâu gồm hình thức sang thâu gồm hiện thực, diễn ra sự đảo ngược trong tính quy định các hình thái giá trị thặng dư: giá trị thặng dư tương đối, đặc trưng cho thâu gồm hiện thực, trở thành nhân tố quyết định và cơ sở phát triển của giá tri thặng dư tuyệt đối. Vả lại, công trình của Rey và Faure cũng xác nhận điều ấy: khi sự phục tùng hiện thực của lao động đối với tư bản tồn tại cùng với những hình thái phục tùng hình thức, chính là sự phục tùng hiện thực có tính quy định theo nghĩa nó quy định sự tái sản xuất các hình thái phục tùng hình thức. Do vậy, luận điểm của Rey đặt ra một câu hỏi thiết yếu, nhưng nó không phải câu hỏi mà tác giả nêu lên, là: “giữa chiếm hữu con người và chiếm hữu tư liệu sản xuất, cái nào là ban đầu, là mang tính quyết định so với cái kia”[22]. Câu hỏi thiết yếu - theo chúng tôi - là: liệu sự chiếm hữu người lao động bởi giai cấp tư bản trong lưu thông, nghĩa là hành vi mua-bán sức lao động, có đủ để xác định mối quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa hay không? Hay nói khác đi: chúng ta sẽ mất gì trong khái niệm tư bản khi ta bỏ qua phân tích quá trình lao động, đặc biệt là mối quan hệ với tư liệu sản xuất? Để tái sản xuất tư bản - Rey viết - “chỉ cần một giai cấp sở hữu tập thể mọi sản phẩm lưu thông như là hàng hóa, giai cấp kia chỉ nhận phần sản phẩm cần thiết để nó tự bán bản thân mình”[23]. Nhưng nếu chúng ta không xét tới quá trình sản xuất lao động thặng dư thì ta chỉ có thể nhân diện được bóc lột qua sự tồn tại của một sản phẩm thặng dư trong lưu thông. Nói khác đi, từ Marx ta lại quay về chính trị kinh tế học cổ điển: bởi định vị bóc lột ở trong lưu thông, ngay cả như là thời điểm của tái sản xuất, dẫn ta đến hình dung - như thể Ricardo - sự đối kháng giai cấp chỉ dựa trên giá cả của sức lao động, trong khi nó còn căn cứ trên việc tiến hành quá trình lao động.

Tóm lại, lối diễn giải Tư bản như ở trên làm nghèo đi đáng kể phép phân tích của Marx về sự thâu gồm hình thức của lao động vào tư bản, và sự cưỡng chế tiền tệ về lao động thăng dư. Như khi, đối với Rey, sư khác biệt giữa bảo trì tư liệu sản xuất và bảo trì sức lao động “bị xóa nhòa”; hay khi, cũng đối với Rey, quá trình lưu thông hiện ra là “trao đổi hàng hóa giữa các nhà tư bản với nhau và chỉ họ mà thôi”[24]. Ở đây có sự phủ định hình thái hàng hóa của sức lao động, chuẩn mực tiền tề về tái sản xuất sức lao động quy lại thành một chuẩn mực hiện thực - tương tự như Ricardo đã “xếp không chỉ nguyên liệu, công cụ, v.v., mà cả ‘thực phẩm và quần áo’ vào nhóm các vật mang lại ‘hiệu quả cho lao động’ và do vậy đóng vai trò ‘tư bản’ trong quá trình lao động”[25]. Trong khi đó, Marx đã nhấn mạnh rằng trong chế độ lao động làm thuê - ngược lại với chế độ nô lệ chẳng hạn - “người công nhân tự mình chuyển hóa số tiền nó có thành giá trị sử dụng, thành hàng hóa theo chọn lựa của mình: với tư cách là người sở hữu tiền, công nhân dứng trước những người bán hàng hóa trong mối quan hệ giống như tất cả những người mua khác. Tất nhiên - ngoài số tiền lương -, điều kiện sống của công nhân buộc nó chi tiêu tiền lương của mình trong phạm vi tương đối hạn hẹp của các tư liệu sinh hoạt. (…) Công nhân có thể tiết kiệm và tích lũy một ít tiền, hoặc có thể tiêu tán tiền lương vào rượu chè, v.v.. Dù sao thì người công nhân hành xử như tác nhân tự do, phải tự lo liệu; công nhân tự chịu trách nhiệm về cách họ tiêu tiền lương của mình. Công nhân học cách làm chủ bản thân, trái với nô lệ cần có chủ nhân”[26].

Chúng ta thấy vấn đề đặt ra ở đây là tính phi xác định [indétermination] của khái niêm về bóc lột khi người ta đơn phương định nghĩa nó bởi “sự chiếm hữu con người”. Bị đồng nhất hóa với mối quan hệ lệ thuộc giữa con người với nhau, không có sự can dự của mối quan hệ với tư liệu sản xuất - tức của lực lượng sản xuất -, khái niệm về bóc lột, do tách khỏi quá trình sản xuất, đánh mất nội dung đặc thù của nó. Với khái niệm biến dạng này, người ta sẽ nói đến bóc lột - và nhận dạng đối kháng giai cấp - trong bất kỳ hiện tượng thống trị xã hội nào có sự chiếm đoạt sản phẩm thặng dư[27]. Mất đi tính xác định vật chất của nó, khái niệm macxit về quan hệ sản xuất xã hội có xu hướng biến thành một quan hệ xã hội phi xác định. Trong khi đối với Marx, mối quan hệ xã hội về sản xuất xã hội chỉ là quan hệ xã hội khi nó vật chất hóa trong những lực lượng sản xuất nhất định. Trong khái niệm của nó, quan hệ sản xuất xã hội bao hàm thể thống nhất của nó với lực lượng sản xuất với tính cách là nền tảng vật chất của nó. Vì vậy, nêu lên câu hỏi về ưu thế của chiếm hữu con người hay của chiếm hữu tư liệu sản xuất là đặt sai vấn đề, bởi “con người” và “tư liệu sản xuất” hợp thành trong mối quan hệ của chúng các lực lượng sản xuất[28]. Một lần nữa, chúng ta nhận xét rằng khái niệm hóa quan hệ xã hội về sản xuất chỉ với mối quan hệ “chiếm hữu con người” hay quan hệ “kiểm soát quá trình tập kết con người để sản xuất”, chỉ là cách định nghĩa sự thâu gồm hình thức trong văn bản của Marx. “Sự thâu gồm hình thức của quá trình lao động vào tư bản, sự kiểm soát này ở chỗ người lao động chịu sự giám sát và do đó sự chỉ huy của tư bản hay của nhà tư bản”[29]. Chương VI chưa công bố nhấn mạnh trên tính chất hình thức của định nghĩa này: “Trong lưu thông, nhà tư bản và người công nhân chỉ đối mặt nhau như những người bán hàng hóa. Nhưng, do bản chất đặc thù lưỡng cực của những hàng hóa mà họ bán cho nhau, người công nhân nhất thiết đi vào quá trình sản xuất như là một bộ phận giá trị sử dụng, như là phương thức tồn tại hiện thực của tư bản, do đó mối quan hệ của họ chỉ hiện thực hóa bên trong quá trình sản xuất, nhà tư bản tiềm năng (đã mua lao động) chỉ thực sự trở thành nhà tư bản khi người công nhân (lao động làm thuê tiềm năng do đã bán năng lực lao động của mình) chịu sự chỉ huy của tư bản trong quá trình sản xuất”[30].

Như vậy, cuộc thảo luận về luận đề của Rey cho ta thấy rằng chỉ một mình hình thái về lao động làm thuê không đủ để xác định tính đăc thù của hình thái bóc lột tư bản chủ nghĩa; rằng ta không thể quy giản khái niệm tư bản chỉ vào khía cạnh thâu gồm hình thức, nếu không sẽ bị dẫn đến một mối quan hệ sản xuất xã hội bản thân nó là hình thức[31]. Trong Bản thảo 1857-1858, Marx nói rõ:”nền sản xuất dựa trên tư bản và lao động làm thuê khác với những phương thức sản xuất khác không chỉ về phương diện hình thức, mà nó còn giả định một cuộc cách mạng đầy đủ trong quá trình phát triển sản xuất vật chất . Nói cách khác, “sự thay đổi về hình thái trong đó chủ tư liệu sản xuất nhận được thu nhập của mình, hoặc sự thay đổi hình thái trả công cho người lao động, không phải là một sự khác biệt có tính chất hình thức, bởi nó giả định sự tái cơ cấu hoàn toàn của bản thân phương thức sản xuất (…), một sự phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất”[32]. Chỉ sự ghi khắc tư bản trong các lực lượng sản xuất - qua đó Marx định nghĩa “sự thâu gồm hiện thực của lao động vào tư bản, hay phương thức sản xuất đặc thù tư bản chủ nghĩa”[33] - mới cho phép xác định đầy đủ khái niệm về quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong tính đặc thù của nó[34].

§ 612 - Thâu gồm hiện thực và sự cưỡng chế kỹ thuật về lao động thặng dư

Sự thâu gồm lao động vào tư bản trở nên hiện thực khi nó được xác lập từ bên trong quá trình sản xuât, chứ không chỉ tư ở bên ngoài qua hành vi mua-bán sức lao động. Thâu gồm hiện thực sáp nhập sự cưỡng chế lao động thặng dư trong quá trình sản xuất, sự cưỡng chế được vật chất hóa trong những điều kiện kỹ thuật của quá trình ấy. Sự chuyển hóa thâu gồm hình thức sang thâu gồm hiện thực được Tư bản khảo cứu như là sự “chuyển hóa mà quá trình lao động đã trải qua để phục tùng tư bản”[35] trong Quyển I Phần 4 (‘Sự sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối’). Ở đó, Marx phân tích của các hình thái của quá trình lao động là “hiệp tác”, “phân công lao động” và “hệ máy móc” như là những hình thái thâu gồm hiện thực.

Mặc dù quy chiếu đến lịch sử biến đổi của lực lượng sản xuất vào thế kỷ XVIII và XIX ở châu Âu, các hình thái của quá trình lao động này phải được xem xét, ở đây, không phải như những thời kỳ lịch sử của “cộng cuộc mạng công nghiệp”, mà như những thời điểm trừu tượng của khái niệm về tư bản trong thể thống nhất với lực lượng sản xuất. Bởi vì nếu quả thực là hiệp tác và phân công lao động diễn ra trước khi có hệ máy móc, không thể phủ nhận rằng chỉ trên cơ sở của hệ máy móc thì tư bản mới phát triển hiệp tác và phân công lao động[36]. Theo nghĩa đó, các hình thái hiệp tác, phân công lao động và hệ máy móc chỉ ra những xu thế phát triển tư bản chủ nghĩa của lực lượng sản xuất, xu thế mà tư bản liên tục tái sản xuất trong quá trình phát triển của nó. 

a) Hình thái hiệp tác: Nó chỉ sự tập hợp một số đông người lao động dưới một quyền chỉ huy độc nhất, và sự cấu thành “người lao động tập thể” [travailleur collectif] như là phương thức tồn tại của tư bản đối mặt với người lao động. Đối với tư bản, vấn đề không chỉ là tăng năng suất của lao động xã hội bằng cách phát triển sức lao động tập thể, mà đặc thù hơn là phát triển sức lao động tập thể như là lực lượng sản xuất ở ngoài người lao động và của riêng nhà tư bản - một khi người lao động tập thể chỉ cấu thành dưới hình thái tư bản (tư bản khả biến). Ở đây, diễn ra việc tách rời người lao động ra khỏi sức lao động tập thể của mình, sự truất hữu sức lao động tập thể của họ - người lao động quy lại chỉ còn là sức lao động cá thể của họ.

Quyền chỉ huy của tư bản đối với người lao động, từ đây, mất đi tính hình thức: người lao động làm việc theo mệnh lệnh của nhà tư bản không chỉ vì họ đã bán sức lao động của mình cho tư bản, mà còn là vì quyền chỉ huy của chủ tư bản hiện ra như là điều thiết yếu của quá trình lao động hiệp tác, như là một điều kiện khách quan của sản xuất xã hội. Cũng từ đó, nhà tư bản áp đặt vào doanh nghiệp chế độ chuyên chế - với hệ phân cấp, điều lệ, kiểm sát, chế tài… - cần thiết để tư bản xác lập các chuẩn mực xã hội về sử dụng sức lao động.

b) Hình thái phân công lao động: Nó chỉ sự phân hóa nhiệm vụ trong người lao động tập thể, và sự cấu thành “người lao động bộ phận” [travailleur parcellaire] như là phương thức tồn tại của người lao động đối mặt với nhà tư bản. Đối với tư bản, vấn đề không chỉ là tăng năng suất của người lao động tập thể, mà đặc thù hơn là thực hiện điều ấy bằng cách hạ trình độ lành nghề [déqualification] của sức lao động cá thể. Điều biến mất ở phía người lao động bộ phận - tức năng lực trí thức chế ngự quá trình lao động -, tất nhiên tái hiện ở phía người lao động tập thể, nhưng giờ đây như là thuộc tính của tư bản.

Điều cột chặt người lao động vào tư bản là một ràng buộc không chỉ mang tính tiền tệ, mà còn có tính kỹ thuật: người lao động buộc phải bán sức lao động của mình không chỉ vì họ không có tư liệu lao động, mà còn vì là người lao động bộ phận, sức lao động của họ không thể hoạt động ngoài phạm vi của người lao động tập thể, tức là ngoài việc chuyển hòa sức lao động ấy thành tư bản khả biến. Nói khác đi, sức lao đọng của họ trở nên bất lực, vô dụng nếu không đem bán cho nhà tư bản. Tuy nhiên, trong chừng mực quá trình lao động còn căn cứ trên nghề thủ công, tức là trên thể thống nhất của người lao động với dụng cụ lao động, thì quá trình bóp nặn lao động thặng dư còn phụ thuộc vào sức sản xuất cá nhân của người lao động, vào năng lực của họ sử dụng dụng cụ lao động; và người lao động cá thể còn giữ một chút đỉnh tự chủ trong người lao động tập thể, và tư bản chưa có được tự do vận động hoàn toàn.

c) Hình thái hệ máy móc: Nó chỉ sự chuyển hóa dụng cụ lao động thành máy móc có sáp nhập kiến thức của người lao động, và sự cấu thành “hệ thống máy móc tự động” như là phương thức phụ thuộc kỹ thuật của người lao động đối với tư bản. Vấn đề, đối với nhà tư bản, không chỉ là tăng gấp bội năng suất lao động xã hôi, mà đặc thù hơn là cố định sự tăng trưởng ấy trong tư bản dưới hình dạng máy móc (tư bản cố đinh). Ở đây, có sự đảo ngược tương quan của người lao động, trước đây chế ngự dụng cụ lao động, nay biến thành một người lao động phục tùng cổ máy: người lao động bộ phận trở nên “người phụ trợ” [auxiliaire] hệ thống máy móc tự động. Đối với người lao động, phục tùng tư bản trở thành như là yêu cầu của công nghệ, một mệnh lệnh như được đúc trong cổ máy.

Như thế, toàn bộ các điều kiện vật chất và trí thức của quá trình lao động đều phục tùng tư bản: quá trình lao động biến thành quá trình bóp nặn giá trị thặng dự không chỉ về hình thức (kinh tế) mà cả trong hiện thực (kỹ thuật). Thâu gồm hiện thực nhân lên việc tách ly người lao động với tư liệu lao động: người lao động không chỉ bị tách rời về phượng diện kinh tế với các tư liệu lao động, vốn là sở hữu của của nhà tư bản; sự tách rời còn mang tính chất kỹ thuật trong chừng mực người lao động bị truất mất năng lực làm chủ dụng cụ lao động. Phân tích các hình thái thâu gồm hiện thực của lao động vào tư bản trên đây cho phép chúng ta lý giải: 1) sự vật chất hóa tư bản trong những lực lượng sản xuất nhất định; 2) sự sùng bái những lực lượng sản xuất khi chúng mang hình thái tư bản; 3) xu thế của chủ nghĩa tư bản cách mạng hóa lực lượng sản xuất; 4) xu thế làm giảm giá trị của sức lao động như là điều kiện làm tăng giá trị của tư bản.

I. Sự vật chất hóa tư bản trong lưc lượng sản xuất. Sự thâu gồm hiện thực của lao động vào tư bản chỉ quá trình “vật chất hóa” [matérialisation] quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong những lực lượng sản xuất nhất định[37]. Tiếp thu quá trình lao động như nó hiện hữu, tư bản “uốn nắn lại” [remodeler][38] những yếu tố của quá trình này và tương quan giữa các yếu tố đó, thế nào để chúng thích ứng với đối tượng của quá trình là sản xuất ra giá trị thặng dư. Trước tiên, tư bản uốn nắn lại người lao động bằng cách đảo lộn tổ chức lao động trong xã hội: với việc cấu thành người lao động tập thể dưới hình thái tư bản khả biến, tư bản tách rời sức lao động xã hội và sức lao động cá thể, truất hữu sức lao động xã hội của người lao động, quy lại người lao động chỉ là sức lao động cá thể của họ[39]. Bằng cách phân công, phân hóa nhiệm vụ, tư bản chia nhỏ lao động ra từng mảnh và hạ giảm trình độ lành nghề của sức lao động cá thể, qui lại người lao động thành lao động bộ phận[40]. Sự biến hóa của sức lao động đi đôi với sự chuyển hóa của tư liệu lao động từ dụng cụ sang máy móc và hệ thống máy móc tự động. Hệ máy móc tiến hành đảo ngược quan hệ của người lao động chế ngự dụng cụ lao động thành quan hệ của người lao động phục tùng cổ máy[41]. Hiệp tác và phân công lao động được triển khai trên nền tảng đó.

Với hệ máy móc, tư bản đạt được, dưới hình thái của tư bản cố định, hình thức thích ứng nhất của nó. Văn bản bàn về tư bản cố định trong Bản thảo 1857-1858 mô tả như sau sự vật chất hóa mối quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong hệ thống máy móc tự động. “Sự phát triển của tư liệu lao động thành hệ máy móc không phải là ngẫu nhiên, đó là sự cải tạo lịch sử của những tư liệu lao động truyền thống mà tư bản kế thừa và được uốn nắn lại để thích ứng với tư bản. Sự tích lũy kiến thức và kỹ năng của người lao động, việc tích lũy các sức sản xuất phổ biến của khối óc xã hội đã được tư bản thu hút khi đối mặt với lao động, cho nên tích lũy này biểu hiện ra như là thuộc tính của tư bản, và cụ thể hơn là của tư bản cố định khi nó bước vào quá trình sản xuất với tính cách là tư liệu sản xuất thực sự. Vì vậy, hệ máy móc biểu hiện ra là hình thức thích ứng nhất của tư bản cố định, còn tư bản cố định và một khi tư bản được xem xét trong quan hệ của nó với chính nó, thì tư bản cố định hiện ra là hình thức thích ứng nhất của tư bản nói chung”[42].

Thật vậy, nếu ta thiết định tư bản là giá tri (lao động vật hóa) chiếm hữu lực lượng làm tăng giá trị (lao động sống) thì - theo Marx - với hệ máy móc, “sự chiếm hữu lao động sống bởi lao động vật hóa được thiết định như là tính chất của chính quá trình sản xuất, xét về phương diện yếu tố vật chất và sự vận động vật chất của sản xuất”. Thể thống nhất của quá trình tư bản và quá trình lao động, “sự sáp nhập quá trình lao động vào quá trình làm tăng giá trị của tư bản như là một yếu tố của quá trình này cũng được thiết định về mặt vật chất bằng sự chuyển hóa tư liệu lao động thành hệ máy móc, và sự chuyển hóa lao động sống thành một phụ tùng sống [accessoire vivant] của hệ thống máy móc này. Nói cách khác, “xu hương tất yếu của tư bản là gia tăng sức sản xuất của lao động, và là phủ định tối đa lao động cần thiết. Và thực hiện xu hướng này, chính là sự chuyển hóa tư liệu lao động thành hệ máy móc”. Tóm lại, “trong hệ máy móc, lao động vật hóa đối mặt về phương diện vật chất với lao động sống như là quyền lực thống trị nó và tích cực thâu gồm nó, không những bằng cách chiếm hữu lao động sống mà cả trong bản thân quá trình sản xuất hiện thực”[43]. Đấy chính là tính kép hình thức - hiện thực của sự thâu gồm lực lượng sản xuất vào tư bản.

Từ đó, ta có thể suy ra rằng tư bản triển khai lực lượng sản xuất dưới hình dạng đối lập lao động vật hóa và lao động sống; rằng đặc điểm của quá trình phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa biểu hiện trong sự mất cân đối ngày càng tăng giữa, một bên là sự phát triển của tư liệu lao động, tập trung ở nó sức sản xuất của lao động xã hội, của khoa học và của tự nhiên; và bên kia là sự cô lập và suy yếu của người lao động mà sự thống nhất với các lực lượng sản xuất khác luôn là đối tượng của một sự tước đoạt liên tục[44]. Cho nên trong tư liệu lao động, mà tư bản nắm độc quyền và người lao động đã bị tước đoạt cả về phương diện kinh tế lẫn kỹ thuật, ta có thể thấy tất cả sức mạnh của tư bản và sự yếu kém của người lao động, mỗi bên tự xác định mình trong mối tương quan với bến kia. “Bị thâu gồm vào tổng quá trình của máy móc, lao động chỉ là bộ phận của một hệ thống mà thể thống nhất không ở người lao động sống mà ở hệ máy móc sinh động; hệ máy móc này hiện ra trước hoạt động cô lập nhỏ nhoi của công nhân như là cơ quan áp đặt bạo lực của nó”[45].

Ít nhất đây cũng là một xu thế của tư bản, bởi sự phục tùng của người lao động ở nơi lao động không khi nào là hoàn toàn hay dứt khoát cả, trái với vài công thức đơn phương của Tư bản khiến người ta có thể nghĩ như vậy . Hẳn là, với hiệp tác, phân công lao động và hệ máy móc, tư bản tìm mọi cách thu hẹp thế tự chủ của người lao động trong quá trình lao động, và khuất phục sức kháng cự của công nhân trước cưỡng chế lao động thặng dư[46]. Nhưng nếu uống nắn lại quá trình lao động cho phép tư bản phá vỡ thế tự chủ và sức kháng cự truyền thống của người lao động, thì nó cũng tạo nên những thế tự chủ và sức kháng cự mới cho công nhân, tương ứng với các hình thái mới về quá trình lao động. Tương tự, nếu sự tiến bộ kỹ thuật tư bản chủ nghĩa cho phép truất hữu các kiến thức truyền thống của người lao động, thì những hình thức thức kiến thức mới của người lao động được tái tạo trên cơ sở của các kỹ thuật sản xuất mới[47]. Cho nên quá trình lao động tư bản chủ nghĩa luôn mang tính xung đột không thể khắc phục, điều mà khi tuyệt đối hóa một số công thức đơn phương của Tư bản khiến ta có thể quên đi[48]. Và theo nghĩa đó, đấu tranh giai cấp thật sự là động lực của sự phát triển lực lượng sản xuất.

Sự cần thiết vật chất hóa tư bản trong những lực lượng sản xuất vì vậy thể hiện cuộc đấu tranh mà nhà tư bản tiến hành để tái sản xuất sự cưỡng chế lao động thặng dư trước sức kháng cự của công nhân. Trong phân tích của Marx, hệ thống lực lượng sản xuất là đấu trường nơi diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp, mà mục tiêu - đối với tư bản - là uốn nắn lại kỹ thuật và tổ chức lao động. Cho nên, người ta không thể không ngạc nhiên khi đọc Cornelius Castoriadis cho rằng - ngoài vài ý mới chớm trong Bản thảo 1844 - Marx đã theo đuổi quan niệm về “tính trung lập” của sự phát triển kỹ thuật đối với tư bản; rằng phân tích của Marx về kỹ thuật “che lấp” nhân tố quan trọng nhất là “xung đột xã hội trong sản xuất, đấu tranh giai cấp bên trong doanh nghiệp”. Và rằng sự phát triển của doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa đã sớm hướng tới một lựa chọn kỹ thuật nhất định, là “phụ thuộc vào máy móc, chứ không phụ thuộc con người” nhằm đảm bảo cho tư bản “sự độc lập lớn nhất của quá trình sản xuất đối với người lao động”. Để phản bác Marx, Castoriadis đề xuất “ý tưởng theo đó những gì hiện tồn tại là công nghệ tư bản chủ nghĩa chứ không phải công nghệ nói chung, và sự phát triển của nó chủ yếu được quyết định bởi cuộc đấu tranh của công nhân trong sản xuất chống lại lãnh đạo doanh nghiệp”; và song song ông đề xuất “phê phán quan niệm ngầm của Marx theo đó công nghệ tư bản chủ nghĩa mang tính trung lập”[49].

Phải nói gì về sự phản bác trên đây của Castoriadis, nếu không phải là nó xuất phát từ sự đọc lướt rất thiếu chú ý đến các văn bản của Marx về sự thâu gồm hiện thực: từ Bản thảo 1857-1858 đến Tư bản - thông qua Bản thảo 1861-1863, Chương VI chưa công bố Các học thuyết về giá trị thặng dư -, Marx đã triển khai “ý tương” này về sự thâu gồm hiện thực của quá trình lao động vào tư bản. Hay nói cách khác, về sự phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa như là sự vật chất hóa - trong tổ chức và kỹ thuật lao động - của quan hệ người lao động phục tùng tư bản. Đối với Marx, lực lượng sản xuất không bao giờ phát triển tụ thân mà khi nào cũng là hiệu ứng - sự vật chất hóa - của quan hệ sản xuất xã hội nhất định. Do đó, hiệp tác, phân công lao động và hệ máy móc không phải là những phương thức phát triển lực lượng sản xuất nói chung, mà là những phương thức phát triển giá trị thặng dư tương đối.

Cho nên thay vì nói đến tiến bộ kỹ thuật chung chung, chúng ta sẽ bàn về tiến bộ trong kỹ thuật sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối. Và đo lường sự phát triển lực lượng sản xuất ở đây không là gì khác hơn là đo lường sự thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đo lường sự vật chất hóa của quan hệ ấy trong các lực lượng sản xuất, đo lường sự phục tùng tư bản của người lao động. “Một khi hệ máy móc phát triển cùng với sự tích lũy của khoa học xã hội, của sức sản xuất xã hội nói chung, thì lao động xã hội phổ biến biểu hiện không phải ở người lao động mà ở tư bản. Sức sản xuất của xã hội [tư bản chủ nghĩa] có thước đo trong tư bản cố định. […] Do đó, sự phát triển về số lượng và hiệu quả (tính thâm canh) của tư bản, với tính cách là tư bản cố định, chỉ ra một cách khái quát mức độ tư bản phát triển với tư cách là tư bản, với tư cách là quyền lực thống tri lao động sống, và mức độ mà nó chế ngự quá trình sản xuất nói chung”[50].

II. Sự sùng bái lực lượng sản xuất thâu gồm vào tư bản. Thâu gồm hiện thực giải thích sự sùng bái các lực lượng sản xuất khi chúng mang hình thái tư bản. Trong một văn bản thuộc Các học thuyết về giá trị thặng dư, được lập lại trong Chương VI chưa công bố, Marx chỉ ra rằng sự thâu gồm hiện thực của các lực lượng sản xuất vào tư bản thực hiện “sự chuyển dịch” [transposition] sức sản xuất xã hội của lao động và toàn bộ sức sản xuất của xã hội thành đặc tính “vật chất” của tư bản, thành sức mạnh “nội tại” của tư bản[51]. “Hiệp tác, công trường thủ công (hình thức phân công lao động), công xưởng (hình thức lao động xã hội tổ chức trên cơ sở vật chất của hệ máy móc) biểu hiện ra như những hình thái phát triển của tư bản […], và vì vậy sức sản xuất của lao động được phát triển từ các hình thái lao động xã hội, - do đó, cả khoa học và các lực lượng tự nhiên -, cũng đều biểu hiện ra như sức sản xuất của tư bản”[52]. Và điều này càng trở nên hiện thực hơn khi tư bản cố định phát triển dưới dạng máy móc: toàn bộ các lực lượng sản xuất xã hội bị “thu hút vào tư bản đối mặt với lao động, và do đó biểu hiện ra như là thuộc tính của tư bản và chính xác hơn của tư bản cố định một khi nó bước vào quá trình sản xuất với tính cách là tư liệu sản xuất thực thụ”[53]. Vì vậy, tư liệu sản xuất chính là đối tượng sùng bái lực lượng sản xuất thâu gồm trong tư bản. Do sùng bái này mà năng lực sản xuất của lao động biểu hiện ra là “năng suất của tư bản” [productivité du capital][54], đồng thời “tư bản” quy lại chỉ là tư liệu sản xuất[55]. Nên chăng nhắc lại rằng sự sùng bái không chỉ là ảo tưởng đơn thuần, mà là một ảo tưởng khách quan, “hiện thực”, theo nghĩa sự sùng bái là hình thái thực tế [forme de réalité] của mối quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa; đó là thực tế vận hành [réalité opérante] của quan hệ này đối với các cá nhân-vật đỡ [individus-supports] của mối quan hệ ấy. Do vậy, đối với”những người lao động cá nhân, cả về mặt chủ quan lẫn khách quan, […] tất cả những điều này càng trở nên thực tế hơn vì một mặt năng lực lao động của họ bị biến đổi bởi những hình thái [xã hội của chính lao động của họ] đến mức nó trở nên bất lực khi tách khỏi hình thái ấy, tức là sức sản xuất tự chủ của họ bị phá vỡ khi không còn trong mối quan hệ tư bản chủ nghĩa nữa; và mặt khác, máy móc phát triển đến mức các điều kiện lao động, ngay cả từ quan điểm công nghệ, cũng thống trị lao động, đồng thời thay thế nó, áp bức nó và làm cho nó trở nên thừa thải trong các hình thái mà nó tự chủ”[56].

Đấy là lý đo tại sao tư liệu sản xuất đại biểu cho lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa ưu việt: “Trong máy móc, lao động vật hóa không chỉ xuất hiện dưới dạng sản phẩm dùng làm công cụ lao động, mà chính bản thân nó là lượng sản xuất”[57]. Cho nên sẽ là hiểu lầm khi đề xuất, như Bruno Théret, rằng: trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, “chính sức lao động xuất hiện như là lực lượng sản xuất ưu việt”[58]. Tác giả bắt đầu định nghĩa sự thống nhất của lực lượng sản xuất và quan hệ xã hội về sản xuất trong tư bản theo phép loại suy với quan niệm của Marx về “sư thống nhất của mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi trong hàng hóa, thể thống nhất mà giá trị trao đổi chi phối”[59]. Và tương tự như mâu thuẫn giá trị sử dụng – giá trị trao đổi hàng hóa có hình thái vận động của nó trong tiền tệ, mâu thuẫn lực lượng sản xuất – quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa tìm thấy hình thái vận động của nó trong sức lao động. “Tương tự như trong lĩnh vực trao đổi, một hàng hóa (tiền tệ) tách ra khỏi các hàng hóa khác dể thể hiện giá trị trao đổi của chúng bằng giá trị sử dụng riêng của nó […], thì trong lĩnh vưc sản xuất, một lực lượng sản xuất tách ra khỏi các lực lượng khác: sức lao động đối đầu với tư liệu sản xuất và thể hiện, thông qua giá trị sử dụng của nó, năng lực tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, tính chất tư bản của các tư liệu sản xuất. Sức sản xuất của sức lao động hiện ra như là hình thái thể hiện các lưc lượng sản xuất vật chất với tính cách là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa - cũng như giá trị sử dụng của tiền tệ là hình thái thể hiện giá trị trao đổi của các sản phẩm lao động”[60]. Lập luận loại suy giữa các khái niệm về sức lao động và tiền tệ cần được thảo luận ở hai góc độ.

Trước tiên, Théret không hề nắm bắt “sự khác biệt” về cương vị giữa giá tri sử dụng của sức lao động trong phân tích tư bản và giá trị sử dụng của tiền tệ trong phân tích hàng hóa: theo Marx, cương vị đặc thù của sức lao động nằm ở “bản chất” giá trị sử dụng của nó; trong khi cương vị đặc thù của tiền tệ là do vị trí “độc nhất” mà nó giành lấy trong hình thái thể hiện giá trị, còn bản chất giá trị sử dụng ở đây là “bất kỳ”[61].

Mặt khác, và liên quan đến sự thống nhất của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì mối liên hệ mà Theret tạo ra giữa cương vị của sức lao động và cương vị của tiền tệ đi ngược lại phân tích của Marx về sự thâu gồm lao động vào tư bản và sự sùng bái gắn với thâu gồm hiện thực. Marx chỉ ra rằng, trong hiệp tác, phân công lao động và hệ máy móc, tư bản phát triển sức sản xuất xã hội của lao động, nhưng, trước hết, bằng cách tách rời nó và đối lập nó với sức lao động, tức là truất hữu sức lao động; và, thứ hai, bằng cách cố định sức sản xuất xã hội của lao động trong tư liệu lao động, tức là chiếm hữu nó dưới hình thức tư bản cố đinh. “Như vậy là sự phát triển của những sức sản xuất xã hội của lao động và những điều kiện của sự phát triển ấy thể hiện ra như là một hành vi của tư bản, người lao động ứng xử thụ động, thậm chí khi hành vi đó chống lại người lao động”[62]. Chính điều này khiến có sự sùng bái tư bản, và sùng bái này chỉ có thể hướng vào tư liệu sản xuất. “Chính là trong tư bản cố định mà sức sản xuất xã hội của lao động được xem như là thuộc tính vốn có của tư bản; sức sản xuất xã hội này còn bao gồm lực lượng của khoa học, tổ hợp của những lực lượng xã hội bên trong quá trình sản xuất và tài năng của lao động trực tiếp được chuyển dịch vào máy móc”[63]. Tư liệu sản xuất hình như tự thân có năng lực tạo ra giá trị, cũng giống như tiền tệ hình như tự thân có thuộc tính là giá tri. “Ngày khi quá trình lao động bất đầu, mọi sức sản xuất của lao động xã hội biểu hiện ra như là sức sản xuất của tư bản, cũng giống như hình thái xã hội chung của lao động hiện ra trong tiền tệ như là thuộc tính của một vật nào đó. Vậy thì sức sản xuất của lao động và hình thái cu thể của nó biểu hiện giờ đây như sức sản xuất và hình thái của tư bản, tức là của lao động đã vật thể hóa, của những điều kiện lao động vật chất; những điều kiện này, với tư cách là hình thái đã trở nên độc lập, đối lập với lao động sống, được nhân cách hóa trong nhà tư bản. Chúng ta lại thấy ở đây - Marx viết - sự đảo ngược mối quan hệ mà chúng ta đã gặp khi nghiên cứu tiền tệ và đã gọi bằng thuật ngữ bái vật giáo”[64]. Và Marx nhấn mạnh sự nhất quan trong phép phân tích súng bài vàng và sùng bái máy móc. “Điều này hoàn toàn không có nghía là giá trị sử dụng này – hệ máy móc tự nó – là tư bản, hoặc có nghĩa là sự tồn tại của nó với tính cách là hệ máy móc đồng nhất với sư tồn tại của nó như là tư bản. Vàng sẽ không mất giá trị sử dụng của nó là vàng, nếu như vàng không còn là tiền tệ nữa, cũng giống như vậy hệ may móc sẽ không mất đi giá trị sử dụng của nó, nếu nó không còn là tư bản nữa”[65]. Đó là sùng bái kép của tiền tệ và của tư bản cố định mà nền tảng chính là sự thâu gồm của lao động vào tư bản với hai mặt hình thức - hiện thực của nó.

Tiền tệ và máy móc cấu thành hai mặt của tính sùng bái tư bản, tùy theo nó biểu hiện ra trong quá trình lưu thông hay trong quá trình sản xuất. Ở quá trình lưu thông, nơi của sự thâu gồm hình thức, tư bản mang hình thái của một quan hệ tiền tệ (T – T’). Còn ở quá trình sản xuất, nơi của sự thâu gồm hiện thực, tư bản mang hình thái của một quan hệ kỹ thuật (quan hệ người - máy). Và nếu đúng như vậy thì đó là vì, với hệ máy móc, lao dộng phục tùng tư bản trở thanh điều kiên công nghệ của quá trình sản xuất[66].

III. Xu thế tư bản cách mạng hóa lực lượng sản xuất và hình thái giá trị. Trái lái với xu hướng quy giản khái niệm quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vào khía cạnh duy nhất thâu gồm hình thức của nó trong quá trình lưu thông, chúng tôi đã xác lập sự thâu gồm hiện thực, tức sự cần thiết hiện thực hóa quan hệ tư bản chủ nghĩa trong lĩnh vực sản xuất, là sự cần thiết vật chất hóa tư bản trong những lực lượng sản xuất nhất định. Tất nhiên, có rũi ro ngược lại là giản lược, cũng một cách đơn phương, khái niệm tư bản chỉ vào khía cạnh thâu gồm hiện thực của nó trong quá trình sản xuất. Do đó, cần phê phán cách diễn giải thâu gồm hiện thực xem sự phục tùng của người lao động trong quá trình lao động như là một mực đích tự thân, không liên quan đến sản xuất lao động thặng dư dưới hình thái giá trị, tức là không liên quan với hình thái hàng hóa của sức lao động, tóm lại là với chế độ lao động làm thuê. Những hình thái của quá trình lao động vật chất hóa sự thống trị của tư bản, nhưng lại được quan niệm như một quan hệ chỉ huy thứ bậc đơn thuần. Người ta chỉ thấy trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa một quan hệ quyền lực thuần túy, và trong các lực lượng sản xuất một thể nền hình thức [substrat formel] đơn thuần, không liên quan gì với mục tiêu làm tăng giá trị của tư bản. Chúng ta nhận ra ở đây cùng một khuyết điểm với việc quy giản tư bản chỉ vào khía cạnh thâu gộp hình thức của nó[67].

Đối với Marx, sự thâu gồm chỉ hiện thực nếu nó cho phép bóp nặn ngày cang nhiều giá trị thặng dư tương đối: “Sự thâu gồm hiện thực lao động vào tư bản phát triển trong mọi hình thái tạo ra giá trị thặng dư tương đối”[68]. Là những hình thái thâu gồm hiện thực, hiệp tác, phân công lao động và hệ máy móc không gì khác hơn là”những phương pháp đặc thù để sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối”[69]. Vi vậy, điều đặc trưng cho hình thái hệ máy móc là giá trị sử dụng của máy móc, nhưng không phải hiệu suất kỹ thuật của máy móc, mà hiệu suất xã hội của nó trong việc bóp nặn lao động thặng dư bằng cách thu hẹp lao động cần thiết: “Tư bản chỉ sử dụng máy móc trong chừng mực chúng cho phép người lao đọng dành thời gian nhiều hơn cho tư bản, làm việc lâu hơn cho nhà tư bản và ít thời gian hơn cho bản thân”[70]. Cần lưu ý rằng Marx, ở đây, phân tích quan hệ giai cấp, chứ không phải hành vi cá thể của nhà tư bản trong cạnh tranh: “Giải thích việc sử dụng máy móc từ quan hệ canh tranh và quy luật giảm chi phí sản xuất nhờ cạnh tranh, là điều dễ dàng. Nhưng vấn đề ở đây là lý giải nó từ mối quan hệ của tư bản với lao động sống, mà không kể đến tư bản nào khác”[71]. Chính theo nghĩa này mà chúng ta phải hiểu rằng sự phát triển lực lượng sản xuất không phải là một vấn đề kỹ thuật, mà trước hêt và trên hết là một vấn đề quan hệ xã hội về sản xuất[72].

Với lô-gích là sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối, thâu gồm hiện thực đòi hỏi sự phát triển không ngừng về sức sản xuất của lao động, sự thay đổi liên tục về kỹ thuật và tổ chức lao động: nó bao hàm “một cuộc cách mạng toàn diện”, “liên tục tiếp diễn và luôn luôn đổi mới” trong lực lượng sản xuất[73]. Phát triển lực lượng sản xuất trở thành cái tất yếu nội tại của tư bản, điều kiện tuyết đối để tư bản tái sản xuất. Xu thế “cách mạng hóa” lực lượng sản xuất này là đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: “Công nghiệp hiện đại không bao giờ xét và coi hình thức hiện có của quá trình sản xuất là hình thức cuối cùng. Vì vậy, cơ sở kỹ thuật của nó có tính chất cách mạng, còn cơ sở của tất cả các phương thức sản xuất trước đó chủ yếu là bảo thủ”. Marx nói rõ thêm: “Thông qua hệ máy móc, các quá trình hóa học và các phương pháp khác, nền công nghiệp hiện đại không ngừng đảo lộn những cơ sở kỹ thuật của nên sản xuất, và cùng với cở sở ấy là những chức năng của công nhân và những sự kết hợp xã hội của quá trình lao động”[74]. Như mọi quan hệ xã hội về bóc lột, tư bản giả định sự phân chia lao động xã hội giữa lao động cần thiết và lao động thặng dư. Điều phân biệt tư bản là việc cưởng đoạt lao động thăng dư diễn ra trên cơ sở thu giảm lao động cần thiết, là “sự chuyển hóa lao động cần thiết thành lao động thặng dư”[75]. Do đó, nếu chúng ta xác định bóc lột tư bản chủ nghĩa chỉ qua hình thải biểu hiện của lao động thặng dư thì ta để qua một bên một khía cạnh cơ bản: là phương thức cưỡng đoạt lao động thặng dư, là đấu tranh giai cấp trong chủ nghĩa tư bản diễn ra qua sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng mặt khác, tư bản biểu hiện ra trong xu thế cách mạng hóa lực lượng sản xuất bởi vì lao động thặng dư được bóp nặn dưới hình thái giá trị; nói cách khác, bởi vì tư bản là một quan hệ bóc lột mang tính hàng hóa, tách người lao động ra khỏi điều kiện lao động được kết hợp với tách quá trinh lao động xã hội thành những quá trình tư nhân[76]. Xu thế cách mạng hóa lực lương sản xuất thành hình trong quy luật giá trị, theo nghĩa quy luật này hiện thực hóa xu thế đó và áp đặt lên tư bản cá nhân như là động cơ hành động của họ; điều này giải thích tại sao, đối với cá nhân nhà tư bản, sự phát triển lực lượng sản xuất không phải là kết quả của đấu tranh giai cấp, mà của canh tranh giữa các nhà tư bản với nhau.

Có thể nói rằng tư bản là sự thống nhất xu thế cách mạng hóa các lực lượng sản xuất với hình thái giá trị; rằng tính đặc thù của tư bản so với các quan hệ bóc lột khác, là: 1/ Hình thái giá trị mà lao động thăng dư mang, do sức lao động có hình thái hàng hóa; hay nói cách khác, việc ghi khắc nghĩa vụ lao động thặng dư trong quan hệ trao đội hàng hóa, do đó hình thái tiền tệ của sự cưỡng chế (thâu gồm hình thức); 2/ Phương thức cưỡng đoạt lao động thạng dư bằng sự chuyển hóa lao động cần thiết thành lao động thặng dư; nói cách khác, sự ghi khắc nghĩa vụ lao động thặng dư trong sự phát triển lực lượng sản xuất, do đó hình thải kỹ thuật của sự cưỡng chế (thâu gồm hiện thực).

IV. Làm giảm giá trị của sức lao động và làm tăng giá trị của tư bản. Sự thống nhất của xu thế cách mạng hóa lực lượng sản xuất với hình thái giá trị biểu hiện trong phân tích tư bản như một quá trình tăng thêm-giảm bớt giá trị của tư bản, theo nghĩa Marx nói “quá trình làm tăng giá trị [valorisation] của tư bản cũng hiện ra như la quá trình làm giảm giá trị [dévalorisation] của nó”[77]. Cần nói rõ là quá trình làm giảm giá trị của tư bản chỉ, ở đây, sự sụt giảm giá trị của hàng hóa cấu thành tư bản, chứ không có nghĩa là quá trình làm tăng giá trị của tư bản sụt giảm[78]. Và “vấn đề không phải là số phận của một tư bản tư nhân nào”, mà là phân tích tư bản nói chung, vốn có “khuynh hương không ngừng và liện tục gia tăng sức sản xuất của lao động để hạ giá cả của hàng hóa, và qua đó hạ giá của người lao động”[79]. Vượt qua mục tiêu hạ giảm giá trị của hàng hóa, điều mà sự phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa nhắm tới là làm giảm giá trị của sức lao động. Nó bao gồm việc làm giảm giá trị của những hàng hóa tham gia trực tiếp (tư liệu sinh hoạt) hay gián tiếp (tư liệu sản xuất) vào quá trình tái sản xuất sức lao động. Do đó, điệu quan trong là người lao động làm thuê phải tái sản xuất bản thân họ với hàng hóa do tư bản sản xuất, chứ không phải với sản phẩm xuất phát từ hình thái xã hội sản xuất khác, và sau đó chỉ chuyển đổi thành hàng hóa khi tham gia lưu thông hàng hóa. Bởi trong trường hợp này, hạ giảm giá trị trao đổi của sức lao động, nếu xảy ra, không phải là do cuộc đấu tranh giai cấp giữa tư bản và lao động làm thuê, mà thuộc về đấu tranh giai cấp liên quan đến một hình thái sản xuất phi tư bản chủ nghĩa - một thực tế lịch sử mà Marx thừa nhận, nhưng không phải là đối tượng lý luận của Tư bản[80]. Nếu không nội sinh hóa tái sản xuất sức lao động (H – T – H’) trong tái sản xuất tư bản (T – H – T’) thì sự phân chia quá trình làm tăng giá trị tư bản giữa khu vực tư liệu sản xuất (khu vực I) và khu vực tư liệu sinh hoat (khu vưc II) không mấy ý nghĩa, vì những biến đổi lực lượng sản xuất tạo nên trong khu vực I sẽ không tìm thấy điểm đến trong khu vực II. Chỉ khi nào quá trình tái sản xuất sức lao động tiến hành qua tiêu dùng hàng hóa-sản phẩm của tư bản thì chức năng của khu vực II mới là xác định giá trị trao đổi của sức lao động, và chức năng của khu vực I là thúc giảm giá trị trao đổi này. Tóm lại, làm giảm giá trị của sức lao động trở thành điều kiện để làm tăng giá trị của tư bản[81].

Tuy nhiên, cần nhắc lại rằng làm giảm giá trị của sức lao động không chỉ đơn thuần hạ giảm giá trị của hàng hóa tham gia quá trình tái sản xuất sức lao động: nó còn đòi hỏi một cuộc đấu tranh của tư bản nhằm giới hạn “yêu sách của công nhân đòi chiếm hữu một phần năng suất lao động của họ”[82]. Tư bản làm sức ép ấy trên giá trị trao đổi của sức lao động trong thể thâu gồm hiện thực của lao động, đặc biệt khi tư bản “sử dụng hệ máy móc để chống lại các cuộc đình công, chống lại yêu sách đòi tăng tiền công”. Trong các Bản thảo 1861-1863, Marx chỉ ra rằng, đối với người lao động, “điểm khởi đầu của đình công thường là để ngăn chặn hạ tiền công, hay để được tăng tiền công, hay để ấn định giới hạn của ngày lao động tiêu chuẩn. Vấn đề là hạn chế thời gian lao động thặng dư tuyệt đối hay tương đối, hay là cho công nhân chiếm hữu lại một phần thời gian đó. Đối lại, nhà tư bản vận dụng hệ máy móc”[83]. Hệ máy móc không chỉ là phương tiện làm giảm giá trị hàng hóa mà công nhân mua, nó dã “trở thành vu khí chiến tranh không thể cưởng lại để đàn áp những cuộc đình công” và “đè bẹp những yêu sách ngày càng tăng của công nhân đang đe dọa hệ thống công xưởng vừa ra đời và bị khủng hoảng”[84]. Mặt khác, tư bản còn làm sức ép trên giá trị trao đổi của sức lao động qua nhân khẩu thừa tương đối mà phương thức tư bản chủ nghĩa sử dụng hệ máy móc tạo ra: “Bộ phận của giai cấp công nhân mà máy móc biến thành dân số thừa, tức vô dụng cho nhu cầu nhất thời của bóc lột tư bản chủ nghĩa, sẽ ngã gục trong cuộc đấu tranh không cân sức giữa công nghiệp cơ khí với nghề thủ công cũ và công trường thủ công, hay sẽ làm cho tất cả nghệ nghiệp dễ làm hơn bị bề bộn, và làm cho sức lao động động ở đó bị mất giá”[85]

Vả lại, cần nhắc lại rằng tư bản làm tăng giá trị của nó bằng cách giảm giá trị của sức lao động, nhưng song song tư bản cũng mở rộng chuẩn mực tái sản xuất của sức lao động: sản xuất giá trị thặng dư trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất đòi hỏi phải”sản xuất ra tiêu dùng mới”, đồng thời đòi hỏi “phạm vi tiêu dùng” phải mở rộng song song với phạm vi sản xuất[86]. Lời nơi đâu 1857 nói rõ thế nào là sản xuất ra tiêu dung: nó không chỉ là sản xuất ra “vật tiêu dùng” mà cả “kích thích tiêu dung” thông qua “phương thức tiêu dùng”[87]. Ắt văn bản này bàn về những mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng nói chung, không kể hình thái xã hôi: đúng ra thì chỉ có phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mới cho phép Marx khái niệm hóa các mối tương quan như vậy[88]. Thật vậy, trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chuẩn mực xã hội về tái sản xuất sức lao động không phải là một rỗ giá trị sử dụng nhất định, mà là một chuẩn mực tiền tệ, sự chuyển đổi nó thành giá trị sử dụng phụ thuộc vào phương thức tiêu dùng: ấy là “mức sống truyền thống” mà Marx xác định tính “xã hội” và “lịch sử”[89]. Tác giả Tư bản còn nhắc lại điều ấy khi nhấn mạnh rằng người lao động dùng tiến lương của mình để mua những giá trị sử dụng theo lựa chọn của mình, tuy nhiên “ngoài số tiền lương, các điều kiện sống của người lao động, buộc họ phải chi tiêu tiền trong phạm vi khá hẹp của tư liệu sinh hoạt, ngay cả khi họ có được một sự tự do nhất định”[90]. Cũng như có một cách phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa, người ta có thể nói rằng chủ nghĩa tư bản có một cách uốn nắn phương thức xã hội sử dụng các vật tiêu dùng - cho dù sự thao túng của tư bản trong phạm vi tiêu dùng không có trực tiếp như trong phạm vi sản xuất[91].

Tóm lại, sự thâu gồm hình thức của lao động vào tư bản xác đinh quan hệ lao động làm thuê qua sự tồn tại của: 1/ một chuẩn mực xã hội về sử dụng sức lao động (thời gian và cường độ của ngày lao động); và 2/ một chuẩn mực xã hội về tái sản xuất sức lao động (mức lương tiền tệ). Thâu gồm vẫn mang tính hình thức: a/ trong chừng mực chuẩn mực sử dụng sức lao động không có phương thức tổ chức lao động áp đặt nó, khi mà giá trị sử dụng của các tư liệu sản xuất chưa có được uốn nắn thích ứng; và b/ trong chừng mực chuẩn mực tái sản xuất sức lao động không có phương thức tiêu dùng ràng buộc nó, khi mà giá trị sử dụng của các tư liệu sinh hoạt chưa được uốn nắn thích ứng[92]. Do đó, thâu gộp hiện thực không chỉ cụ thể hóa trong một phương thức tư bản chủ nghĩa về tổ chức lao động [mode capitaliste d’organisation du travail], uốn nắn lại quá trình lao động; nó còn cụ thể hóa trong một phương thức về tiêu dùng có tính hàng hóa [mode marchand de consommation], uốn nắn lại quá trình tái sản xuất sức lao động.

TIẾT 62:

TÍNH HAI MẶT CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT DO TƯ BẢN PHÁT TRIỂN

Những điều phân tích ở trên về sự thâu gồm hình thức - hiện thực của lao động vào tư bản đã làm rõ ra là: khái niệm về tư bản, như là quan hệ xã hội đặc thù về sản xuất, không thể xác định được nếu chúng ta để qua một bên lực lượng sản xuất trong đó quan hệ ấy được vật chất hóa. Cũng như chúng ta đã thấy rằng khái niêm về giá trị, như là hình thái xã hội của sản phẩm lạo động, không thể xác định được nếu thiếu giá trị sử dụng trong đó nó biểu hiện. Tuy nhiên, trình bày thể thống nhất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với lưc lương sản xuất vẫn là vấn đề tế nhị, nó đòi hỏi tránh khỏi cả ưu thế duy cơ giới [primat mécaniste] của lực lượng sản xuất, lẫn ưu thế duy chủ quan [primat subjectiviste] của quan hệ sản xuất. Vấn đề này càng hệ trọng vì nó cho phép chúng ta đào sâu hơn nữa hiểu biết về mâu thuẫn của giá trị với giá trị sử dụng. Chúng ta sẽ tiếp cận vấn đề từ một công thức của Etienne Balibar mà ta sẽ đánh giá tính xác đáng và những hạn chế.

Nhằm xác định những thuật ngữ sử dụng để hình dung mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, Balibar quy chiếu đến phép phân tích của Marx về thể thống nhất của quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị ở Quyển I Tư bản[93]. Trước hết, không một hình thái xã hội nào về quan hệ sản xuất có thể tồn tại “ngoài sự quy định bởi những lực lượng sản xuất hiện có”. Chỉ khi nào ta không quên rằng sự tồn tại của quan hệ sản xuất “chính là những hiệu ứng vật chất của nó, là những hình thái hiện thực hóa nó thiết thực trong quá trình lao động”, thì ta mới có thể thoát khỏi những luận đề duy chủ quan hình dung sự phát triển quan hệ sản xuất độc lập với sự vật chất hóa nó trong lực lượng sản xuất. Mặt khác, không có quá trình lao động nói chung; hay đúng hơn, quá trình lao động chỉ tồn tại “trong và dưới những hình thái lịch sử đặc thù […]; trước đó, quá trình lao động không hề tồn tại”. Nhự vậy, trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sức lao động, với tính cách là yêu tố của quá trình lao động, “chỉ tái sản xuất thông qua hình thái xã hội của giả tri”. Nhìn chung, các yếu tố của quá trình lao động, sức lao động cũng như tư liệu lao động, chi tồn tại như là “sản phẩm của hiệu ứng quan hệ sản xuất cơ bản”[94].

Đối mặt với chỉ trích đã đơn phương ưu tiên cho quan hệ sản xuất, và quy giản lực lượng sản xuất thành quan hệ sản xuất, Balibar tóm tắt quan điểm của mình trong công thức như sau: “Cho dù phải phân biệt lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất - những lực lượng đó không thể quy giản thành quan hệ này -, các lực lượng sản xuất với tư cách như thế (tức như là hệ thống chuyển hóa vật chất và chiếm lấy tự nhiên) chỉ tồn tại như là hiệu ứng của sự kết hợp chúng với những quan hệ sản xuất nhất định”. Và tác giả thêm rằng: “sự phân biệt thực sự lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không thể tư duy được nếu quan hệ sản xuất cơ bản không có được ưu thế: bởi, theo quan điểm mácxit, viêc phân biệt này không gì khác hơn là mâu thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất và sự phát triển của nó. Và không thể hiểu được mâu thuẫn ấy ngoài ưu thế dành cho mối quan hệ sản xuất đối kháng, mà mâu thuẫn ấy là hiệu ứng”[95].

Ưu điểm của công thức Balibar là xác định rằng lực lượng sản xuất không ở bên ngoài quan hệ sản xuất. Nó cho phép người ta hình dung thể thống nhất của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất bị thâu gồm vào quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa - trong thể thống nhất này, quan hệ sản xuất và lực lương sản xuất không phải là hai quá trình có thể tách biệt, mà cùng cấu thành một quá trình duy nhất. Các lực lượng sản xuất, trong tính quy định chung của chúng, chỉ mối quan hệ xã hội chiếm lấy tự nhiên, chúng không tồn tại độc lập với hình thái của xã hội. Nói cách khác, lực lượng sản xuất chỉ là khái niệm chung khi nó là khái niệm đặc thù của một phương thức sản xuất nhất định: trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất chỉ mối quan hệ xã hội chiếm lấy tư nhiên với tính cách là “vật đỡ” [support] quan hệ bóp nặn giá trị thặng dư, như là hiệu ứng vật chất, phương thức tồn tại của tư bản. Theo nghĩa đó, lực lượng sản xuất là sự vật chất hóa tư bản, và sự phát triển lực lượng sản xuất là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp giữa nhà tư bản và người lao động làm thuê trong quá trình sản xuất[96]. Và ngược lại, tư bản là quan hệ về sản xuất xã hội với ý nghĩa đầy đủ của thuật ngữ ấy, chỉ khi nó vật chất hóa trong những lực lượng sản xuất nhất định. Theo nghĩa này, tư bản cũng là lực lượng sản xuất, và tái sản xuất tư bản là cuộc đấu tranh giai cấp nhằm cách mạng hóa các lực lượng sản xuất. Đó là những kết quả lý luận người ta có thể rút ra từ một công thức như loại của Balibar[97].

Tuy nhiên, nếu công thức này cho phép xác định thể thống nhất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghia với lực lượng sản xuất, nó lại không cho phép hình dung tính mâu thuẫn của chúng, và theo chúng tôi đấy là giới hạn của nó. Vấn đề đặt ra như sau: nếu các lực lương sản xuất và sự phát triển của chúng chỉ là hiệu ứng vật chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì người ta không thấy mâu thuẫn có thể đến từ đâu? Nói chung, định nghĩa mâu thuẫn theo thuật ngữ về hình thái xã hội và hiệu ứng vật chất, về quan hệ xã hội và vật đỡ của nó, đặt ra câu hỏi là hình thái mâu thuẫn thế náo với hiệu ứng của nó? Quan hệ mâu thuẫn thế nào với vật đỡ của nó? Hoặc, nếu ta xem xét vấn đề theo góc độ của tính quy định chung (lực lượng sản xuất với tính cách là quan hệ xã hội chiếm lấy tự nhiên) và tính quy định đặc thù (quan hệ chiếm lấy tư nhiên với tính cách là quan hệ bóp nặn giá trị thặng dư), thì lập luận đưa ra là cái chung chỉ tồn tại và chỉ có ý nghĩa trong cái đặc thù - nhưng ta lại không thấy các thuật ngữ ấy định nghĩa mâu thuẫn như thế nào. Nói cách khác, ưu thế của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất - ưu thế này quy lực lượng sản xuất về cương vị hiệu ứng vật chất của quan hệ sản xuất - khiến người ta không thể hình dung mối quan hệ về mâu thuẫn. Nếu đúng như vậy thì phép phân tích của Balibar thay vì thuộc cách đặt vấn đề về mâu thuẫn, lại thuộc cách đặt vấn đề về tái sản xuất, tức là về sự trường tồn và ổn định của một mối quan hệ thống nhất hai mặt, do sự chuyển hóa không ngừng của mặt này thành mặt kia[98]. Quá trình tái sản xuất của tư bản bao hàm sự chuyển hóa không ngừng của lực lượng sản xuất thành phương tiện bóp nặn giá trị thặng dư. Người ta cũng không đưa vào sự mâu thuẫn khi nói rằng quá trình tái sản xuất diễn ra qua đấu tranh giai cấp, bởi một khi tái sản xuất chỉ ra tính thống nhất của một mối quan hệ do đấu tranh giai cấp áp đặt, thì đấu tranh giái cấp chỉ là đấu tranh tái sản xuất tính thống nhất ấy.

Người ta biết rằng, nhằm loại bỏ mọi quan điểm duy tâm, Louis Althusser đã nhấn mạnh đến sự cần thiết gắn đấu tranh giai cấp với sự tồn tại vật chất của nó, và “tính vật chất này, xét ở mức độ cuối cùng, chính là sự thống nhất của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong một phương thức sản xuất nhất định”[99]. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra vẫn không tiến triển, và chúng ta vẫn ở điểm xuất phát ban đầu, tức là người ta có cơ sở để hình dung sự đồng nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nhưng không có gì cho phép xác lập điều mà Marx gọi là “sự khác nhau hiện thực” trong Lời nói đầu 1857: “Biện chứng của các khái niệm về lực lượng sản xuất (tư liệu sản xuất) và quan hệ sản xuất, biện chứng mà giới hạn cần được xác định, biện chứng không thủ tiêu sự khác nhau hiện thực”[100]. Thật vậy, những công thức của Althusser và Balibar về ưu thế của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất luôn có nguy cơ bị triển khai một cách đơn phương, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trở thành những hình thái qua lại và do đó lẫn lộn nhau. Những công thức ấy có thể khiến người ta nghĩ rằng sự phát triễn lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa không có hiệu ứng nào khác hơn là tái sản xuất tư bản[101]. Sự hấp thụ hoàn toàn lực lượng sản xuất vào quan hệ sản xuất có hậu quả là khiến người ta hình dung sự tồn tại và chuyển hóa của quan hệ sản xuất mà không cần lực lượng sản xuất hoặc đội lập với lực lượng sản xuất[102]. Đó là lý do phép trình bày của Althusser đã bị chỉ trích - bởi “thống nhất không phải là lẫn lộn” và vấn đề “không phải là tách biệt mà phân biệt” -, và một phần nào nó giải thích lời phê phán duy tâm mà ông đã phái đối mặt[103]. Tất cả khó khăn của việc diễn đạt mâu thuẫn giữa lực lượng và quan hệ sản xuất ở “sự công phẫn” - “scandale” mà, theo Lời bạt 1873 của Tư bản[104], phép phân tích mâu thuẫn tạo nên: “Vì trong quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó”[105]. Như vậy, khó khan ở đây là hình dung ra trong mâu thuẫn định nghĩa tư bản, điều phủ định nó; hay nói khác đi, rằng phủ định tư bản cũng là một xu thế của tư bản (§ 621).

Điều này hàm ý rằng mâu thuẫn của tư bản mang tính chất kép: phi-đối kháng khi nó tái sản xuất tư bản; và đối kháng khi nó phủ định tư bản (§ 622). Tính chất kép này bắt nguồn trong sự tồn tại của sức lao động như là khái niệm đặc thù của người lao động tự do: bởi nếu tư bản có xu hướng quy người lao động tự do thành sức lao động của họ, thì sự tồn tại của của người lao động tự do không thể quy thành tồn tại của một người mang sức lao động (§ 623).

§ 621 - Phủ định tư bản như là xu thế của tư bản

Vấn đề đặt ra ở đây đòi hỏi một lời giải không chỉ đơn thuần viện tính quy định ở cấp độ sau cùng [détermination en dernière instance] của các lực lượng sản xuất trong “lịch sử của nhân loại”[106]. Lời giải ấy càng không thể nêu sự bất định trong lý luận [indétermination théorique] để quy kết quyết định cho “trạng huống lịch sử” [conjoncture historique][107]. Công thức của Althusser và Balibar - về thể thống nhất của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất dưới tác động của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa - có khả năng cung cấp một giải pháp nếu người ta điều chính nó, bằng cách triển khái các mặt mâu thuẫn của thể thống nhất ấy. Xem xét mâu thuẫn này dưới góc độ của quan hệ xã hội và vật đỡ của nó (hay mâu thuẫn hình thái xã hội - hiệu ứng vật chất), ta có thể nói rằng mối quan hệ xã hội mâu thuẫn với vật đỡ của nó - là lực lượng sản xuất -, khi lực lượng sản xuất này không chỉ làm vật đỡ. Nếu quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa quy giản lực lượng sản xuất vào cương vị vật đỡ của mối quan hệ sản xuất, thì sự tồn tại của lực lương sản xuất không hề quy giản thành sự tồn tại vật đỡ cho tư bản. Nói cách khác, cái làm cho tư bản hiện thực hóa cũng là cái vạch ra giới hạn của nó, bởi dù bị tư bản thâu gồm đến đâu đi nữa thì lực lượng sản xuất vẫn không thể bị quy giản hoàn toàn thành hình thái của tư bản. Sự thâu gồm lực lượng sản xuất vào tư bản bao hàm một vị trí vừa bên trong - bên ngoài của lực lượng sản xuất đối với hình thái tư bản. Do cương vị kép bên trong - bên ngoài này của lực lượng sản xuất đối với tư bản, mà hình thái tư bản có thể buộc lực lượng sản xuất phục tùng nó, song nó không thể kiểm soát hoàn toàn sự phát triển của các lực lượng sản xuất, không thể mãi mãi kiềm chế chúng.

Vấn đề còn có thể được xét dưới góc độ của tính quy định chung [détermination générale] và tính quy định đặc thù [détermination spécifique] của lực lượng sản xuất. Khi đó, người ta sẽ nói rằng tính quy định chung của lực lượng sản xuất (lực lượng sản xuất với tính cách như thế) bị phủ định trong tính quy định đặc thù (lực lượng sản xuất như là phương tiên cưỡng đoạt giá trị thặng dư), song nó không bao giờ hoàn toàn biến mất, mà luôn xuất hiện lại bên cạnh khi người ta xác định khái niệm về lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cho nên có thể nói rằng tính quy định chung của lực lượng sản xuất không ngừng “ám ảnh” tính quy định đặc thù của nó[108]. Vấn đề ở đây là xác lập khái niệm tư bản chủ nghĩa về lực lượng sản xuất như là một quan hệ đối cực giữa tính quy định chung và tính quy định đặc thù, và nó không chỉ bao hàm: a) cái chung (lực lượng sản xuất với tính cách như thế) chỉ tồn tại trong cái đặc thù (lực lượng sản xuất như là phương tiện bóp nặn giá trị thặng dư), tức cái chung bị phủ định trong cái đặc thù; mà còn hàm ý: b) cái đặc thù chỉ khuất phúc cái chung trong chừng mực nó bị cái chung phủ định, tức có sự phủ định của phủ định.

I. Chúng ta hãy làm rõ những điều nói trên trong khái niệm về tư bản. Tư bản được xác định như là thể thống nhất quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất dưới tác động của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lực lượng sản xuất cấu thành mặt phụ thuộc theo nghĩa lực lượng sản xuất với tư cách là lực lượng sản xuất, tức quan hệ xã hội chiếm lấy tư nhiên, bị quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phủ định, thâu gồm, chuyển hóa thành phương tiện cưỡng đoạt giá trị thặng dư, phương tiện làm tăng giá trị của tư bản. Sự phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa biểu hiện tính đặc trưng trong lĩnh trường của hình thái giá trị qua mâu thuẫn của lao động cần thiết và lao động thặng dư dưới tác động của lao động thặng dư, một khi tư bản giảm thời gian lao động dưới hình thái lao động cần thiết để tăng thời gian lao động dưới hình thái lao động thặng dư: “Vì vậy, và ngày càng tăng thêm, tư bản thiết định lao động thặng dư như là điều kiên - là vấn đề sống còn - của lao động cần thiết”[109]. Thể thống nhất của lao động cần thiết và lao động thặng dư đúng ra mang tính mâu thuẫn theo hai góc độ nhìn, góc độ của tư bản và góc độ phủ định tư bản.

Ở góc độ của tư bản, tức của tư bản tái sản xuất, người ta biết rằng tư bản chỉ chuyển hóa lao động cần thiết thành lao động thặng dư bằng cách khẳng định ngày càng nhiều hơn quyền lực của lao động vật hóa trên lao động sống[110]. Nhưng khi gia tăng lao động vật hóa so với lao động sống, tư bản thu hẹp tương đối cơ sở trên đó nó rút ra lao động thặng dư - mâu thuẫn này, theo Marx, biểu hiện trong tỷ suất lợi nhuận chung có xu hướng giảm, mà hình thái vận động là khủng hoảng của tư bản[111]. Bằng cách thủ tiêu tư bản - hình thức bạo lực làm tư bản mất giá -, những cuộc khủng hoảng phục hồi các điều kiện làm tăng lại giá trị của tư bản, cho phép nó tiếp tục tái sản xuất. Vì vậy, bằng các cuộc khủng hoảng định kỳ, tư bản vượt qua mâu thuẫn của sự phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa. “Mâu thuẫn ấy tất nhiên đưa đến những bùng nổ, những khủng hoảng trong đó sự chấm dứt nhất thời của mọi lao động và sự thủ tiêu của một phần lớn tư bản, đẩy tư bản, bằng bao lực, xuống tới mức mà, ở đó, nó có thể khai thác tối đa các khả năng sản xuất, mà không tự sát”[112]. Nhìn tự góc độ này, các cuộc khủng hoảng biểu hiện thể thống nhất của lực lượng và quan hệ sản xuất dưới tác động của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Mâu thuẫn lao động cần thiết - lao động thặng dư, đặc trưng cho sự phát triển tư bản chủ nghĩa của lực lượng sản xuất, cần được xem xét thêm dưới một quan điểm khác, đối lập nhưng không thể tách khỏi quan điểm ở trên. Marx trình bày điều đó khi nói rằng “bản thân tư bản là một mâu thuẫn đang thực hiện quá trình, mâu thuẫn ấy ở chỗ tư bản một mặt tìm cách giảm thời gian lao động xuống mức tối thiểu, và mặt khác thiết định thời gian lao động như là thước đo duy nhất của của cải và trở thành nguồn của cải. (…) Một mặt, tư bản làm nảy nỡ tất cả sức mạnh của khoa học và giới tư nhiên, cũng như sức mạnh của sự kết hợp và giao tiếp xã hội, nhằm làm cho sự tạo ra của cải trở nên độc lập (tương đối) với thời gian lao động đã chi phí trong sáng tạo của cải. Mặt khác, tư bản muốn đo các sức mạnh xã hội to lớn đã được tạo ra bằng thời gian lao động và gò bó chúng trong phạm vi cần thiết để duy trì giá trị đã được tao ra với tính cách là giá trị”[113]. Điều Marx nêu lên ở đây không phải là sự phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa mâu thuẫn với mục đích có nó, là sự gia tăng giá trị của tư bản; mà sự phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa mâu thuẫn với nền tảng của nó, là hình thái giá trị với tính cách là quan hệ cưỡng chế lao động thặng dư. Vấn đề đề cập ở đây không phải là quá trình tăng thêm - giảm bớt giá trị, làm cho giá trị hiện có gia tăng giá trị, mà là chính sự tồn tại của bản thân giá trị như là hình thái xã hội.

Trên thực tế, với sự phát triển tư bản chủ nghĩa của hệ máy móc, “việc đánh cắp thời gian lao động của kẻ khác - nền tảng của của cải hiện tại - hiện ra như là một cơ sở thảm hại so với cơ sở mới do nền đại công nghiệp tạo ra và phát triển. Một khi lao động dưới hình thức trực tiếp của nó không còn là nguồn chính của của cải, thì thời gian lao động không còn và phải không còn là thước đó của của cải nữa, và do đó giá trị trao đổi không còn là thước đó giá trị sử dụng nữa”. Như vậy, đối với Marx, chính sự phát triển tư bản chủ nghĩa của lực lượng sản xuất tạo ra “những điều kiện vật chất phá vở cơ sở hạn hẹp ấy” là hình thái giá trị, mà tư bản vận dụng để phát triển các lực lượng sản xuất và gò bó chúng[114]. Theo nghĩa đó, sự phát triển lực lương sản xuất dưới chế độ của tư bản có xu thế phủ định và thủ tiêu nền tảng của “sự đánh cướp thời gian lao động của kẻ khác”, tức nền tảng của tư bản. Cần phân biệt xu thế thủ tiêu tư bản này với sự thủ tiêu tư bản trong những khủng hoảng định kỳ. Trong khủng hoảng, sự thủ tiêu tư bản - hình thái bạo lực hạ giảm giá trị của tư bản - diễn ra trong lĩnh trường của hình thái giá trị, và là một phương tiện làm tăng giá trị của tư bản, một hình thái qua đó tư bản tái sản xuất. Trái lại, ở đây, xu thế thủ tiêu tư bản phủ định giá trị như là hình thái xã hội, nó là xu thế “phá vở” hình thái giá trị và, theo nghĩa ấy, nó là sự phủ định tư bản.

Thể thống nhất của lao động cần thiết với lao động thăng dư dưới tác động của lao động thặng dư bị phủ định bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp, trong chừng mực nền đại công nghiệp ngày càng thiết định thể thống nhất của thời gian lao động với thời gian phi lao động, trong đó thời gian phi lao động chi phối thời gian lao động. Thật vậy, khi “con người cá nhân mang tính xã hội” [individu social] trở thành nền tảng phát triển của lực lượng sản xuất, thì “vấn đề không còn là rút ngắn thời gian lao động cần thiết để mở rộng lao động thặng dư, mà nói chung là rút giảm tối đa lao động cần thiết của xã hội (…), nhờ đó các cá nhân có được thời gian rảnh rổi và phương tiện để trau dồi nghệ thuật, khoa học, v.v.”. Nói khác đi, “tiết kiệm thời gian lao động có nghĩa là tăng thời gian rảnh rỗi, tức là thời gian dành cho cá nhân phát triển con người mình đầy đủ - sự phát triển này, đến lược nó, tác động lại và tăng sức sản xuất của lao động. (…) Khi ấy, thước đo của của cải được tạo ra sẽ không còn là thời gian lao động nữa, mà là thời gian rảnh rỗi”[115]. Cần nói rõ là phép phân tích này của Marx về tương quan giữa thời gian lao động và phi-lao động, không liên quan gì đến phân tích lao động “trong quan điểm tâm lý học, theo sự thích thú và phản thích thú [plaisir et déplaisir] mà lao động mang lại cho cá nhân”[116]: tác giả Tư bản phê phán quan điểm của Smith cho rằng lý luận về giá trị-lao động xuất phát từ chỗ mỗi cá nhân “hy sinh” thời gian rảnh rỗi của nó, rằng lao động mang tính phản hữu dụng [désutilité] đối với người lao động[117]; Marx cũng phê phán những tác giả theo chủ nghĩa xã hội và tưởng rằng, ra ngoài chủ nghĩa tư bản thì lao động trở thành “một trò chơi” và đồng hóa hoàn toàn với một “thời gian tự do”[118].

II. Nói đúng ra, Marx cho rằng, “bản thân thời gian lao động trực tiếp không thể chỉ đối lập trừu tượng với thời gian tự do, như là trong kinh tế học tư sản”. Sự phát triển của thời gian lao động thặng dư ở giai cấp công nhân đã cho phép phát triễn thời gian không lao động bên trong xã hội tư sản, nhưng đó là thời gian không lao động của chỉ giai cấp tư bản mà thôi. Ngày nào những người lao động chiếm hữu lại được lao động thặng dư của họ thì “thời gian tự do - dành cho cả giải trí lẫn những sinh hoạt cao cấp - sẽ chuyển đổi cá nhân được tận hưởng nó thành một cá nhân khác, và chính con người biến đổi ấy sẽ xuất hiện trong quá trình sản xuất trực tiếp”. Qua phân tích này của Marx, người ta có thể hiểu rằng xã hội tư sản triển khai “sự tự Phủ định của chính nó”; rằng mâu thuẫn giữa lao động cần thiết với lao động thặng dư dưới tác động của lao động thặng dư tạo ra sự phủ định của nó, sự thống nhất của thời gian lao động và thời gian phi lao động dưới tác động của thời gian phi lao động[119]. Trong Bản thảo 1857-1858, văn bản nổi tiếng về “Tư bản cố định và sự phát triển lực lượng sản xuất” phải được đọc theo nghĩa ấy: không phải như là một văn bản qua đó Marx tưởng tượng - như các tác giả chủ xướng chủ nghĩa xã hội - một xã hội cộng sản tương lai; mà đó là văn bản phân tích mâu thuẫn của quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa của các lực lượng sản xuất, và nó thiết định chủ nghĩa cộng sản như một xu thế của chủ nghĩa tư bản[120]. Bởi “nếu trong xã hội này, ở trang thái hiện hữu của nó, chúng ta không tìm thấy ẩn kín những điều kiện vật chất về sản xuất của một xã hội không có giai cấp với những quan hệ giao tiếp tương ứng của nó, thì tất cả tính toán làm nổ tung xã hội hiện hữu chỉ là việc làm Don Quijote”[121]. Phải nói rõ thêm, để tránh cách đọc duy cơ giới [mécaniste], rằng các điều kiện Marx nêu lên ở ở đây là những điều kiện cần thiết để có chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là những điều kiên làm cho chủ nghĩa cộng sản trở nên cần thiết. Bởi không có sự liên tục [continuité] giữa các điều kiện tạo khả năng [possibilité] của chủ nghĩa cộng sản, và các điều kiện khiến nó thành hiện thực [effectivité]. Để chuyển từ điều kiện thứ nhất sang điều kiện thứ hai thì, theo Marx, cần “một hành động cộng sản hiện thực”, tức một cuộc cách mạng chính trị.[122]

Chúng ta có thể chấp nhận với E. Balibar rằng khái niệm mácxít về tính mâu thuẫn giữa phát triển lực sản xuất và bản chất quan hệ sản xuất chỉ ra “sự phát triển có tính mâu thuẫn của các lực lượng sản xuất dưới tác động của mối quan hệ sản xuất mà lực lượng sản xuất ấy hiện thực hóa trong lịch sử”[123]; nhưng với điều kiện làm rõ tính mâu thuẫn của sự phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa không đơn thuần chỉ ra hiệu ứng mâu thuẫn của sự phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lĩnh trường của hình thái giá trị - hay nói cách khác, không đơn thuần chỉ xu thế giảm của tỷ suất lợi nhuận chung và những khủng hoảng định kỳ của quá trình sản xuất tư bản[124]. Theo Marx, tính chất mâu thuẫn của các lực lượng sản xuất do tư bản phát triển, quy chiếu đến hai mặt của nó, mặt tái sản xuất tư bản và mặt phủ định nó. “Tôi trình bày đại công nghiệp như là mẹ đẻ của sự đối kháng, nhưng cũng là người tạo các điều kiện vật chất và tinh thần cần thiết để đối kháng này có giải pháp, giải pháp đó rõ ràng không thể diễn ra một cách êm thấm”[125]

§ 622 - Tính đối kháng và phi-đối kháng của mâu thuẫn tư bản

Cũng như mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa quy chiếu đến tính hai mặt của lực lượng sản xuất do tư bản phát triển, người ta có thể nói rằng: mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng với giá trị của hàng hóa quy chiếu đến tinh hai mặt vật có ích-giá trị sử dụng trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa[126]; còn mâu thuấn giữa con người cá thể với quan hệ xã hội hàng hóa, thì quy chiếu đến tính hai mặt con người cá thể-chủ thể trong xã hội tư sản. Một cách xác đáng, Alain Lipietz đã vạch rõ điều này, không chỉ khi tác giả luận bàn về tính hai mặt của các lực lượng sản xuất, mà còn bàn về:

- tính hai mặt của các nhu cầu (một mặt là nhu cầu của người lao động trong tái sản xuất tư bản chủ nghĩa; mặt khác là nhu cầu của người lao động khẳng định tính độc lập đối với tư bản).

- tính hai mặt của giai cấp công nhân (một mặt là giai cấp đấu tranh để tái sinh trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa; mặt khác là giai cấp đấu tranh nhằm giải thoát khỏi mối quan hệ buộc nó vào giai cấp tư sản).

- tính hai mặt của khủng hoảng (một mặt là khủng hoảng tái lập những điều bình thường của tái sản xuất tư bản; mặt khác là khủng hoảng tạo điều kiện cho sự trồi dậy của hình thái xã hội mới)[127].

Phân biệt tính hai mặt không có nghĩa là có thể tách rời hai mặt, bởi trong đấu tranh giai cấp, các mặt ấy luôn xen lẫn nhau. Tuy vậy, khái niệm hóa mỗi mặt là thiết yếu, để “không thể đơn giản đồng nhất hóa khía cạnh phụ thuộc, bị trị trong mâu thuẫn với cuộc đấu tranh đấu tranh nhằm phá vỡ mâu thuẫn ấy”. Khía cạnh đầu thuộc về mâu thuẫn tái sản xuất [contradiction de reproduction], còn khía cạnh sau thuộc về mâu thuẩn đoạn tuyệt [contradiction de rupture][128]. Đối với Marx, đấy là khía cạnh kép của mâu thuẫn tư bản.

I. Trong những tác phẩm của Marx, hai khía cạnh ấy của mâu thuẫn không được xây dựng cùng lúc: khía cạnh phủ định tư bản xuất hiện đầu tiên từ những văn bản thời Marx trẻ với sự khẳng định có tính triết học của chủ nghĩa cộng sản; trong khi khía cạnh tái sản xuất tư bản chỉ được vạch ra sau đó với phép phân tích khoa học của công trình Tư bản. Đi từ các bản thảo 1843-1844 cho đến Gia đình thần thánh, Marx trẻ bảo vệ luận điểm về cách mạng cộng sản như là sự phế phán phân tích về mâu thuẫn của Hegel. Khởi điểm của Marx khi ấy là công nhận công lao của Hegel đã triển khai một phép phân tích xã hội tư sản bằng cách tiếp cận mâu thuẫn. “Chúng tôi công nhận sự sâu sắc của Hegel ở chỗ, bất cứ ở đâu ông cũng xuất phát từ sự đối lập của những tính quy định (như chúng đang tồn tại trong các quốc gia của chúng ta) và nhấn mạnh sự đối lập đó (…); điều sâu sắc hơn ở Hegel là ông coi sự tách rời xã hội dân sự tư sản với xã hội chính trị là một mâu thuẫn” - Marx viết trong Phê phán triết học pháp quyền của Hegel, 1843[129]. Và, trong Bản thảo 1844: “Sự vĩ đại của Hiện tượng học của Hegel và của kết quả cuối cùng của nó - phép biện chứng của tính phủ định như là nguyên lý thúc đẩy và sản sinh - là ở chỗ Hegel xem xét sự tư sản sinh của con người như là một quá trình, xem xét sự vật hóa như phi vật hóa đối tượng, như là sự tha hóa và sự tước bỏ tha hóa ấy”[130]. Song thiếu sót cơ bản của phép biện chứng về tính phủ định này là nó chỉ nắm bắt các mâu thuẫn hiện thực của xã hội tư sản như mâu thuẫn trong ý tưởng, dẫn đến những sự vượt bỏ hoàn toàn ảo tưởng. “Sai lầm chính của Hegel ở chỗ ông hiểu mâu thuẫn của hiện tượng là sự thống nhất trong bản chất, trong ý niệm, kỳ thực bản chất của mâu thuẫn ấy là một cái gì đó sâu sắc hơn, là mâu thuẫn bản chất”[131].

Trọng tâm phê phán của Marx trẻ là vai trò, trong lập luận Hegel, của sự phủ định cái phủ định và những phạm trù về vượt bỏ [dépassement] và về trung giới [médiation]. “Đó là một vai trò đặc biệt của sự vượt bỏ, trong đó phủ định và bảo lưu kết hợp với nhau”, khiến cho “xóa bỏ sự tha hóa trở thành xác nhận sự tha hóa”[132]. Trong biện chứng của Hegel, sự phủ định cái phủ định mang đặc điểm là “sự tự ý thức [conscience de soi] vừa xóa bỏ, vừa hấp thụ trở lại vào mình sự tha hóa và tính khách thể ấy, và nó ở trong thực thể khác của nó như ở trong bản thân nó”. Cho nên con người tự ý thức, đã thừa nhận sự tha hóa của mình trong thế giới mình đang sống, “khẳng định thế giới này dưới hình thái tha hóa đó, coi thế giới này là tồn tại thực của nó, khôi phục nó, cho rằng con người vẫn ở trong bản thân mình trong sự tồn tại khác của mình”. Hay nói cách khác, “khi con người đã hiểu rằng trong pháp luật, trong chính trị v.v., nó sống một cuộc sống bị tha hóa, thì nó sẽ sống cuộc đời chân chính của con người trong cuộc sống tha hóa”[133]. Theo nghĩa ấy, sự phủ định cái phủ định cuối cùng là sự xóa bỏ tính khách thể: “Chiếm hữu lại bản chất khách thể của con người - bản chất sản sinh ra như là cái gì xa lạ dưới phạm trù tha hóa - không chỉ có nghĩa là xóa bỏ sự tha hóa mà cũng có nghĩa là xóa bỏ tính khách thể” - theo Bản thảo 1844[134]. Tóm lại, phạm trù về vượt bỏ có vai trò chính xác là duy trì tình trạng sự vật hiện hành bằng cách biến nó thành một thời điểm nhất thiết được bảo lưu trong sự vượt bỏ: “Sự vượt bỏ ấy là một sư vượt bỏ thực thể trong tư duy, […] một sự vượt bỏ bằng tư duy thật ra không hề đụng chạm đến đối tượng của nó”. Đây chính là gốc rễ của “chủ nghĩa thực chứng giả hiệu” của Hegel, và “chủ nghĩa phế phán chỉ tưởng tượng” của ông”[135]. Hoặc, theo văn bản 1845 Gia đình thần thánh, đó chỉ là thánh hóa hình thái qua đó chủ nghĩa tư bản - mà người ta nói vượt bỏ - tái sản xuất những mâu thuẫn của nó: “Trong Hiện tượng học của Hegel, những cơ sở vật chất, cảm tính, khách quan của các hình thái tha hoá khác nhau của tự ý thức loài người vẫn đứng vững, và kết quả của tất cả công trình phá hủy ấy là một thứ triết học bảo thủ nhất, vì nó tưởng rằng đã xong với thế giới vật thể, thế giới của hiện thực cảm tính, một khi nó đã biến hóa thế giới ấy thành một đối tượng tư duy, thành một tính quy định thuần túy của tự ý thức, và do đó có thể hòa tan kẻ thù đã ether hóa trong ‘ether của tư duy thuần túy’” [136].

Còn đáng chú ý hơn nữa là sự phê phán phạm trù về trung giới [médiation] mà Marx triển khai trong Phế phán triết học pháp quyền của Hegel. Trung giới của hai mặt đối lập - khiến chúng chuyển hóa lẫn nhau, và hiện thân [incarner] bản sắc trong một thuật ngữ thứ ba - là “mâu thuẫn được che đậy” [contradiction étouffée], như Marx viết: “Cái đứng giữa là thứ sắt bằng gỗ” [le médian est le fer de bois][136]. Do xuất phát từ “một tính đối lập không hiện thực” mà Hegel đi đến “một tính đồng nhất tưởng tượng”[137], bởi nếu được tư duy hiện thực thì tính đối lập chỉ có thể là “một mâu thuẫn không thể hóa giải” [contradiction irréconciliable][138]. Thật vậy, “các cực thật sự không thể có trung giới chính vì chúng là những cực. Các cực không cần đến trung giới vì về bản chất chúng đối lập nhau. Chúng không có gì chung với nhau, không thu hút nhau, không bổ sung lẫn nhau. Một cực không mang trong bản thân nó sự nuối tiếc đối với cực kia, nhu cầu về cực kia, sự dự đoán cực kia”. Tóm lại, đối với Hegel, “tính chất cả quyết của những mặt đối lập hiện thực, sự chuyển hóa của các mặt đối lập ấy thành những cực, được coi như là một cái gì có hại mà người ta phải hết sức ngăn chặn, trong lúc sự chuyển hóa này chẳng qua chỉ là sự tự nhận thức các mặt đối lập ấy và cũng là sự bật sáng của quyết định đấu tranh”[139]. Đối với Marx, cuộc cách mạng cộng sản không hề thuộc các phạm trù về trung giới và về vượt bỏ qua đó Hegel tư duy sự phủ định cái phủ định.

Nền tảng phế phán chủ nghĩa duy tâm này của biện chửng pháp Hegel - mà Marx đề cập đến ba mươi năm sau trong Lời bạt 1873 của Tư bản - không gì khác ngoài việc khẳng định tính đối kháng trong mâu thuẫn[140]. Hẳn là phê phán này đã được Marx trẻ tiến hành trong những thuật ngữ triết học của chủ nghĩa nhân văn Feurbach. Ở đó chủ nghĩa cộng sản được định nghĩa như là “sự chiếm hữu hiện thực của bản chất con người bởi con người và vì con người; tức con người trở lại hoàn toàn chính mình với tính cách là con người xã hội, nghĩa là tính chất người”[141]. Cũng như cách mạng mang tính chất nghĩa vụ đạo dức, bó buộc chúng ta bãi bỏ những điều không thể chấp nhận được vì vô nhân: “Một cuộc cách mạng triệt để chỉ có thể là cuộc cách mạng của những nhu cầu triệt để”, mà “triệt để có nghĩa là xét xử sự vật đến tận gốc rễ của nó. Nhưng gốc rễ đối với con người, chính là bản thân con người”[142]. Chúng ta biết rằng, từ Hê tư tưởng Đức 1846 trở đi, sự chuyển hóa cách đặt vấn đề của Marx đưa đến định nghĩa lại tính đối kháng trong mâu thuẫn với những thuật ngữ về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất xã hội và đấu tranh giai cấp.

II. Với công trình về Tư bản, Marx, sau đó, vạch ra tính hai mặt của sự phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa: mặt tái sản xuất tư bản và mặt phủ định nó. Song, một khi người đọc Marx dừng lại ở sự khẳng định tính đối kháng của mâu thuẫn trong các tác phẩm 1843-1844, cũng như một khi người ta không phân biệt tính hai mặt của mâu thuẫn trong các công trình về Tư bản, thì sự triển khai phép phân tích mâu thuẫn của tác giả Tư bản có thể xuất hiện như một sự trở về lại Hegel của Marx.

Đó là trường hợp của cách diễn giải mà Gilbert Faccarello đề xuất, theo đó phép phân tích mâu thuẫn của Marx có quan hệ tương phản kép [double rapport antinomique] với biện chứng pháp Hegel. Ở một bên, trong các văn bản thời trẻ, Marx lật đổ phép biện chứng mà Hegel tiến hành qua những sự trừu tượng hóa phi xác định [abstractions indéterminées], đưa mọi thứ về những khái niệm mang tính loài [concepts génériques], xóa nhòa những khác biệt đặc thù của các hiện tượng hiện thực. Ở bên kia, trong các công trình về Tư bản, Marx vay mượn phương pháp biện chứng của Hegel làm phương pháp trình bày khái niệm, những khái niệm này nối kết với nhau theo cách suy diễn mọi khái niệm đi từ một mâu thuẫn cơ bản, là mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa. Theo Faccarello, các bản thảo 1843-44 chỉ trích biện chứng pháp Hegel đã “thay thể đối lấp hiện thực bằng mâu thuẫn lô-gích”, trong khi đối lập hiện thực là đối lập giữa những cực không thể hóa giải, là “đối lập-loại trừ” [opposition-exclusion], “đối lập không mâu thuẫn” [opposition sans contradiction]. Cho nên khi phép trình bày của Tư bản tái hiện lại mâu thuẫn lô-gích, là đối lập của các cực chuyển hóa lẫn nhau và hiện thân trong một khâu trung giới, là “đối lập-bao hàm” [opposition-inclusion], “đối lập qua mâu thuẫn” [opposition par contradiction] thì, đối với Faccarello, đó là “một sự quay về lại Hegel một cách ngấm ngầm”[143]. Đáng lẽ ra thì lật đổ Hegel phải đưa Marx đến phát hiện nguyên lý về phi mâu thuẫn của Kant. Chí ít, ấy là luận điểm mà Faccarello bảo vệ, nối tiếp quan điểm của các tác giả Galvano Della Volpe et Lucio Colletti cho rằng thể đối lập ở Marx không có tính mâu thuẫn[144].

Đúng ra, đằng sau sự phân biệt không mấy thích đáng giữa đối lập không mâu thuẫn và đối lập qua mâu thuẫn, xuất hiện một câu hỏi thực sự về mối tương quan giữa đối kháng và phi đối kháng trong mâu thuẫn. Liệu rằng tính đối kháng có loại trừ tính phi đối kháng khỏi mâu thuẫn hay không? Phải hiểu thế nào cái gọi là “trở về lại phép biện chứng Hegel” của Marx trong bộ Tư bản? Vấn đề được Lucien Sève làm sáng tỏ trong những văn bản mà chúng ta có thể quy chiếu đến các yếu tố phân tích như sau[145]. Trước hết phải xác định loại hình phê phán mà Marx triển khai trong các tác phẩm thời trẻ để chống lại biện chứng pháp Hegel. Nội dung của chỉ trích này, như chúng ta đã thấy, là phản biện sự đồng nhất hóa hiện thực - ý tưởng, phán bác tính bảo lưu của sự phủ định cái của phủ định trong mâu thuẫn ý tưởng, và do đó làm sáng tỏ tính đối kháng trong mâu thuẫn hiện thực. Điều người ta thường gọi là “sự lật ngược duy vật” của biện chứng pháp Hegel được gắn liền sự với khẳng định tính đối kháng trong mâu thuẫn, điều ấy dẫn đến đồng nhất hóa ngược lại tính phi đối kháng trong mâu thuẫn với chủ nghĩa duy tâm của Hegel. Từ đó có sự nhầm lẫn của các tác giả dựa vào các văn bản 1843-1844 mà cho rằng tính đối kháng trong mâu thuẫn chỉ có thể là phàm trù tư biện đối với Marx. Bởi ngay từ những năm 1850, công trình nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những mâu thuẫn của nó, đã dẫn Marx đến phân tích sự tái sản xuất của tư bản, và phát hiện lại vấn đề của tính phi đối kháng trong mâu thuẫn, đặc biệt là sự tiếp thu duy vật [reprise matérialiste] của những hình tượng trong biện chứng pháp Hegel: chẳng hạn hình tượng “trung giới” như là thể đồng nhất của các mặt đối lập (phân tích tiền tệ như hình thái của giá trị, phân tích tư bản cố định như hình thái của thâu gồm hiện thực…); hay hình tượng “vươt bỏ” như là hình thái vận động của mâu thuẫn, trong đó mâu thuẫn chỉ được vượt qua một khi nó được tái sản xuất ở một cấp độ khác (phân tích về quá trình lưu thông của hàng hóa, phân tích về quá trình tuần hoàn của tư bản…)[146].

Chỉ từ các công trình về Tư bản, người ta mới có thể nói đến tính hai mặt của mâu thuẫn của tư bản trong lý luận của Marx: mặt phủ định tư bản (tính đối kháng) và mặt tái sản xuất tư bản (tính phi-đối kháng). Không phân biệt tính hai mặt này của mâu thuẫn chính là nguồn gốc các chỉ trích của Della Volpe, Colletti và Faccarello đối với phạm trù mâu thuẫn, bị cho là không tương hợp với với chủ nghĩa duy vật và lô-gích khoa học. Vì vậy, điều mà một cách không xác đáng người ta gọi là sự quay về lại Hegel của Marx, thật ra là một sự trở lại hay chính xác hơn một sự tiếp thu duy vật của phạm trù về phi-đối kháng trong mâu thuẫn hiện thực. Và cái mà người ta từng cho là một sự sa ngã lại của Marx trong biện chứng pháp Hegel thật ra là một sự phát triển của phép phân tích duy vật về mâu thuẫn, một bước mới trong sự lật đổ duy vật của biện chứng pháp Hegel, “một sư lật đổ chưa hoàn thành khi nào chúng ta còn bỏ mặc cho chủ nghĩa duy tâm phạm trù về phi đối kháng, coi như là không thể thu hồi được”[147].

III. Tuy nhiên, với một nghich lý chỉ là bề ngoài, Etienne Balibar - tác giả đã chăm chú khảo sát khái niệm về tái sản xuất trong công trình Tư bản - dường như phủ nhận rằng những mâu thuẫn của tư bản không thể mang tính khác hơn là đối kháng. Balibar thừa nhận rằng vấn đề không hề đơn giản, bởi lập luận mácxit, một mặt, “phân biệt mâu thuẫn với đối kháng”, nhưng mặt khác “ghi nhận tính đối kháng trong chính định nghĩa của mâu thuẫn, (…) khi nêu lên tính không thể hòa giải như là nét cơ bản của quan niệm duy vật về mâu thuẫn”. Vì vậy, chỉ có một quan điểm siêu hình mới nói rằng, “về bản chất có mâu thuẫn mang tính đối kháng, và mâu thuẫn khác mang tính phi đối kháng”; hoặc rằng cùng một mâu thuận “đôi khi biểu hiện là đối kháng, đôi khi thì không đối kháng”. Quan diểm của Balibar là, xét cho cùng, bởi vì “học thuyết Marx bao giờ cũng nghiên cứu mâu thuẫn dưới hình thái đặc thù của sự đối kháng giai cấp và những hiệu ứng của nó trên toàn bộ thực tiễn xã hội”, cho nên giới hạn vị trí của đối kháng trong phân tích mâu thuẫn là điều vô ích. Nghiên cứu sự đối kháng như là mâu thuẫn không hề có nghĩa là “tư duy sự đối kháng dưới một khái niệm tổng quát hơn là khái niệm về mau thuẫn”. Trái lại, đó là nắm bắt trong mâu thuẫn hình thái cụ thể mà tính phổ quát của sự đối kháng đạt đến tính vật chất: là nhận dạng “chuổi của những mâu thuẫn có tính thống trị không đồng đều trong đó sự đối kháng hiện hữu vật chất”[148]. Nói cách khác, khái niệm về mâu thuẫn ở đây lẫn lộn với khái niệm về đối kháng, mà nó chỉ là hình thái biểu hiện cụ thể.

Căn cứ trên những gì đã nói, chúng ta thấy rằng cách trình bày của Balibar mang tính đơn chiều, nên gây tranh cãi. Điều hoàn toàn chính xác là không có hai loại mâu thuẫn, một loại có tính đối kháng và một loại phi đối kháng; cũng như không có mâu thuẫn nào từ đối kháng chuyển thành phi đối kháng, và ngược lại, tùy theo hoàn cảnh. Quy chiếu đến các phân tích của Tư bản, chúng tôi sẽ nói rằng các mâu thuẫn của tư bản xuất hiện đồng thới dưới hai khía cạnh: mọi mâu thuẫn của tư bản đều thuộc về sự phi đối kháng vì nó tái sản xuất tư bản, và nó thuộc về sự đối kháng vì nó phủ định tư bản[149]. Cần nói rõ thêm rằng, qua tính phi đối kháng, chúng ta hiểu sự thâu gồm của một bên mâu thuẫn vào bên kia, thâu gồm dường như hoàn toàn và dứt khoát; trong khi tính đối kháng liên quan đến sự bất khả quy và bất trắc của sự thâu gồm bên này vào bên kia. Bàn về sự thâu gồm lao động vào tư bản và sự sùng bái tư bản, Marx chỉ ra trong Chương VI chưa công bố: “Người công nhân tuy nhiên vương lên trên nhà tư bản đang chìm đắm trong quá trình tha hóa, ở đó hắn tìm thấy thỏa mãn tuyệt đối; trong khi người công nhân, với tư cách là nạn nhân, ngay từ đầu ở vào trạng thái nổi dậy chóng lại một sự tha hóa mà nó cảm nhân như là nô lệ”[150].

§ 623 - Sức lao động như là khái niệm đặc thù của người lao động tự do

Vấn đề đặt ra cho chúng ta bây giờ là tìm hiểu điều gì tạo nên tính chất kép của lực lượng sản xuất, của đấu tranh giai cấp và nói chung của khách thể và chủ thể, khi chúng bị thâu gồm vào tư bản, tức là khi chúng trở thành vật mang quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Câu trả lời, theo chúng tôi, có thể thể tìm thấy trong sự tồn tại của sức lao động như là khái niệm. Sức lao động không chỉ là một khái niệm đặc thù của học thuyết Marx so với kinh tế chính trị học, vốn không phân biệt lao động với sức lao động. Sức lao động còn là một khái niệm đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chu nghĩa so với các hình thái sản xuất xã hội khác, vốn không tách biệt người lao động với sức lao động.

I. Vấn đề này đã xuất hiện khi chúng ta xác định cương vị kép bên ngoài - bên trong của sức lao động đối với tư bản. Một mặt, sức lao động ở bên ngoài tư bản, vì tái sản xuất nó không phải là sản xuất giá trị, càng không phải là sản xuất giá trị thăng dư: tái sản xuất sức lao động không phải là tái sản xuất một hàng hóa, bởi người lao động tái sản xuất bản thân trong một quá trình mang tính chất nội trợ [procès domestique][151]. Măt khác, không thể tái sản xuất quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa nếu không nội hiện hóa [intériorisation] tái sản xuất sức lao động trong chu kỳ của tư bản: người lao động phải tái sản xuất bản thân với những hàng hóa là sản phẩm của tư bản, và sự tái sản xuất mang tính hàng hóa này chính là điều kiện thâu gồm hình thức của lao động vào tư bản[152].

Tuy nhiên, nhà tư bản không thể kiểm soát việc tái sản xuất sức lao động, vốn diễn ra ở bên ngoài quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ất là trong quá trình tái sản xuất sức lao động có tính nội trợ ấy, người lao động một phần nào bị ràng buộc bởi phương thức tiêu dung hàng hóa do tư bản tạo nên đồng thời với hàng hóa. Kiểm soát quá trình nội trợ ấy còn đòi hỏi tư bản phải hành động ở ngoài lĩnh trường của hàng hóa, qua những hình thái có tính thể chế - cụ thế là thông qua nhà nước với các hệ thống về giáo dục, y tế, nhà ở, v.v. -, tạo nên những chuẩn mực hành xử sao cho người lao động không ngừng tái sản xuất bản thân với tính cách là người bán sức lao động thích ứng với yêu cầu làm tăng giá trị của tư bản[153].

Song, sự kiểm soát này không bao giờ có thể hoàn toàn và tìm thấy giới hạn của nó trong chính bản chất mối quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, vốn giả định ở người lao động làm thuê một chủ thể “tự do” và “có trách nhiệm” trong việc tái sản xuất sức lao động của mình. Trong Chương 6 chưa công bố của Tư bản, người ta đọc rằng “người lao động làm thuê khác với nô lệ ở chỗ họ có “ý thức (hay đúng hơn ý tướng) rằng họ là những con người tự định đoạt, là người “tự do”, cũng như họ cảm nhân (có tinh thần) trách nhiệm gắn liến với ý thức đó; điều ấy khiến người lao động làm thuê trở thành một người lao động tốt hơn nhiều, bởi như bất kỳ người bán hàng nào, người lao động làm thuê chịu trách nhiệm về hàng hóa mình cung cấp và phải đảm bảo một chất lượng nhất định, nếu không sẽ bị các người bán hàng tương tự loại bỏ”. Sự khác biệt đó còn biểu hiện ở chỗ người nô lệ nhận các tư liệu sinh họat bằng hiện vật, dưới dạng giá trị sử dụng, trong khi người lao động làm thuê nhận tư liệu ấy bằng tiền: “Chính người công nhân chuyển hóa tiền của mình thành giá trị sử dụng, thành hàng hóa mà họ chọn: (…) người công nhân tự chịu trách nhiệm về cách họ chi tiêu tiền lương của mình”[154]. Vì vậy, nếu tư bản kiểm soát tuyệt đối tái sản xuất của người lao động thì có nghĩa là phụ định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và quay trở lại chế độ nô lệ.

II. Vả chăng, khái niệm về sức lao động xuất hiện trong trình bày của Tư bản cùng với hình tượng của “người lao động tự do” khác biệt với người nô lệ. Người lao động làm thuê là người lao động tự do theo hai nghĩa khác nhau: 1) Người lao động làm thuê có quyền quyết định trên bản thân, nên là chủ sở hữu sức lao động của mình; với tính cách đó, trong quan hệ làm thuế họ là một pháp nhân tự do và bình đẳng với người chủ tiền. 2) Người lao động làm thuê bị tách ra khỏi những điều kiện lao động, nên không thể tự sản xuất hàng hóa để bán; để có tiền mua tư liệu sinh hoạt, họ buộc phải chuyển hóa sức lao động của mình thành một hàng hóa giả tưởng. Đó là khía cạnh kép xác định hình thức và nội dung của lao động làm thuê mà, trong Bản thảo 1857-1858, Marx còn gọi là “lao động tự do”: hai khía cạnh ấy đối lập nhau nhưng không thể tách rời nhau, và thực tế của sự cưỡng chế lao động làm thuê không hề xóa bỏ tính tự do và bình đẳng hình thức của người làm công. Bởi điều ấy được ghi khắc trong hình thái hàng hóa của sức lao động, tức là trong quan hệ trao đổi sức lao động với tiền tệ: “Hệ thống tiền tệ thực ra là hệ thống bình đẳng và tự do”[155]. Marx chỉ rõ rằng tự do và bình đẳng của quan hệ hàng hóa “trực tiếp đối lập với tự do và bình đẳng thời cổ đại, mà nền tảng không phải là giá trị trao đổi đã phát triển; trái lại, chính sự phát triển của giá trị trao đổi đã tống khứ tự do và bình đẳng của thời cổ đại”. Đó là vì nền tảng của phương thức sản xuất cổ đại không phải là lao động tự do mà là “lao động cưỡng bức”[156].

Tất nhiên, hành vi mua-bán sức lao động chỉ là mua bán một hàng hóa giả tưởng: người lao động bán sức lao động của mình vẫn gắn chặt về thể chất với nó, và điều mà người lao động bán cho nhà tư bản thực chất là sự phục tùng của cá nhân mình trong quá trình lao đồng, nên bình đẳng và tự do trong quan hệ hàng hóa che khuất ở đây bản chất của quan hệ làm công là “bất bình đẳng và mất tự do”[157]. Tuy vậy, các Bản thảo 1857-1858 nhấn mạnh rằng người làm công vẫn hành xử “với tính cách là chủ thể”, “như người độc lập” đối với chủ tư bản. Theo Marx, người ta thường quên rằng người làm công “được thiết định chính thức như là một cá nhân, rằng ở ngoài lao động, họ còn là một cái gì đó cho chính mình”[158]. Tức là ngoài mối quan hệ với tư bản với tính cách là giai cấp, người làm công “với tư cách là cá nhân thể hiện mình như một người độc lập” và “có được một lĩnh trường to lớn để chọn lựa tùy ý, và như thế có được tự do hình thức”[159]. Chính điều này khiến người lao động làm thuê - khác với người lao động trong các hình thái sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa - có cương vị của người lao động tự do. Nó thể hiện qua sự tự do của người làm công trong chi tiêu tiền lương, tức trong quá trình tái sản xuất bản thân, đặc biệt là “dự phần của họ vào hoạt động văn hóa, và điều này phân biệt họ với người nô lệ”. Bởi một khi tiền lương của họ được mở rộng, người làm công tiếp cận “những hưởng thụ cấp cao, kể cả trên lĩnh vực tinh thần, như là: tuyên truyền cho lợi ích của mình, xuất bản báo chí, tham gia lớp đào tạo, giáo dục con cái, phát triển thị hiếu v.v.”[160]. Trong tự do hình thức của người lao động làm thuê còn có “quyền chọn lựa người chủ tư bản mà họ bán sức lao động và quyền thay đổi chủ”. Thậm chí, có cả quyền – chí ít trên lý thuyết - trở thành chủ, bởi “trên lý thuyết, công nhân vẫn có thể trở nên nhà tư bản, trở thành kẻ bóc lột lao động của người khác”[161].

Nói chung, khác với nô lệ hay nông nô, người lao động làm thuê hành xử như một chủ thể: “Đối với người lao động tự do, sức lao động thể hiện toàn bộ như là tài sản của họ, như là một nhân tố họ nắm giữ với tính cách là chủ thể, và gìn giữ bằng cách chuyển nhượng”[162]. Cương vị chủ thể pháp lý này và tự do hình thức của họ “khiến hoạt động của người lao động tự do mang tính chuyên sâu hơn, liên tục hơn, linh hoạt hơn và khéo léo hơn so với hoạt động của nô lệ, chưa kể là những điều kiện ấy cho phép họ có một hành động lịch sử khác hẳn” người nô lệ - Marx nhấn mạnh trong Chương 6 chưa công bố[163]. Nói khác đi, “tự do hình thức” của người lao động làm thuê khiến họ đáp ứng hơn những yếu cầu về tái sản xuất của tư bản, đồng thời nó tạo ở bản thân người lao động tiềm năng vượt bỏ phương thức sản xuât tư bản chủ nghĩa[164].

III. Nói đến tự do hình thức không có nghĩa rằng nó không tồn tại hay nó không có thực tế. Tự do có tồn tại song với tính cách hình thức, hay nói cách khác, nó có thể che khuất một nội dung khác hẳn. Trong trường hợp này, tự do hình thức của người lao động làm thuê che giấu sự phụ thuộc thực sự của người lao động vào giai cấp tư bản. Vì vậy mà Marx kết thúc văn bản về mua - bán sức lạo động ở Quyển I Tư bản bằng sự phê phán những ảo tưởng mà các “quyền tự nhiên của con người” - Tự do, Bình Đẳng, Sở hữu - tạo nên[165]. Thường được đề cao, văn bản này không đề cập đến sự thay đổi quan điểm và cách đặt vấn đề của Marx giữa các tác phẩm thời trẻ và Tư bản. Trong tác phẩm 1844 Về vấn đề Do Thái và xuất phát từ sự tách biệt giữa xa hội dân sư tư sản và nhà nước, Marx trẻ xác lập sự phân đôi pháp luật giữa “quyền con người” và “quyền công dân”. Các quyền con người là quyền của cá nhân với tính cách là “thành viên xã hội dân sự”, tức là tính cách sở hữu chủ tư: “đó là quyền của lợi ích cá nhân”, là pháp luật tư. Phải phân biệt chúng với các quyền công dân, tức là của cá nhân với tính cách là thành viên nhà nước: đó là “các quyền chính trị mà một cá nhân chỉ có thể thực hành khi liên kết với cá nhân khác” và “thuộc phạm trù của tự do chính trị”. Trong văn bản thời trẻ này, Marx cho rằng chỉ có các quyền con người, tương ứng với con người bị tha hóa, là hiện thực. Còn các quyền công dân, tương ứng với con người đích thưc, thì là hư cấu: ở đây quyền chính trị chỉ là “phương tiện để gìn giữ cái gọi là quyền con người”[166]. Về sau, trong những văn bản thời trưởng thành, Marx không còn gắn kết tính hình thức của của các quyền công dân một cách có hệ thống với hệ tư tương về các quyền người. Hơn thế, niều phân tích của Tư bản đã cho chúng ta thấy rằng việc mở rồng những quyền chính trị của người lao động đã cho phép hạn chế các quyền tư nhân của nhà tư bản cá thể: đặc biết trong việc xác lập ngày lao động chuẩn[167], việc luật hóa quyền thành lập hội và đình công[168], hay việc quy định tiền lương tối thiểu[169]. Đúng ra, sự thực thị tự do hợp đồng làm thuê giả định sự tồn tại hình thức của các quyền chính trị. Cho nên việc quy định các chuẩn mực xã hội về sử dụng và tái sản xuất sức lao động luôn dựa trên cơ sở của một mối quan hệ đối cực giữa hợp đồng lao động và pháp luật lao động.

Như vậy, cương vị “tự do” và “bình đẳng” của người lao động làm thuê được ghi khắc không những trong luật tư về hợp đồng thương mại, mua bán hàng hóa, mà cả trong luật chính trị về hiến pháp dân chủ, về nhà nước pháp quyền công dân. Do đó, sự tự do hình thức của người lao động làm thuê không chỉ liên quan đến mối quan hệ hợp đồng của người lao động với cá nhân nhà tư bản - như Bản thảo 1857-1858 đề cập -, mà còn liên quan đến mối quan hệ của họ với giai cấp tư bản thông qua các luật. Thật vậy, Marx xác định tính đặc thù của chủ nghĩa tư bản như là xã hội có giai cấp, một mặt qua hình thái có tính hàng hóa của quan hệ bóc lột người làm công; và mặt khác, qua hình thái dân chủ của quan hệ thống trị chính trị của giai cấp tư sản. Và cũng như khảo cứu của Tư bản về quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa bắt đầu từ phép phân tích hình thái hàng hóa, thì nghiên cứu của Marx về nhà nước tư sản khởi đi phép phân tích hình thái dân chủ. Tuy nhiên, nếu Marx kết hợp hữu cơ hình thái hàng hóa với hình thái dân chủ, ông vẫn chưa thể rút ra hết hệ lụy của sự kết hớp ấy trong phân tích lao động làm thuê. Hệ quả là một khái niệm về tư bản trong đó các nhân tố hàng hóa và dân chủ xem ra như là thuần túy hình thức, tức như là hời hợt, thậm chí là phù du.

Đó là trường hợp của những phân tích quan hệ tư bản chủ nghĩa chỉ nắm bắt nội dụng không có hình thái của nó. Khi ấy người lao động làm thuê quy lại thành sức lao động của nó, và tái sản xuất sức lao động này thì quy giản thành tái sản xuất một rỗ hàng hóa tiêu dùng. Ở đây, người lao động “thuộc về tư bản” cũng như các công cụ lao động, và tái sản xuất sức lao động trở nên “một thời điểm của quá trình tái sản xuất tư bản”. Trong điều kiện đó, tư bản tự tái sản xuất thông qua một “cơ chế chu chuyển kép” của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ chế này buộc người lao động không ngừng bán sức lao động của mính, và liên tục đặt nhà tự bản vào vị thế mua nó. Cho nên, tương tư như người nô lệ, người làm công “bị ràng buộc vào người chủ của mình”, không phải là nhà tư bán cá nhân mà là giai cấp tư bản. Trong nghĩa này, người làm cộng thuộc về tư bản trước khi họ bán sức lao động cho một chủ tư bản cá nhân, và chỉ có “hư cấu pháp lý của hợp đồng” và “những thay đổi chủ tư bản cá nhân” mới tạo vẻ bề ngoài độc lập của của họ”[170].

Đối với Marx, các văn bản bàn về tái sản xuất của tư bản nhằm mục đích cho thấy rằng nội dụng đảo ngược trong hình thái, rằng quan hệ hàng hóa che giấu quan hệ giai cấp. Tuy vậy, nó không có nghĩa là nội dung xóa bỏ hình thức, rằng phải nắm bắt quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa độc lập với hình thái hàng hóa của nó; hoặc nắm bắt nhà nước tư sản độc lập với hình thái dân chủ của nó - rằng dân chủ chỉ là “bánh vẻ” [trompe-l’oeil]. Trong một cách đọc phiến diện, người ta bỏ qua đặc trưng của người lao động làm thuê là một người lao động tự do - so với nô lê hay với nông nố -, tức là một chủ thể pháp nhân có những quyền tư nhân và quyền chính trị. Người ta quên rằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa khác các hình thái sản xuất xã hội trước đó, ở chỗ “người công nhân không còn thuộc về những điều kiện khách quan của sản xuất (chế độ nô lệ, nông nô)”, rằng “tư bản không chiếm hữu người lao động”[171].

IV. Sức lao động là khái niệm chỉ việc loại trừ người lao động ra khỏi các điều kiện của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự không chiếm hữu người lao động bởi nhà tư bản. Nó không chỉ một cái gì vật chất, mà một quan hệ xã hội. Sức lao động không phải là người lao động, cũng không phải là “toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể của một con người sống và được người ấy vận hành khi sản xuất ra những vật có ích” - là điều ta đọc trong Tư bản nhưng diễn ra trong bất kỳ hình thái sản xuất xã hội nào khác[172]. Khái niệm về sức lao động sinh ra từ sự tách biệt giữa người lao động với những năng lực thể chất và tinh thần của nó trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đúng ra, sức lao động là một mâu thuẫn chỉ sự tách ly của năng lực lao động - vốn không thể tách lý - với người lao động: “Giá trị sử dụng mà người lao động cung cấp trên thị trường chi tồn tại với tính cách là năng lực, là khả năng của cơ thể người lao động; nó không tồn tại ở ngoài cơ thể ấy của người lao động”[173]. Do đó, tách lý năng lực lao động và người lao động trong khái niệm về sức lao động là một sự tách ly giả tưởng, tưởng tượng, nhưng chính giả định ấy của khái niệm về sức lao động cho phép người lao động bán năng lực lao động của mình mà không bán mình cho nhà tư bản. Hay chính xác hơn, chỉ có sự tách ly giả định đó mới cho phép người lao động bán sự phục tùng cá nhân của mình cho người chủ tư liệu lao động trong quá trình lao động, mà đồng thời vẫn khẳng định tự do của mình với tính cách là chủ của bản thân mình[174]. Theo nghĩa này, sức lao động là khái niệm đặc thù của người lao động tự do, mà khái niệm này cho phép tư duy mối quan hệ mâu thuẫn với tư bản, một quan hệ vừa bao hàm, vừà loại trừ [inclusion - exclusion].

Khía cạnh kép của cương vị người lao động tự do có nghĩa rằng việc tách rời người lao động với tư liệu lao động không đủ để ép buộc người lao động bán sức lao động của họ. Tất nhiên, trong nền sản xuất hàng hóa, một sự cưỡng chế có tính tiền tệ bó buộc mọi người lao động muốn tiếp cận tư liệu sinh hoạt phải chuyển hóa sức lao động của họ thành hàng hóa. Nhưng bởi vì người lao động có cương vị làm chủ bản thân mình, việc họ bước vào quan hệ trao đổi lao động làm thuê là một quyết định tự nguyện không có gì chắc chắn. Cho nên, trong các văn bản bàn về tích lũy tư bản ban đầu, Marx nhắc nhở rằng truất hữu người lao động mọi tư liệu lao động chưa đủ để ép buộc họ ra trình diện trên thị trường lao động. Vẫn cần một sự cưỡng chế có tính nhà nước, một “pháp chế hà khắc” đàn áp những kẻ chống cự lao động làm thuê. Bởi những kẻ đã bị truất hữu hình thành một dân cư “tự do” có thể chon giữa “bán sức lao động của mình, hoặc tìm kế sinh nhai bằng ăn xin, lang thang và trộm cướp”. Thế mà “lịch sử cho thấy dân cư ấy đầu tiên đã tìm cách đeo đuổi con đường thứ hai này [ăn xin, lang thang, trộm cướp], song đã bị các giá treo cổ, cột bếu xấu và roi vọt ngăn cản, và đẩy vào con đường chặt hẹp đi đến thị trường lao động; qua đó các chính phủ (…) hiện ra như là người tạo diều kiện thuận lợi cho sự tồn tại của tư bản”[175]. Tuy nhiên, dường như Marx muốn nói rằng “sự can thiệp thường trực của nhà nước” chỉ cần thiết cho sự ra đời của tư bản, còn với sự thâu gồm lao động vào tư bản thì sự cưỡng chế lao động thặng dư mang tính “thuần túy kinh tế”, cho nên có thể bỏ mặc người lao động “cho sự lệ thuộc vào tư bản”[176].

Tuy vậy, nếu trước mặt nhà tư bản, người lao động vẫn “tự do” thì việc họ cứ tuần hoàn bước vào quan hệ trao đổi lao động làm thuê còn thường xuyên đòi hỏi một sự cưỡng chế ở bên ngoài quan hệ làm thuê[177]. Văn bản Tư bản nói rõ: “Vẫn chưa đủ khi ở một cực các điều kiện vật chất của lao động hiện ra dưới hình thái tư bản, còn ở cực khác là những con người không có gì để bán, ngoài sức lao động của mình. Cưỡng bức những người đó tự nguyện bán mình như thế cũng vẫn chưa đủ. Trong bước tiến triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành một giai cấp công nhân, nhờ có giáo dục, truyền thống và tập quan, mà chấp nhận các điều kiện của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa như là những quy luật tự nhiên tất yếu”[178]. Nói cách khác, nếu bán sức lao động đã trở thành điều “tự nhiên” của người lao động thì đó là do họ đã thấm nhuần - qua “giáo dục, truyền thông và tập quan” – những chuẩn mực hành xử xã hội. Cho nên, vượt qua thời kỳ tích lũy ban đâu, thực tế người lao động tham gia đều đặn vào quan hệ tư bản chủ nghía giả định sự tồn tại của những định chế nhà nước uống nắn sự tái sản xuất người lao động tự do ở bên ngoài quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Còn trong quá trình sản xuất thì các chuẩn mực xã hội về sử dụng và tái sản xuất sức lao động cũng tùy thuộc, như Marx đã nhấn mạnh, vào những quy định mang tính định chế và có tính nhà nước[179]. Như vậy lao động làm thuê dựa trên quan hệ cưởng chế kép, mang tính vừa kinh tế, vừa chính trị. Kích thước chính trị này của sư cưỡng chế không thể thiếu vì nhà tư bản không chiếm hữu người lao động, bởi cương vì của người chủ sức lao động là một người tự do ngang hàng với người chủ tiền.

V. Tất nhiên, đây là tự do hình thức. Song, hình thức không chỉ là mặt nạ dưới đó quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa ngụy trang, như một một cách diễn giải chính thống nhưng đơn phương thường cho rằng. Đòi hỏi tự do hình thức cũng là cái cấu thành những người lao động như là giai cấp xã hội: thật vậy, “những người vô sản chỉ đạt đến sự thống nhất thông qua một quá trính tiến hóa dài trong đó đòi hỏi quyền của mình có vai trò nhất định. Vã chăng, đòi hỏi quyền của mình là phương tiện để những người lao động trở nên ‘chính mình’, để họ biến thành một khối cách mạng đoàn kết”[180]. Theo nghĩa ấy, việc khẳng định quyền tự do hình thức của người lao động làm thuê là cái được thua trong đấu tranh giai cấp. Điều đó được xác định bởi tất cả các văn bản của Tư bản nói về pháp chế lao động: ngày lao động tiêu chuẩn, chuẩn mực tiền công, quyền đình công, tự do về công đoàn…[181].

Một mặt, điều mà giai cấp tư bản nhắm đến là quy giản người lao động làm thuê thành một người mang sức lao động [porteur de force de travail], là chuyển hóa sức lao động thành hàng hóa hoàn toàn, là thâu gồm hoàn toàn lao động vào tư bản. Đây là một xu thế mà tư bản luôn luôn tiến hành, nhưng không bao giờ thực hiện tới cùng - nêu không sẽ rơi vào chế độ nô lê - bởi nó giả định rằng tư bản phủ định người lao động tự do, vốn cấu thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, đó vẫn là ảo vọng mà kinh tế chính trị học thể hiện trong những phiên bản mang tính tư tưởng hệ nhất của nó.

Mặt khác, bởi vì người lao động làm thuê là người lao động tự do, cương vị của nó không thể hạn định trong những quan hệ thuần túy kinh tế, mà nó còn bao hàm, và một cách không thể tách biệt, một mối quan hệ chính trị. Tự do ngang bằng với người chủ tiền, người chủ sức lao động có cương vị vừa là bán hàng vừa la công dân[182]. Chính điều này khiến tư bản không thể quy giản người lao động thành sức lao động của mình; cũng như nó không thể thủ tiêu sự kháng cự của người lao đồng - tức là phần tự chủ của họ - bất luận thể thức thâu gồm lao động vào tư bản. Còn khả năng phủ định tư bản và tiềm năng vượt bỏ nó thì là bắt rễ trong tự do hình thức mà người lao động đòi hỏi[183]. Chí ít, đây là bao hàm lô-gich khi Marx đặc trưng người làm công là lao động “tiềm tàng” hay “tiềm thể” tự do[184].

Với tính cách là khái niệm đặc thù của người lao động làm thuê, sức lao động thể hiện mâu thuẫn của tư bản, theo đó: nếu xu thế của tư bản là quy giản người lao động thành sức lao động của nó, thì sự tồn tại của người lao động bất khả thành tồn tại của người mang sức lao động[185]. Trong quan hệ loại trừ - bao gồm này của người lao động đối với tư bản, bắt nguồn tính đối kháng và phi đối kháng của mâu thuẫn tư bản, một mặt là phủ định tư bản và mặt khác là sự tái sản xuất nó. Do đó, tính chất hai mặt của của sự phát triển lực lượng sản xuất và của đấu tranh giai cấp trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sư thâu gồm của lao động vào tư bản không nên khiến ta nghĩ rằng tư bản chỉ là một mối hệ với chính nó, rằng lao động chỉ tồn tại như là phương tiện làm gia tăng giá trị của tư bản. Cho dù nó là hình thức hay hiện thực, sự thâu gồm của lao động vào tư bản không làm mất đi tính đối kháng. Cho nên sức lao động, với tính cách là biểu hiện của người lao động tự do và của lao động tự do, là cái mà tư bản không ngừng tái sản xuất như mặt đối lập của nó, như cái thường trực tuột tay nó và phủ định nó, dù chỉ là ở dạng “tiềm thể”, “tiềm tàng”.

Tác phẩm của Marx

(xếp theo thứ tự năm xuất bản văn bản gốc hoặc năm tác giả biên soạn bản thảo, tiếp đến là nhan đề tiếng Việt của tác phẩm, rồi quy chiếu của văn bản tiếng Pháp được sử dụng trong công trình nghiên cứu này)

1835-1874: Thư từ trao đổi Marx - Engels/Correspondance Marx - Engels, Editions Sociales, 1971-1989, 12 t.

1841-1861: Tác phẩm III. Triết học/Œuvres III. Philosophie, Gallimard, 1982.

1843a: Phê phán triết học pháp quyền của Hegel/Critique du droit politique hégelien, Editions Sociales, 1975.

1843b: Về vấn đề Do Thái/“A propos de la Question juive”, in Œuvres III. Philosophie, Gallimard, 1982.

1844: Bản thảo 1844/Manuscrits de 1844, Editions Sociales, 1972.

1844-1881: Tác phẩm I. Kinh tế/Œuvres I. Economie, Gallimard, 1965.

1845: Gia đình thần thánh (viết cùng với Engels)/La Sainte Famille (avec Friedrich Engels), Editions Sociales, 1972.

1845-1895: Những lá thư viết về bộ Tư bản (viết cùng với Engels)/Lettres sur Le Capital (avec Friedrich Engels), Editions Sociales, 1972.

1846: Hệ tư tưởng Đức (viết cùng với Engels)/L’idéologie allemande (avec Friedrich Engels), Editions Sociales, 1976.

1847: Sự khốn cùng của triết học/Misère de la philosophie, Editions Sociales, 1968.

1847-1880: Tác phẩm II. Kinh tế/Oeuvres II. Economie, 1972.

1848: Tuyên ngôn đảng cộng sản (viết cùng với Engels)/Manifeste du parti communiste (avec Friedrich Engels), Editions Sociales, 1972.

1848-1849: Nhật báo Neue Rheinische Zeitung/La Nouvelle Gazette Rhénane, t. 3, Editions Sociales, 1963-1971.

1849/1865: Lao động làm thuê và tư bản Tiền công, giá cả và lợi nhuận/Travail salarié et capital & Salaire, prix et profit, Editions Sociales, 1969.

1850: Đấu tranh giai cấp ở Pháp/Les luttes des classes en France, Editions Sociales, 1970.

1852: Ngày 18 tháng Sương mù của Louis Bonaparte/Le 18 Brumaire de Louis Bonaparte, Editions Sociales, 1969.

1857-1858: Bản thảo 1857-1858/Manuscrits de 1857-1858, Editions Sociales, 1980, 2 t.

1859a: Góp phần phê phán chính trị kinh tế học/Contribution à la critique de l’économie politique, Editions Sociales, 1957.

1859b: Louis Napoleon và Ý/“Louis Napoleon and Italy”, New York Daily Tribune 29.8 1859.

1861-1863: Bản thảo 1861-1863/Manuscrits de 1861-1863, Editions Sociales, 1980.

1862-1863: Các học thuyết về giá trị thặng dư/Théories sur la plus-value, Editions Sociales, 1974-1976, 3 t.

1862-1895: Những lá thư viết cho Kugelmann (viết cùng với Friedrich Engels)/Lettres à Kugelmann (avec Friedrich Engels), Editions Sociales, 1971.

1864: Chương VI, Tư bản, Quyển I. Bản thảo 1863-1867/Le Chapitre VI, Le Capital, Livre I. Manuscrits 1863-1867, Editions Sociales, 2010.

1864-1865: Tư bản, Quyển III/Le Capital, Livre III, Editions Sociales, 1965-1967, 3 t.

1867/1890a: Chương 1 của Tư bản (bản tiếng Đức xuất bản lần thứ nhất và lần thứ tư)/“Le Chapitre 1 du Capital”, 1e et 4e éditions allemandes, in Paul-Dominique Dognin (ed), Les sentiers escarpés de Karl Marx, Editions du Cerf, 1977, 2 vol.

1870-1878: Tư bản, Quyển II/Le Capital, Livre II, Editions Sociales, 1968, 2 t.

1871: Cuộc nội chiến ở Pháp/La guerre civile en France, Editions Sociales, 1971.

1875: Tư bản, Quyển I (phiên bản tiếng Pháp)/Le Capital, Livre I, édition française, Editions Sociales, 1962, 3 t.

1879-1880: Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolphe Wagner/“Notes marginales sur le Traité d’économie politique d’Adolphe Wagner”, in Le Capital, Livre II, Editions Sociales, 1976, p. 459-484.

1890: Tư bản, Quyển I (bản tiếng Đức xuất bản lần thứ tư)/Le Capital, Livre I, 4e édition allemande, Editions Sociales, 1983.

----

ĐỌC LẠI TƯ BẢN.

MARX, PHÊ PHÁN CHÍNH TRỊ KINH TẾ HỌC

VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA PHÊ PHÁN CHÍNH TRỊ KINH TẾ HỌC

 

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU

LỜI DẪN NHẬP

Phần thứ nhất: HÀNG HOÁ NHƯ LÀ HÌNH THÁI CỦA SẢN PHẨM LAO ĐỘNG

Tiêu đề I: VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA GIÁ TRỊ VÀ KHÁI NIỆM VỀ LAO ĐỘNG TRỪU TƯỢNG

Chương 1: LAO ĐỘNG TRỪU TƯỢNG - CỤ THỂ

Tiết 11: Lao động trừu tượng và lao động cụ thể, lao động xã hội và lao động tư nhân

§ 111: Tính đối lập giữa lao động tư nhân và lao động xã hội

§ 112: Tính che phủ lao động tư nhân - lao động cụ thể, lao động xã hội - lao động trừu tượng

§ 113: Tính xã hội và sự xã hội hoá các cá nhân tư

Tiết 12: Lao động trừu tượng – cụ thể, lao động sinh lý và lao động có ích

§ 121: Định nghĩa vật chất - kỹ thuật về lao động cụ thể

§ 122: Định nghĩa thực định về lao động trừu tượng

Tiết 13: Lao động trừu tượng, lao động nói chung và sự trừu tượng hóa hiện thực

§ 131: Lao động trừu tượng như là sự thật thực tiễn

§ 132: Lao động trừu tượng như là lao động tha hóa

§ 133: Lao động trừu tượng như là phổ quát cụ thể

Tiết 14: Lao động trừu tượng, lao động xã hội và lao động ngang bằng

§ 141: Lao động trừu tượng như là phạm trù lô-gích

§ 142: Lao động trừu tượng như là phạm trù siêu hình

§ 143: Bàn về Chương 1, Quyển I bộ Tư bản

Chương 2: HÌNH THÁI GIÁ TRỊ CỦA SẢN PHẨM LAO ĐỘNG

Tiết 21: Tính khách thể xã hội và hình thái vật chất của giá trị

§ 211: Giá trị như hình thái vật hóa của xã hội

§ 212: Giá trị như hình thái xã hội của một vật

§ 213: Tính khách thể và tính vật chất

Tiết 22: Giá trị và giá trị sử dụng

§ 221: Sự phân biệt giữa tính hữu dụng và giá trị hữu dụng

§ 222: Sự thống nhất của giá trị và giá trị hữu dụng

Tiêu đề II: VẤN ĐỀ BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ VÀ KHÁI NIỆM VỀ TIỀN TỆ

Chương 3: TÍNH ĐỐI CỰC TIỀN TỆ – HÀNG HOÁ

Tiết 31: Lao động trừu tượng và/hay tiền tệ

§ 311: Hình thái của giá trị và tính đối cực hình thái tương đối – hình thái vật ngang giá

§ 312: Hình thái giá cả và tính đối cực hàng hoá – tiền tệ

§ 313: Các hình thái của tiền tệ và tính đối cực tín dụng – tiền tệ

§ 314: Tiền tệ hay mặt đối lập của hàng hoá

§ 315: Tính hai mặt của tiền tệ

Tiết 32: Giá trị và/hay giá trị trao đổi

§ 321: Từ Góp phần phê phán kinh tế chính trị học đến Tư bản

§ 322: Giá trị tuyệt đối và giá trị tương đối

§ 323: “1 góc tạ lúa mì = a kg sắt” đối chiếu với “20 m vải = 1 cái áo”

Tiết 33: Giá trị và/hay giá cả

§ 331: Thước đo nội tại và thước đo bề ngoài của giá trị

§ 332: Sự chuyển hóa giá trị thành giá cả

Chương 4: SỰ SÙNG BÁI HÌNH THÁI GIÁ TRỊ

Tiết 41: Hình thái khách thể và hình thái chủ thể

§ 411: Hình thái về khách thể và sự sùng bái

§ 412: Hình thái về cá thể và quan hệ hàng hoá

§ 413: Sùng bái và tha hóa

Tiết 42: Bàn về Phần 1, Quyển I bộ Tư bản

Phần thứ hai: HÀNG HOÁ VỚI TÍNH CÁCH LÀ SẢN PHẨM CỦA TƯ BẢN

Tiêu đề I: VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ KHÁI NIỆM VỀ SỨC LAO ĐỘNG

Chương 5: TƯ BẢN NHƯ QUAN HỆ BÓC LỘT MANG TÍNH HÀNG HOÁ

Tiết 51: Sự phân chia thế giới hàng hoá giữa sản phẩm của tư bản và sức lao động

§ 511: Giá trị như là hình thái cưỡng chế lao động thặng dư

§ 512: Sức lao động như là hàng hoá giả tưởng

Tiết 52: Quan hệ trao đổi như là hình thái quan hệ giai cấp

§ 521: Quan hệ hàng hoá và quan hệ tư bản chủ nghĩa

§ 522: Hình thái giá trị và nội dung giai cấp

Chương 6: TƯ BẢN NHƯ LÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ SỨC SẢN XUẤT

Tiết 61: Sự vật thể hóa tư bản trong sức sản xuất

§ 611: Thâu gồm hình thức và cưỡng chế tiền tệ về lao động thặng dư

§ 612: Thâu gồm hiện thực và cưỡng chế kỹ thuật về lao động thặng dư

Tiết 62: Tính hai mặt của sức sản xuất do tư bản phát triển

§ 621: Phủ định tư bản như là xu thế của tư bản

§ 622: Tính đối kháng và phi đối kháng của mâu thuẫn tư bản

§ 623: Sức lao động, khái niệm đặc thù của người lao động tự do

Tiêu đề II: VẤN ĐỀ BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ KHÁI NIỆM VỀ TỶ SUẤT LỢI NHUẬN CHUNG

Chương 7: PHÉP CHUYỂN HÓA NHƯ LÀ BƯỚC CHUYỂN PHÂN TÍCH TƯ BẢN TỪ CẤP ĐỘ TRỪU TƯỢNG HÓA NÀY SANG CẤP ĐỘ KHÁC

Tiết 71: Quan hệ giai cấp và quan hệ liên tư bản

§ 711: Sản xuất hàng hoá đơn giản và sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa

§ 712: Tư bản nói chung và tư bản số nhiều

Tiết 72: Tỷ suất lợi nhuận chung và tỷ suất lợi nhuận bình quân

§ 721: Tỷ suất lợi nhuận bình quân như là bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận theo giá trị thị trường

§ 722: Tỷ suất lợi nhuận bình quân như là bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận theo giá cả thị trường

§ 723: Cương vị kép của tỷ suất lợi nhuận chung: hình thái chuyển hóa của tỷ suất giá trị thặng dư và tỷ suất lợi nhuận bình quân

Chương 8: PHÉP CHUYỂN HÓA NHƯ BƯỚC PHÁT TRIỂN HÌNH THỨC CỦA GIÁ TRỊ SANG CẤP ĐỘ TƯ BẢN SỐ NHIỀU

Tiết 81: Tỷ suất lợi nhuận chung và tỷ suất lợi nhuận không ngang bằng

§ 811: Tỷ suất lợi nhuận chung và những hình thái cạnh tranh

§ 812: Tỷ suất lợi nhuận chung và phân khúc tư bản

Tiết 82: Giá cả sản xuất và quy luật giá trị

§ 821: Phép chuyển hóa và bóc lột

§ 822: Hai đẳng thức của phép chuyển hóa

§ 823: Giá cả sản xuất và lao động xã hội cần thiết

Phần thư ba: HÀNG HOÁ VỚI TÍNH CÁCH LÀ SẢN PHẨM CỦA TƯ BẢN CÁ BIỆT

Tiêu đề I: VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA LỢI NHUẬN SIÊU NGẠCH

Chương 9: SIÊU LỢI NHUẬN NỘI NGÀNH VÀ LIÊN NGÀNH

Tiết 91: Giá cả sản xuất chung, giá cả sản xuất cá biệt và siêu lợi nhuận cá biệt

§ 911: Giá cả sản xuất và giá cả thị trường

§ 912: Giá cả sản xuất chung và giá cả sản xuất cá biệt

§ 913: Giá cả sản xuất chung và giá trị thị trường

Tiết 92: Giá cả sản xuất chung, giá cả thị trường và siêu lợi nhuận thị trường

§ 921: Tính chất của lao động xã hội cần thiết

§ 922: Giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất

§ 923: Tỷ suất lợi nhuận chung, siêu lợi nhuận thị trường và siêu lợi nhuận cá biệt

Tiêu đề II: VẤN ĐỀ CHUYỂN ĐỔI LỢI NHUẬN SIÊU NGẠCH THÀNH ĐỊA TÔ

Chương 10: ĐỊA TÔ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

Tiết 101: Sở hữu đất đai và tư bản

§1011: Sở hữu đất đai như là quan hệ phân phối tư bản chủ nghĩa

§ 1012: Sự thâu gồm sở hữu đất đai vào tư bản

§ 1013: Địa tô tuyệt đối, sở hữu ruộng đất và giai cấp xã hội

Tiết 102: Vấn đề ruộng đất và quy luật giá trị

§ 1021: Địa tô tư bản chủ nghĩa và khớp nối các phương thức sản xuất

§ 1022: Sự thâu gồm lao động vào tư bản trong nông nghiệp và sự bóc lột lao động nông dân

§ 1023: Đối tượng của Phần 6 Quyển III Tư bản

Chương 11: KHÁI NIỆM VỀ ĐỊA TÔ CHÊNH LỆCH

Tiết 111: Lĩnh vực nông nghiệp và sự xác định giá cả sản xuất

§ 1111: Khả năng về lợi nhuận dưới chuẩn bình quân trong nông nghiệp

§ 1112: Khả năng về địa tô chênh lệch âm

Tiết 112: Đất nông nghiệp và tính màu mỡ

§ 1121: Tính màu mỡ gọi là tự nhiên và màu mỡ kinh tế

§ 1122: Tính màu mỡ gọi là tự nhiên và màu mỡ nhân tạo

§ 1123: Ruộng đất như là hàng hoá giả tưởng và sự chuyển đổi siêu lợi nhuân cá biệt thành địa tô chênh lệch

Chương 12: KHÁI NIỆM VỀ ĐỊA TÔ TUYỆT ĐỐI

Tiết 121: Giải pháp lý luận năm 1862

§ 1211: Địa tô trên khoảng đất tồi nhất

§ 1212: Cấu thành hữu cơ của tư bản nông nghiệp và sở hữu ruộng đất

§ 1213: Địa tô tuyệt đối như khoản dư của giá trị trao đổi trên giá cả sản xuất

§ 1214: Tình trạng thị trường và sự hiện thực hóa địa tô

Tiết 122: Đặt lại vấn đề địa tô tuyệt đối

§ 1221: Khoản trừ trên giá trị trao đổi hay khoản dư trên giá cả sản xuất

§ 1222: Địa tô tuyệt đối hay địa tô độc quyền

§ 1223: Địa tô nội sinh hay địa tô ngoại sinh

§ 1224: Tính chất của địa tô tuyệt đối và phương thức xác định nó

LỜI KẾT

THƯ MỤC

Nguồn: Tác giả - dịch giả Trần Hải Hạc gởi trực tiếp cho PTKT.

----

CHÚ THÍCH

CHƯƠNG 6: TƯ BẢN NHƯ LÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT



[1] Xem chú thích của người dịch bản tiếng Pháp Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 1, tr. 455]. Những nghiên cứu về sự thâu gồm hình thức - hiện thực của lao động vào tư bản, như là sự tách ly kép của người lao động với điều kiện lao động, bắt nguồn từ công trình của Etienne Balibar đọc và diễn giải văn bản Tư bản Quyển I, Phần 4 (Sự sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối). Xem E. Balibar, ‘Sur les concepts fondamentaux du matérialisme historique’, trong Louis Althusser et al., Lire le Capital, nxb Maspéro, 1969, t.2, tr. 124 và tiếp; tr. 217 và tiếp.

[2] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 202-204].

[3] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 194-195].

[4] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 207 và 192].

[5] Roger Dangeville, người dịch bản tiếng Pháp đầu tiên của Chương VI chưa công bố, dường như đã không nhân ra điều này khi đặt ra tiểu tựa như sau cho văn bản trình bày sự thâu gồm hình thức - hiện thực của lao động vào tư bản: ‘Hai giai đoạn lịch sử phát triển kinh tế của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa’, với bình luận rằng đây là một văn bản song song và bổ sung trình bày mang tính lịch sử của tích lũy tư bản ban đầu [1864, tr. 191-192].

[6] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 217].

[7] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 195].

[8] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 191]. Trong Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 1, tr. 456), Marx chỉ ra rằng sự thâu gồm hình thức là “hình thái phổ biến của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, chung cho phương thức ít phát triển nhất và phương thức phát triển cao nhất của nó”.

[9] Đoạn này không được dịch trong bản tiếng Pháp của Tư bản, Quyển I, như Dangeville lưu ý (Chương VI chưa công bố [1864, tr.195-196]). Xem Tư Bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 571]

[10] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 201]. Xem thêm Tư Bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 572].

[11] Ngay cả trong diễn giải của E. Balibar cũng có những nhận định lịch sử gây tranh cãi. Chẳng hạn khi tác giả tìm cách định vị sự thâu gồm hình thức như là một giai đoạn lịch sử của chủ nghía tư bản mà ông cho là thời kỳ công trường thủ công: “Sự thâu gồm hình thức, bắt đầu với hình thái lao động gia công và chấm dứt với cuộc cách mạng công nghiêp, bao phủ cả thời kỳ lịch sử mà Marx gọi là công trường thủ công” (E. Balibar, sdd, tr. 218). Nhận định lịch sử này trái với các lý luận của Tư bản theo đó các hình thái hiệp tác và phân công lao động đều là những “phương pháp để sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối” (Tư Bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 361]). Bàn về hiệp tác, Marx cho rằng đây là “mức độ thứ nhất ở đó sự thâu gồm của lao động vào tư bản không còn mang tính thuần hình thức mà đã chuyển hóa bản thân phương thức sản xuất (Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, tr. 272]). Nhận xét tương tự khi Marx bàn về phân công lao động [sdd, tr. 291].

Ngược lại, cần lưu ý rằng Marx không xem tư bản cho vay nặng lãi và tư bản thương mại tồn tại trong các hình thái sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa như là hình thái thâu gồm hình thức: cho dù đây là những hình thái xã hội “quá độ sang quan hệ tư bản chủ nghĩa thực sự, (…) đó vẫn chưa phải là sự thâu gồm hình thức của lao động vào tư bản” Chương VI chưa công bố [1864, tr. 198]. Xem thêm Tư Bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 571].

[12] Tư bản, Quyển 1, bản 1875 [1875, t.3, tr. 16].

[13] Chương VI chưa công bố, [1864, tr. 262].

[14] Tư bản, Quyển 1, bản 1875 [1875, t.3, tr. 20].

[15] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 263].

[16] Pierre-Philippe Rey, Les alliances de classes, nxb Maspéro, 1973, tr. 113, 110 và 115.

[17] Pierre-Philippe Rey, Colonialisme, néo-colonialisme et transition au capitalisme, nxb Maspéro, 1971, tr. 210.

[18] P.P. Rey, sđd., tr. 40 và 160-161.

[19] Claude Faure, Agriculture et capitalisme, nxb Anthropos, 1978, tr. 24-25.

[20] C. Faure, sđd, tr. 29 và 36-37.

[21] Pierre-Philippe Rey,”Quelques remarques sur l’article de P. Bonte”, La Pensée n° 171, tháng 10 1973, tr. 106.

[22] P.P. Rey, sđd., 106.

[23] P.P. Rey, Les alliances de classes, tr. 110.

[24] P.P. Rey, sđd., 109.

[25] Chương VI chưa công bố, [1864, tr. 166].

[26] Chương VI chưa công bố, [1864, tr. 214-215].

[27] Như Alain Lipietz có nhận xét (A. Lipietz, Le tribut foncier urbain, nxb Maspéro, 1974, tr 237).

[28] Trong thực tế, tùy theo phương thức sản xuất xã hội, quan hệ bóc lột cho thấy chiếm hữu con người hay chiếm hữu tư liệu sản xuất là chiếm ưu thế. Chẳng hạn, nghiên cứu sự xuất hiện của tư bản trong chế độ lãnh chúa thời trung cổ ở Pháp, Isaac Joshua cho thấy quan hệ sản xuất ban đầu xoay quanh sức lao động, rồi về sau xoay quanh tư liệu sản xuất. (I. Joshua, La face cachée du Moyen-âge. Les premiers pas du capital, nxb La Brèche, 1988, tr. 353-353).

[29] Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, tr. 101].

[30] Chương VI chưa công bố, [1864, tr. 140-141].

[31] Ghislain Deleplace là tác giả đã đẩy đến cùng luận đề xác định tính chất đặc thù của tư bản chỉ với hình thái lao động làm thuê, tức chỉ với sự thâu gồm hình thức của lao động vào tư bản. Hậu quả lô-gích của quan điểm này là từ bỏ phép phân tích theo các thuật ngữ quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất; và chỉ tập trung phân tích quan hệ trao đổi hàng hóa như là hình thái quan hệ xã hội độc nhất.

“Nếu tính chất đặc thù của bóc lột tư bản chủ nghĩa nằm ở quan hệ lao động làm thuê - tức là người lao động (khác với nô lệ hay nông nô) phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản - thì điều đó không thể lý giải được với thuật ngữ lực lương sản xuất (vì bán sức lao động không phải là một quan hệ kỹ thuật giữa những người lao động, mà là một quan hệ trao đổi giữa người lao động và người không lao động); hay với thuật ngữ quan hệ sản xuất (bởi không có sở hữu tư liệu sản xuất chỉ buộc người lao động làm công cho kẻ khác, chứ không nói làm như thế nào). Cho nên phải xác định tính chất đặc thù của xã hội tư bản chủ nghĩa so với các xã hội giai cấp khác trên tiền giả định trao đổi hàng hóa phổ quát, điều mà người ta không thể tìm thấy trong định nghĩa của phương thức sản xuất”. (G. Deleplace, Théorie du capitalisme: une introduction, nxb Maspéro/PUG, 1979, tr. 191).

[32] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 218-219].

[33] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 226].

[34] Về tương quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, xem I. Joshua, sđd., 351 và tiếp.

[35] Tư bản, Quyển 1, bản 1875 [1875, t.2, tr. 27].

[36] Phép phân tích các hình thái thâu gồm hiện thực (vật chất hóa tư bản trong các lực lượng sản xuất) ở Phần 4 Quyển I Tư bản tương tự phép phân tích các hình thái của giá trị (vật chất hóa lao động trừu tượng trong tiền tệ) ở Phần 1. Và nếu quả hình thái đơn giản (Hình thái I) và hình thái phát triển (Hình thái II) của giá trị, về mặt lô-gích, có trước hình thái chung (Hình thái III) và hình thái tiền tệ (Hình thái IV), theo Marx, chỉ là trên cơ sở của Hình thái III và hình thái IV thì hình thái II (thể hiện sức mua của tiền tệ) và Hình thái I (hình thái giá của hàng hóa) mới đạt được hết ý nghĩa của chúng (Tư bản, Quyển 1, bản 1875 [1875, t.1, tr. 81 và 105]. Xem phía trước Tiết 31.

[37] Theo từ ngữ xác đáng của A.D. Magaline (A.D. Magaline, Lutte de classes et développement du capital, nxb Maspéro, 1975, tr. 54).

[38] Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, tr. 100].

[39] Một cách đối xứng, quá trình hiệp tác tư bản chủ nghĩa đối với người lao động là quá trình tách ly. Xem Alain Lipietz, Crise et inflation, pourquoi?, nxb Maspéro, 1979, tr. 219.

[40] Quá trình truất hữu kiến thức công nhân, mà nhà tư bản tịch thu, được hệ thống hóa như là nội dung của chủ nghĩa Taylor. Xem Robert Linhart, Lénine, les paysans, Taylor, nxb Seuil, 1976, tr. 73, và Benjamin Coriat, Science, technique et capital, nxb Seuil, 1976, tr. 118.

[41] Quá trình truất hữu kiến thức công nhân, bằng cách sáp nhập kiến thức kỹ thuật ấy trong hệ thống máy móc tự động, đã được hệ thống hóa như là nội dung của chủ nghĩa Ford. Xem Christian Palloix, “Le procès de travail: du fordisme au néo-fordisme”, La Pensée n°185, tháng 2 1976; Benjamin Coriat, sđd., tr. 98.

[42] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 186].

[43] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 185-186].

[44] Theo từ ngữ của Arnaud Berthoud (A. Berthoud, Travail productif et productivité du travail chez Marx, nxb Maspéro, 1974, tr. 121).

[45] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 185].

[46] “Hệ máy móc đã trở thành một vũ khí chiến đấu mạnh mẽ nhất để đàn áp những cuộc nổi dậy có tính chu kỳ của công nhân, những cuộc bãi công v.v., nhằm chống lại chuyên chế của tư bản (…). Người ta sẽ có thể viết cả một pho sử về những phát minh từ năm 1830, ra đời chỉ với tư cách là những phương tiện chiến đấu của tư bản chống lại những cuộc nổi dậy của công nhân”. Tư Bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 488-489]. Xem thêm Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, tr. 358].

[47] Tư bản, Quyển 1, bản 1875 [1875, t.2, tr. 166]: Nền công nghiệp lớn “bắt buộc người ta phải thừa nhận sự thay đổi trong lao động và do đó sự phát triển hết sức to lớn của của khả năng nhiều mặt của người lao động, coi đó là một quy luật của nền sản xuất hiện đại”; nó bắt buộc “phải thay thế người lao động bộ phận, tức là kẻ phải đau khổ làm một chức năng sản xuất bộ phận, bằng người lao động phát triển hoàn toàn, tức là kẻ có thể làm được nhiều công việc khác nhau”. Xem thêm: “Một nhân tố của quá trình cách mạng đó, phát triển một cách tự phát trên cơ sở đại công nghiệp, (…) là các trường ‘écoles d’enseignement professionnel’ [trường daỵ nghề] trong đó con cái của công nhân được học công nghệ và cách sử dụng thực tiễn các công cụ sản xuất khác nhau”. Tư Bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 548].

[48] Ngược lại với một quan niệm duy kỹ thuật của chủ nghĩa Taylor và chủ nghĩa Ford, Bruno Lautier nhắc nhở rằng sự thay đổi kỹ thuật, “thay vì chỉ là phương tiện giải quyết các tranh chấp, thì cũng là cơ hội tạo nên sinh khí cho những tranh chấp”, cho nên, đối với nhà tư bản, đầu tư vào một quá trình lao động làm thuê luôn luôn là sự “đánh cuộc” về kết cục của toàn bộ tranh chấp (B. Lautier, “L’objet du rapport salarial”, communication au colloque Formes de mobilisation salariale et théorie du salariat, Université de Picardie, tháng 3 1985). Còn Suzanne de Brunhoff thì nhấn mạnh trên sự tồn tại của một quá trình kép hạ trình độ lành nghề - nâng lại độ lành nghề [déqualification - requalification] của công nhân trong phân tích của Marx về sự thâu gồm hiện thực (S. de Brunhoff, “Valeur de la force de travail, salaire et intervention de l’Etat”, trong B. Boureille et al., Réexamens de la théorie du salariat, nxb PUL, 139-140).

[49] Cornelius Castoriadis, Les carrefours du labyrinthe, nxb Seuil, 1978, tr. 242.

[50] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 186-187]. Xem thêm: “Quy mô mà tư bản cố định đã có được và Quy mô của sự sản xuất tư bản cố định trong tổng sản xuất, là thước đo mức độ phát triển của cải dựa trên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa” [sđd, t.2, tr. 198].

[51] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 256 và 246].

[52] Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 1, 457].

[53] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 186].

[54] Đúng ra, Marx xác định một năng suất kép hình thức - hiện thực của tư bản. a) Từ góc độ thâu gồm hình thức, “tư bản có tính chất sản xuất do nó cưỡng chế lao động thặng dư” bởi, độc lập với hình thái của quá trình lao động, tư bản cưỡng bức công nhân thực hiện lao động thặng dư. b) Từ góc độ thâu gồm hiện thực, “tư bản có tính chất sản xuất bởi nó thu hút và chiếm hữu sức sản xuất của lao động xã hội và các lực lượng sản xuất xã hội chung”, vì nó nhân cách hóa và đại biểu chúng dưới hình thái khách quan (Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 1, 460]; Chương VI chưa công bố [1864, tr. 253]).

[55] Marx lưu ý rằng các tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản “khi nào chúng tách riêng ra như một lực lượng độc lập và đối lập với lao động”. Nhưng tính quy định xã hội này của tư liệu sản xuất “gắn liền” với sự tồn tại vật chất của tư liệu sản xuất đến mức mà quan niệm tư sản “không thể tách tư bản khỏi sự tồn tại vật chất đó”; thậm chí phạm trù tư bản còn được “gán cho cả những quan hệ trái ngược với nó” (Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 1, 477]).

[56] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 253]. Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 1, 458].

[57] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 186].

[58] Bruno Théret, “Rapports de production et forces productives. La nécessité d’un retour à Marx”, Critique de l’économie politique n°1, tháng 10-12, 1977, tr. 60.

[59] Bruno Théret, Michel Wieviorka, Critique de la théorie du capitalisme monopoliste d’Etat, nxb Maspéro, 1978, tr. 17. Có thể nhận xét ở đây sự lẫn lộn phạm trù giữa giá trị trao đổi và giá trị.

[60] B. Théret, sđd., tr. 55.

[61] Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, tr. 57]: “Sức lao động cũng như tiền tệ là một hàng hóa đặc thù, nhưng với một khác biệt là ở tiền tệ tính đặc thù được tạo ra bởi sự thiết lập mối quan hệ của tất cả hàng hóa với một hàng hóa độc quyền bất kể; còn ở sức lao động, tính đặc thù xuất phát từ tính chất giá trị sử dụng của hàng hóa”. Chính “sự khác biệt” đáng chú ý này khiến người ta không thể nói - như Jean Cartelier - rằng lý luận về sức lao động có “cấu trúc lô-gích tương tự” như lý luận về tiền tệ; rằng mỗi khi gặp khó khăn lý luận, Marx đều giải quyết “một cách tương tự” là viện dẫn “sự tồn tại của một giá trị sử dụng đặc thù” (J. Cartelier, Surproduit et reproduction, nxb Maspéro/PUG, 1976, tr. 261).

[62] Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 1, 459].

[63] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 204].

[64] Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 1, 456]. Xem thêm Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, tr. 270].

[65] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 187-188].

[66] Xem A.D. Magaline, sđd., 55.

[67] Xem phê phán các phân tích của André Gorz và Stephen Marglin trong Christian Palloix, (Procès de production et crise du capitalisme, nxb Maspéro/PUG, 1977, tr. 182) và Alain Azouvi (“Progrès technique et rapports de production: de la théorie à la pratique”, Critique de l’économie politique n°10, tháng 1-3 1980, tr. 13). Xem thêm phê phán chủ nghĩa công nhân Ý trong Alain Lipietz (sđd., tr. 350-352).

[68] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 218].

[69] Tư Bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 361].

[70] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 189].

[71] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 265].

[72] Xem B. Coriat, sđd., tr. 98.

[73] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 218].

[74] Tư Bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 547]. Xem Tuyên ngôn Đảng cộng sản [1848, tr. 34]: “Giai cấp tư sản không thể tồn tại, nếu không luôn luôn cách mạng hóa công cụ sản xuất, do đó cách mạng hóa những quan hệ sản xuất, nghĩa là cách mạng hóa toàn bộ quan hệ xã hội”.

[75] Tư Bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 354].

[76] Xem A. Lipietz, sđd., tr. 262.

[77] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 341].

[78] Tư Bản, Quyển III [1864-1865, t. 1, tr. 128].

[79] Tư Bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 359].

[80] Trong Tư bản, Quyển II, Marx nhận xét rằng những hàng hóa bước vào quá trình của tư bản có thể đến từ mọi phương thức sản xuất. “Dầu cho hàng hóa ấy là sản phẩm của một nền sản xuất xây dựng trên cơ sở chế độ nô lệ, hay là sản phẩm của nông dân (Trung Hoa, Ấn Độ) hay của những cộng đồng (Đông Ấn thuộc Hà Lan) hay thuộc sản xuất của nhà nước (dựa trên chế độ nông nô, như trong thời kỳ trước kia của lịch sử nước Nga) hoặc của những dân săn bắn nửa dã man, v.v., (…) Tính chất của quá trình sản xuất mà các hàng hóa ấy là kết quả không quan trọng gì cả; với tư cách là hàng hóa, chúng đi vào vòng tuần hoàn của tư bản công nghiệp cũng như đi vào lưu thông của giá trị thặng dư. Tư bản, Quyển II, [1870-1878, t.1, tr. 101-102].

[81] Xem cách đọc phản biện của Michel de Vroey (“La théorie du salaire de Marx: une critique hétérodoxe”, Revue économique n°3, tháng 5 1985, tr. 471-476). Diễn giải lý luận về tiền công trong Tư bản, de Vroey cho rằng Marx đưa ra giả thuyết là “rỗ tiền công có tính ngoại sinh” đối với cuộc đấu tranh giai cấp giữa chủ tư bản và người làm công - rỗ hàng tiêu dùng mua với tiền công này do truyền thống xã hội xác định trươc khi có chế độ lao động làm thuê. Lý luận của Marx tương ứng với một quan hệ lao động làm thuê trong đó người làm công bán sức lao động của mình cho nhà tư bản, nhưng không mua hàng hóa do nhà tư bản sản xuất. Mô hình lý luận này được de Vroey gọi là quan hệ lao động làm thuê “bán phần” [partiel] và cho là đại biểu chế độ làm công tồn tại vào thời Marx. Cần phân biệt nó với quan hệ lao động làm thuê “tiên tiến” [avancé], vốn đòi hỏi “nội sinh hóa” tiền công hiện thực - điều mà Marx chỉ có “linh cảm” khi ông phân tích giá trị thặng dư tương đối; còn về mặt lịch sử thì mối quan hệ này tương ứng với cái gọi là chủ nghĩa Ford: tiền công không chỉ là chi phí đối với tư bản, mà còn trở nên thị trường tiêu thụ hàng hóa của tư bản sản xuất.

Điều phải lưu ý ở đây là việc de Vroey phân biệt hai gia đoạn bán phần - tiên tiến của quan hệ lao động làm thuế không liên quan gì đến sự phân biệt khía cạnh kép hình thức - hiện thực trong thâu gồm lao động vào tư bản của Marx. Thật vậy, cho dù là hình thức hay hiện thực, sự quy phục lao động đối với tư bản đòi hỏi sức lao động phải tái sản xuất chủ yếu thông qua tiêu dùng những hàng hóa sản phẩm của tư bản. Thâu gồm trở nên hiện thực khi quá trình tái sản xuất sức lao động được tư bản uống nắn, bởi tư bản - như chúng ta sẽ thấy ở phía dưới - không chỉ tạo ra vật tiêu dùng mà con tạo nên phương thức tiêu dùng. Theo nghĩa đó, thâu gồm hình thức và hiện thực, thay vì khái niệm hóa phân kỳ lịch sử của chủ nghĩa tư bản, thì phân hóa các cấp độ trừu tượng hóa trong phân tích tư bản.

[82] Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, tr. 361].

[83] Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, tr. 358].

[84] Tư bản, Quyển 1, bản 1875 [1875, t.2, tr. 116-117].

[85] Tư bản, Quyển 1, bản 1875 [1875, t.2, tr. 112].

[86] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 347].

[87] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr.26-27]. “Cái đói là cái đói, nhưng cái đói được thỏa mãn bằng thịt nấu, và ăn bằng dao nĩa, thì khác với cái đói dùng bàn tay, móng và răng nuốt chửng thịt sống. Vì vậy, sản xuất không những tạo ra vật phẩm tiêu dùng mà con tạo ra phương thức tiêu dùng, điều đó không những về mặt khách quan mà cả về mặt chủ quan. Như vậy sản xuất tạo ra người tiêu dùng. (…) Sản xuất không chỉ sản xuất ra một vật phẩm cho chủ thể, mà con sản xuất ra một chủ thể cho vật phẩm”.

[88] Marx dường như nói ngược lại trong một đoạn văn Bản thảo 1857-1858 ở đó người ta đọc rằng người lao động làm thuê “không gắn với những vật phẩm cụ thể, cũng không gắn với một phương thức hưởng thụ cụ thể. Phạm vị hưởng thọ của họ không bị giới hạn về mặt chất mà chỉ giới hạn về mặt lượng. Điều này này phân biệt họ với nô lệ, nông nô, v.v.” [1857-1858, t. 1, tr. 225]. Thật ra, trong đoạn này, Marx nhấn mạnh rằng người lao động làm thuê tự tái sản xuất thông qua một chuẩn mực có tính tiền tệ, chứ không phải chuẩn mực về giá trị sử dụng, như nô lệ hay nông nô.

[89] Tiền công, giá cả và lợi nhuận [1849/1865, tr. 106].

[90] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 215].

[91] Xem Michel Agletta, “Régulation du capitalisme en longue période”, trong Michel Aglietta, Christian Sautter (ed), Quatre économies dominantes sur longue période, INSEE, tháng 2, 1978, tr. 21.

[92] Phải đến điểm này trong phép phân tích hàng hóa của Marx thì tính quy định xã hội của giá trị sử dụng và sự phân biệt thuật ngữ giữa hữu dụng, có ích [utilité] và giá trị sử dụng [valeur d’usage] - thiết định phía trên ở Tiết 22 - mới được xác lập hoàn toàn. Phân tích của M. Aglietta [sđd., 23 và tiếp] cho thấy rõ tư bản thu giảm “tính bất định của giá trị sử dụng” bằng cách sản xuất những “mô hình sử dụng xã hội”.

[93] Đó là Chương 5 của lần thứ 4 xuất bản tiếng Đức (1890) và là Chương 7 của phiên bản tiếng Pháp (1875). Người ta còn có thể căn cứ trên một văn bản súc tích hơn là Chương VI chưa công bố của Tư bản (1864) và có đoạn như sau: “Quá trình sản xuất là thể thống nhất trực tiếp của quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị của tư bản, cũng như kết quả của nó - tức hàng hóa - là thể thống nhất trực tiếp của giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Tuy nhiên, quá trình lao động chỉ là phương tiện của quá trình làm tăng giá trị, quá trình này chủ yếu là sản xuất ra giá trị thặng dư, tức là vật hóa lao động không công. Đây chính là điểm đặc trưng toàn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa” [1864, tr. 145].

[94] Etienne Balibar, Cinq études du materialisme historique, nxb Maspéro, 1974, tr. 183-185.

[95] E. Balibar, sđd., tr. 232.

[96] Không nhận ra luận đề macxit này, đã dẫn một tác giả như Jean Baudrillard đến chỗ phủ nhận khái niệm về lực lượng sản xuất, coi đó như là phạm trù tư tưởng hệ do mang tính nhân loại học (J. Baudrillard, Le miroir de la production, nxb Casterman, 1973, tr. 32).

[97] Như A.D. Magaline có hệ thống hóa (A.D. Magaline, sđd., 52 và tiếp).

[98] Xem A. Lipietz, Crise et inflation, pourquoi?, sđd., tr. 35.

[99] Louis Althusser, Réponse à John Lewis, nxb Maspéro, 1973, tr. 30.

[100] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 44].

[101] Xem Benjamin Coriat (sđd., tr. 109): “Vấn đề thật sự và duy nhất đặt ra là: nếu đó là những lực lượng sản xuất của tư bản thì chúng ta phải nhận rằng cơ sở vật chất mà chủ nghĩa tư bản để lại có thể hoàn toàn không thích hợp để thiết lập quan hệ xã hội chủ nghĩa”.

[102] Xem Charles Bettelheim: “Điều đang xảy ra ở Trung Quốc chứng nhận là một trình độ thấp về phát triển lực lượng sản xuất không phải là trở ngại cho sự chuyển hóa xã hội chủ nghĩa của các quan hệ xã hội (C. Bettelheim, La lutte de classes en URSS, nxb Maspéro/Seuil, t. 1, tr. 40). Phải có trải nghiệm của chủ nghĩa Mao để nhắc nhở nhận định của Marx trong Hệ tư tưởng Đức [1846, tr. 33]: “Sự phát triển của những lực lượng sản xuất là tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết, vì không có nó thì tất cả sẽ chỉ là sự nghèo nàn trở nên phổ biến, và với sự thiếu thốn tột độ thì một cuộc đấu tranh để giành cái cần thiết ắt sẽ bắt đầu trở lại, thế là người ta lại rơi vào sự ti tiện trước đây”.

[103] Xem Jean-Pierre Terrail, “La logique du technologique”, La Pensée n° 197, tháng 2 1978, tr. 108.

[104] Xem Jean Texier (J. Texier, “Sur la détermination en dernière instance”, trong CERM, Sur la dialectique, nxb Editions Sociales, 1977, tr. 308): “Gán mọi tính hiệu quả cho riêng các quan hệ sản xuất, hoặc gán tính thống trị cho mối quan hệ sản xuất, sẽ tạo ra một ma trận lý luận thường tạo nên những hiệu ứng mâu thuẫn giống hệt nhau: một tính bi quan chính trị xuất phát tự sự hội nhập giả định của mọi lực lượng vào hệ thống và/hoặc một chủ nghĩa duy ý chí, một tính siêu chính trị hóa, một chủ nghĩa duy chính trị”.

[105] Lời bạt 1873, Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 18].

[106] Jean Texier (sđd., tr. 308): “Nếu xét lịch sử nhân loại thì rõ ràng là các lực lượng sản xuất chiếm ưu thế ở cấp độ phân tích sau cùng. Các hình thái kinh tế, như Marx nói, có tính ‘nhất thời và lịch sử’, tức ở thế phụ thuộc phổ biến đối với các lực lượng sản xuất”.

[107] Jean-Pierre Terrail (sđd., tr. 108): “Người ta không thể quy giản một phương thức sản xuất vào đặc trưng công nghệ hay xã hội học của nó, nếu không thì sẽ rơi vào cách đặt vấn đề duy cơ học [problématique mécaniste] về tính quy định sau cùng [détermination ultime]. Người ta cũng không thể phán đoán trước trọng lượng tương đối của mỗi yếu tố và lô-gích riêng của chúng trong một trạng huống lịch sử cụ thể, bởi chỉ sự phân tích cụ thể mới có thể quyết định”.

[108] Arnaud Berthoud (sđd., tr. 41, 127 và 129) đề xuất cách phân tích này để khảo cứu khái niêm về lao động có tính sản xuất, trong đó “tính quy định chung không ngừng ám ảnh tính quy định đặc thù và tất cả những gì nó dẫn đến”.

[109] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 194].

[110] “Lao động xã hội phổ biến không biểu hiện trong người lao động mà trong tư bản. Sức sản xuất của xã hội được đo lường bằng tư bản cố định, nó tồn tại trong tư bản cố định dưới hình thái vật hóa. (…) Do vậy, khối lượng và hiệu lực (cường độ) của sự phát triển tư bản với tính cách là tư bản cố định, chứng tỏ mức độ phát triển tư bản với tính cách là tư bản, với tính cách là quyền thống trị lao động sống, và nói chung chứng tỏ mức độ tư bản chi phối quá trình sản xuất”. Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 186-187].

[111] Cần phân biệt trong các văn bản của Marx những văn bản phân tích xu thế giảm của tỷ suất lợi nhuận và những văn bản phân tích biến động thực tế của tỷ suất lợi nhuận trong quá trình tích lũy tư bản. Xu thế giảm của tỷ suất lợi nhuận được phân tích ở một cấp độ trừu tượng hóa không cho phép giải thích sự sụt giảm của tỷ suất lợi nhuận trong khủng hoảng. Theo Marx, xu thế giảm tỷ suất chỉ ra mâu thuẫn trong sự phát triển tư bản chủ nghĩa của lực lượng sản xuất, là mâu thuẫn mà tư bản phải liên tục vượt qua để tái sản xuất, và thực tế nó vượt qua thông qua các cuộc khủng hoảng định kỳ. Nếu xu thế giảm tỷ suất lợi nhuận mà đồng nghĩa với một sự biến động thực tế của tỷ suất lợi nhuận - cho dù là trong dài hạn đi nữa -, thì tư bản đã biến mất từ lâu rồi. Bàn về vấn đề này đòi hỏi trước tiên phải phân biệt các cấp độ trừu tượng hóa của khái niệm tư bản - quan hệ giai cấp tư bản chủ nghĩa và quan hệ canh tranh tư bản chủ nghĩa - như Marx nhấn mạnh trong Quyển III Tư bản [1864-1865, tr. 276-277]. Xem cuộc thảo luận giữa Christian Barrère, Gérard Kébabjian, Olivier Weinstein (Lỉre la crise, nxb PUF, 1983, tr. 118) và Alain Lipietz (“Derrière la crise: la tendance à la baisse du taux de profit”, Revue économique, tháng 5 1982).

[112] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 238].

[113] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 194].

[114] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 193-194].

[115] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 193, 199 và 196].

[116] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 104].

[117] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 101-102]. Xem thêm [tr. 104-105].

[118] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 199]. Xem thêm [tr. 102].

[119] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 199-200]. Xem thêm [tr. 104-105].

[120] “Chủ nghĩa cộng sản - theo nghĩa của Marx trong Hệ tư tưởng Đức [1846, tr. 33] - không phải là một trạng thái cần phải tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra.”

[121] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 95].

[122] Xem Henri Maler, Convoiter l’impossible, nxb Albin Michel, 1995, tr. 148-151. Tác giả, một mặt, nhấn mạnh trên sự tồn tại ở Marx của một cách hiểu sự phủ định tư bản như sự thống nhất giữa tất yếu [nécessité] và khả năng [possibilité]: tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa cộng sản không có nghĩa gì khác ngoài tính tất yếu của khả năng về chủ nghĩa cộng sản. Phép biện chứng của Marx đi từ phân tích các mâu thuẫn của tư bản để rút ra “những xu hướng tất yếu mà không hứa hẹn sự hiện thực hóa của chúng” [tr. 300]. Mặt khác, Maler ghi nhận sự máy móc hóa [mécanisation] phép biện chứng của tác giả Tư bản mỗi khi Marx “bị cám dỗ, chỉ từ khả năng của chủ nghĩa cộng sản mà kết luận tính tất yếu hiện thực hóa của nó” [tr. 140].

[123] E. Balibar, sđd., tr. 188.

[124] Luận đề mà A.D Magaline (sđd., tr. 63-64) giữ lấy.

[125] Thư gửi Kugelmann ngày 17 tháng 3 1868, Những lá thư viết về bộ Tư bản [1845-1895, tr. 201].

[126] Tính hai mặt của giá trị sử dụng hàng hóa, tính bất khả quy giá trị sử dụng vào cương vị vật mang giá trị, kích thước vật có ích không thể thủ tiêu của giá trị sử dụng, đó là những điều Jean Baudrillard không nắm lấy khi tác giả cho rằng sự thâu gồm giá trị sử dụng vào giá trị là một sự hội nhập hoàn toàn và tuyết đối trong đó giá trị sử dụng chỉ là “mô hình giả vờ” của giá trị (J. Baudrillard, Pour une critique de l’économie politique du signe, nxb Gallimard, 1979, tr. 165). Nếu còn tồn tại những mâu thuẫn thì đó là “mâu thuẫn mà chức năng bị sáp nhập và vô hiệu hóa” bởi phương thức tiêu dùng. Trong điều kiện đó, các lực lượng sản xuất “không còn đặt ra vấn đề cho hệ thống: chúng là những giải đáp đã được dự đoán, và hệ thống kiểm soát sự trồi dậy của chúng” (Le miroir de la production, sđd., tr. 107).

[127] A. Lipietz, Crise et inflation, pourquoi?, sđd., tr. 365, 353 và 38.

[128] A. Lipietz, sđd., 34. Song, khó có thể chia sẻ phân tích của tác giả về mâu thuẫn căn cứ vào luận điểm maoít về sự chuyển đổi mâu thuẫn đối kháng thành mâu thuẫn phi đối kháng và ngược lại, tùy theo hoàn cảnh (sđd., tr. 30). Vả lại, vấn đề là làm sao có thể dung hòa về lý luận một phân tích chăm chú phân biệt tính hai mặt tái sản xuất - đoạn tuyệt trong mâu thuẫn, với một luận điểm chuyển đổi hồ đồ mặt này thành mặt kia tùy theo tình huống.

[129] Phê phán triết học pháp quyền của Hegel [1843a, tr. 101 và 129].

[130] Bản thảo 1844, [1844, tr. 132].

[131] Phê phán triết học pháp quyền của Hegel [1843a, tr. 148].

[132] Bản thảo 1844 [1844, tr. 141 và 144].

[133] Bản thảo 1844 [1844, tr. 139-141].

[134] Bản thảo 1844 [1844, tr. 133].

[135] Bản thảo 1844 [1844, tr. 142-143 và 140].

[136] Gia đình thần thánh [1845, tr. 226].

[137] Phê phán triết học pháp quyền của Hegel [1843a, tr. 140].

[138] Phê phán triết học pháp quyền của Hegel [1843a, tr. 93 và 142].

[139] Phê phán triết học pháp quyền của Hegel [1843a, tr. 145-146].

[140] Xem Lucien Sève (L. Sève, Une introduction à la philosophie marxiste, nxb Editions Sociales, 1980, tr. 504 và tiếp) nhấn mạnh “sự đồng nhất của đảo ngược duy vật và khám phá tính đối kháng” của mâu thuẫn trong các tác phẩm thời Marx trẻ.

[141] Bản thảo 1844 [1844, tr. 87].

[142] Phê phán triết học pháp quyền của Hegel [1843a, tr. 207 và 205].

[143] Gilbert Faccarello, Travail, valeur et prix, thèse Université Paris X, 1979, tr. 403 và 447.

[144] Gilbert Faccarello dựa vào cách Lucio Colletti đọc Phê phán triết học pháp quyền của Hegel để nhấn mạnh trên sự tồn tại của phép đối lập hiện thực [opposition réelle], phi biện chứng trong văn bản của Marx (G. Faccarello, sdd., tr. 448). Bản thân Lucio Colletti đã căn cứ vào phép đọc của Galvano Della Volpe để cho rằng, trong văn bản 1843 của Marx, những sự đối lập trong chủ nghĩa tư bản là đối lập phi mâu thuẫn, đó là những phi-mâu thuẫn. Về sau, L. Colletti đã xét lại diễn giải ấy và cho rằng những sự đối lập do Marx phân tích trong Tư bản - một cách không thể chối cãi - thuộc về mâu thuẫn biện chứng, với tính cách là chúng chỉ ra những thực tế tha hóa; tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật cũng như khoa học đều tiền giả định sự phi-mâu thuẫn và loại trừ phạm trù về mâu thuẫn. (L. Colletti, Politique et philosophie, nxb Galilée, 1975, tr. 40-41 và 94-97).

[145]

[146] Quy chiếu đến những phân tích về quá trình chu kỳ của tư bản, Henri Denis đã có thể nói về “sự cám dỗ Hegel cuối cùng của Marx”, thậm chí nói về “sự ăn năn hối lỗi của tác giả Tư bản khi biên tập Quyển II” (H. Denis, L’Economie de Marx, nxb PUF, 1980, tr. 193).

[147] L. Sève, sđd., tr. 504 và tiếp.

[148] E. Balibar, “A nouveau sur la contradiction”, trong CERM, Sur la contradiction, nxb Editions Sociales, 1977, tr. 43-44, 46 và 55.

[149] Trong một bức thư gửi Lucio Colletti, Louis Althusser bảo vệ việc sử dụng phạm trù mâu thuẫn để nghiên cứu khoa học chủ nghĩa tư bản, và phê phán phạm trù của Kant về đối lập hiện thực, đưa đến chỗ một bên thủ tiêu bên kia, hoặc hai bên cân bằng nhau. Bàn về sự đối lập giữa tư bản và lao động làm thuê, Althusser cho rằng: “Trong tranh chấp, hai lực lượng phải gắn chặt nhau để cuộc tranh chấp, thay vì đưa đến tiêu hủy một lực lượng hay đi đến chỗ hai lực lượng triệt tiêu nhau, thì tái sản xuất hai lực lượng trong chính sự tranh chấp của họ. Do đó, phải có thống nhất trong phân chia, phân chia trong thống nhất, thống nhất và phân chia là một. Gọi điều đó là gì, nếu không phải là mâu thuẫn?” (trích dẫn trong Jean-Pierre Potier, Lectures italiennes de Marx, nxb PUL, tr. 337-338). Có thể nhận xét rằng diễn giải của Althusser, ở đây, nhấn mạnh khía cạnh tái sản xuất của tư bản (phi đối kháng) mà bỏ qua khía cạnh phủ định (đối kháng), điều này có thể giải thích khi khía cạnh kép của mâu thuẫn không được đặc trưng rõ ràng.

[150] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 142-143].

[151] Xem ở trên § 512.

[152] Xem ở trên § 611.

[153] Bruno Lautier, Ramon Tortajada, Ecole, forces de travail, salariat, nxb Maspéro/PUG, 1978, tr. 109 và tiếp.

[154] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 211-212 và 214-215].

[155] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 188].

[156] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 185].

[157] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 189].

[158] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 403-404; 230].

[159] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 403-404].

[160] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 228].

[161] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 213-214].

[162] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 404].

[163] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 214].

[164] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 228]. Điều này được Jon Elster xác đáng nêu lên, nhưng trong một cách đọc Marx khác hẳn theo diễn giải của học thuyết Marx phân tích [marxisme analytique] (J. Elster, Karl Marx. Une interpretation analytique, nxb PUF, 1989, tr. 290). Theo Elster, “trong quan niệm của Marx, sự tự do của người lao động chỉ quý báu đối với nhà tư bản; và Marx đã không nhấn mạnh rằng sự tự do ấy là một thành quả tự nó quý báu (bởi tránh khỏi sự thống trị của kẻ khác là một điều tốt tự nó)” (tr. 289). Đánh giá này không mấy chính xác vì quên rằng chính Marx đã xác lập khái niệm về “người lao động tự do” đối lập với người lao động phi tự do trong các hình thái sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa, và đã dành nhiều trang của Bản thảo 1857-1858Chương VI chưa công bố cho chủ đề đó. Điều chính xác là trong phép trình bày của Tư bản, các nhận định về sự tự do hình thức của người lao động làm thuê ít được triển khai và thường nằm ở phân tích tái sản xuất tư bản hơn là ở vượt bỏ tư bản.

[165] Tư Bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 198].

[166] Về vấn đề Do Thái [1843b, tr. 365-366 và 369]. Trong một văn bản cùng thời kỳ, Engels phân tích sự vận hành các “quyền công dân” ở Anh và đi đến kết luận tương tự, theo đó “tính công bằng dân chủ là một ảo tưởng”. Trong những quyền tự do chính trị mà Engels xem xét có tự dó báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, quyền Habeas Corpus… (Vorwärt!, 19 tháng 10 1844, trong Le syndicalisme, nxb Maspéro, 1972, t. 2, tr. 211 và tiếp theo).

[167] “Thay cho bản mục lục tráng lệ về ‘các quyền bất khả chuyển nhượng của con người’, đã xuất hiện một bảng Magna Charta (Đại hiến chương) khiêm tốn về ngày lao động do luật pháp giới hạn và đã cuối cùng chỉ rõ khi nào thời gian mà người lao động bán đi đã chấm dứt, và khi nào thì bắt đầu thời gian thuộc về bản thân họ. Quantum mutates ab illo! (Thật là khác trước biết bao!)”. Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 338].

[168] “Như ta thấy, chỉ vạn bất đắc dĩ và do sức ép của quần chúng, Nghị viện Anh mới chịu từ bỏ những đạo luật chống bãi công và chống các tổ chức công liên [trade union] - sau khi chính Nghị viện ấy, trong suốt năm trăm năm, với một sự ích kỷ vô sỉ, đã giữ địa vị một tổ chức công liên thường trực của các nhà tư bản nhằm chống lại công nhân”. Còn giai cấp tư sản Pháp thì “bằng sắc lệnh ngày 14 tháng 6 1791, tuyên bố rằng tất cả các hành động liên kết công nhân [coalition ouvrière] đều ‘xâm phạm quyền tự do và bản tuyên ngôn nhân quyền’, một tội bị xử phạt 500 li-vrơ và bị tước quyền công dân trong một năm”. (…) Chỉ đến gần đây, sắc lệnh này mới bị xóa khỏi Bộ luật hình [luật 25 tháng 5 1864]”. Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 833-834].

[169] “Chúng ta hãy lưu ý rằng giá trị của sức lao động này 'đại diện tiền lương tối thiểu đối với chính người lao động, và đối với nhà tư bản là tiền lương đồng nhất và bình đẳng cho tất cả công nhân trong doanh nghiệp'. (...) Chúng ta hiểu rằng các nhà tư bản lên án tiền lương đồng nhất này là sự tấn công vào quyền tự do cá nhân của người lao động”. Chương VI chưa công bố [1864, tr. 280].

[170] Tư bản Quyển I, bản 1875 [1875, t. 3, tr. 16 và 20]; bản 1890 [1890, tr. 643-644]. Xem thêm, tr. 688.

[171] Chương VI chưa công bố [1864, tr. 77]. Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 436].

[172] Tư bản Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 188].

[173] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 224].

[174] Bruno Théret, Régime économique de l’ordre politique, nxb PUF, 1992, tr. 84.: “Phạm trù sức lao động đại biểu con người cá nhân tách ly sức lao động của mình, và do đó có thể chuyển nhượng sự độc lập hiện thực của mình ở cấp độ kinh tế, mà vẫn tưởng tượng rằng mình tự do ở cấp độ chính trị”.

[175] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 445]. Tư bản Quyển I, bản 1875 [1875, t. 3, tr. 175 và 178]. Văn bản này nhắc lại rằng ở nước Pháp, “cho đến đầu triều vua Louis XVI (đạo dụ ngày 13 tháng 7 1777), bất cứ một người mạnh khỏe nào từ 16 đến 60 tuổi mà không có phương tiện sinh sống và không làm một nghệ nhất định thì bị đưa đi lao động khổ sai”.

[176] Tư bản Quyển I, bản 1875 [1875, t. 3, tr. 178]; Chương VI chưa công bố [1864, tr. 206]; Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 226].

[177] Benard Drugman, Etat, capital et salariat (these Université de Grenoble, 1979, tr.193): “Để người lao động đăng ký “một cách tự do” vào quan hệ tư bản chủ nghĩa, cần có trước tiên - từ ở “khởi điểm” - một quan hệ cưỡng chế mang “tính phi kinh tế”. Nhưng sự thiết lập điều kiện lịch sử này vẫn chưa đủ, mà còn phải tái sản xuất nó một cách thường trực”.

[178] Tư bản Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 829].

[179] Xem ở trên, mục § 512.

[180] Hệ tư tưởng Đức [1846, tr. 320].

[181] Tư bản Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 295 và tiếp (cuộc đấu tranh cho ngày lao động tiêu chuẩn); tr. 540 và tiếp (pháp chế công xưởng); tr. 829 và tiếp (đạo luật tiền công, hợp đồng lao động, liên kết công nhân). Cần nhấn mạnh rằng tự do hình thức chính yếu là tự do chính trị hơn là tự do buôn bán, bởi người lao động làm thuê với tính cách cá nhân không thể phó thác vào “một hợp đồng tự do” buôn bán với nhà tư bản, mà phải vận dụng các quyền tự do chính trị và một cách tập thể áp đặt “một đạo luật nhà nước” đối với giai cấp tư bản: “công nhân phải hợp nhất lại và với tư cách là một giai cấp, họ buộc nhà nước ban hành một đạo luật để làm một chướng ngại xã hội ngăn chặn ngay chính bản thân họ, thông qua một hợp đồng tự do với tư bản, tự bán mình và bán nòi giống mình vào chỗ chết chóc và nô lệ” [tr. 338].

[182] Jacques Bidet (J. Bidet, Théorie générale, nxb PUF, 1999, tr. 108) nêu lên rõ tính đôi chiều của cương vị người lao động làm thuê bằng cách phân biệt sự vận động chuyển hóa kép “hàng hóa hóa” - “phi hàng hóa hóa” [marchandisation - démarchandisation] của sức lao động. “Hàng hóa hóa sức lao động”, tức chuyển hóa sức lao động thành hàng hóa, đưa tới sự chiếm đoạt sản phẩm thặng dư dưới hình thái hàng hóa, tức thông qua mối quan hệ trao đổi hàng - tiền; nó tương ứng với lô-gích thống trị người lao động của chủ nghĩa tư bản. “Phi hàng hóa hóa sức lao động”, tức chuyển hóa sức lao động thành phi hàng hóa, đưa đến sự phân bố giá trị giá tăng không theo quan hệ trao đổi hàng hóa; nó tương ứng với với lô-gích của người lao động tự do, có khả năng liên hiệp lại để hiện thực hóa các quyền tự do của chế độ cộng hòa. Người ta đo sự phi hàng hóa hóa của sức lao động ở năng lực của người lao động làm thuê phản kháng quyền lực của giai cấp tư bản và năng lực của họ tác động đến cấp độ trung ương của xã hội, là nhà nước: theo nghĩa đó, “thân phận hàng hóa do vậy không phải là một địa vị trong đó người làm thuê bị giam cầm” (J. Bidet, Théorie de la modernité, nxb PUF, 1990, tr. 81).

[183] Trong Đấu tranh giai cấp ở Pháp [1850, tr. 81], Marx nhấn mạnh tính đôi chiều này của quyền chính trị khi nói về “quyền lao động” [droit au travail], tức là quyền được lao động, ghi trong bản dự luật đầu tiên của Hiến pháp 1848: “Quyền được lao động, theo ý nghĩa tư sản, là một điều vô nghĩa, một ước mong hão huyền, đáng thương hại, nhưng thực ra thì đòi hỏi đằng sau quyền được lao động là quyền khống chế lại đối với tư bản, cái đằng sau quyền khống chế đối với tư bản này là sự chiếm hữu lại tư liệu sản xuất, đặt các tư liệu sản xuất đó dưới sự chi phối của giai cấp công nhân đã liên hiệp lại, nghĩa là việc xóa bỏ lao động làm thuê, xóa bỏ tư bản và những quan hệ qua lại giữa lao động làm thuê và tư bản”. Sau cuộc nổi dậy tháng 6 1948, “quyền lao đồng” này bị bác bỏ ra khỏi Hiến pháp (nó chỉ được ghi vô Hiến pháp nước Pháp vào năm 1946).

[184] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 439-441].

[185] Đánh giá lại phân tích của Marx về mâu thuẫn, tác phẩm sau cùng của Balibar (E. Balibar, La philosophie de Marx, nxb La Découverte, 1993, tr. 98-100) triển khai một phép phân tích gần cạnh: “Sức lao động kháng cự và có xu hướng thoát ra khỏi cương vị thuần túy hàng hóa mà lô-gích của tư bản áp đặt. Điểm đến lý tưởng của lô-gích ấy là (…) sự tồn tại của một người lao động hoàn toàn bị chi phối bởi những yếu cầu của tư bản (độ lành nghệ hay phi lành nghệ, thất nghiệp hay lao động quá sức, khắc khổ hay tiêu dùng cưỡng bức, tùy theo trường hợp). Chuyển hóa sức lao động thành hàng hóa bao giờ cũng để lại “một sự dư thừa không thể nén được” và chính là tính bất khả thi vật chất này khiến sự đảo ngược xu thế tư bản chủ nghĩa trở nên tất yếu, bất luận nó xảy đến lúc nào”.

----

CHÚ THÍCH: Lưu ý của tác giả-dịch giả



[1] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 74].

[2] Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, tr. 15].

[3] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 53].

[4] Hệ tư tưởng Đức [1846, ấn bản tiếng Pháp sau cùng năm 2014 của nxb Editions Sociales, tr. 195, 197]. Trong các ấn bản trước của nhà xuất bản này, “subsumtion” còn được chuyển ngữ tiếng Pháp là “subordination” [sự phụ thuộc] [ấn bản 1967, tr. 62].

[5] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 571]. Chương VI. Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, ấn bản tiếng Pháp sau cùng năm 2010 của nxb Editions Sociales, tr. 30]. Trong ấn bản trước đó của nxb UGE, “subsumtion” còn được chuyển ngữ tiếng Pháp là “soumission” [sự phục tùng] [ấn bản 1971, tr. 191].

[6] Tư bản, Quyển 1, bản 1875 [1875, t.1, tr. 62].

[7] Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1867 [1867/1890a, tr. 53, bản in 1977 nxb Cerf]. Tư bản, Quyển 1, bản 1890 [1890, tr. 54, bản in 1983 nxb Editions Sociales].

[8] Tư bản, Quyển 1, bản 1890 [1890, tr. xii và 51, bản in 2016 nxb Editions Sociales].

Print Friendly and PDF