4.7.15

Mỏ vàng cộng đồng hải ngoại

Ricardo Hausmann (1956-)

Mỏ vàng cộng đồng hải ngoại

CAMBRIDGE - Nhiều quốc gia có nhiều cộng đồng hải ngoại lớn đáng kể, nhưng không nhiều quốc gia tự hào về điều đó. Nói chung, con người có xu hướng rời một đất nước khi nó không tốt, vì vậy, các cộng đồng hải ngoại thường là một lời nhắc nhở về những khoảnh khắc đen tối của một quốc gia.
El Salvador, Nicaragua, và Cuba, là ba ví dụ, có hơn 10% dân số bản địa sống ở hải ngoại vào năm 2010. Và con số ấy chưa kể đến con cháu của họ. Phần lớn các cuộc di cư này diễn ra vào một thời điểm nội chiến hoặc cách mạng. Ở những nơi khác, các cuộc di cư khổng lồ diễn ra trong bối cảnh thay đổi chính trị, như ở châu Âu khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ.
Mối quan hệ giữa các cộng đồng hải ngoại và quê hương của họ thường xoay quanh một bảng màu rộng lớn về cảm xúc, bao gồm sự mất lòng tin, sự oán giận, sự ghen tị, và sự thù hận. Nói một cách thông tục, người ta mô tả các cuộc di cư như một giai đoạn mà theo đó một quốc gia "mất đi" một tỷ lệ dân số nhất định.
Nhưng những người đã rời bỏ đất nước không biến mất. Họ vẫn sống và tham gia hoạt động xã hội. Kết quả là, họ có thể trở thành một tài sản vô giá không chỉ cho đất nước họ đến mà còn, và quan trọng hơn, cho đất nước xuất xứ của họ.
Một kết nối quan trọng là các khoản kiều hối, chiếm khoảng 500 tỷ USD mỗi năm trên toàn thế giới. Những quốc gia tiếp nhận kiều hối lớn nhất là Ấn Độ, Mexico và Philippines. Đối với những quốc gia như Armenia, El Salvador, Haiti, Honduras, Jamaica, Kyrgyzstan, Lesotho, Moldova, Nepal, và Tajikistan, số kiều hối mà người dân ở hải ngoại chuyển về tương đương với hơn một phần sáu thu nhập quốc dân – một con số thường vượt cả số tiền xuất khẩu. Và số tiền đó có thể làm được rất nhiều việc tốt, như Dilip Ratha thuộc Ngân hàng Thế giới đã nêu bật.
Philip Curtin (1922-2009)
Nhưng tầm quan trọng tiềm tàng về kinh tế của cộng đồng hải ngoại vượt cao hơn các khoản kiều hối. Như cố sử gia Philip Curtin đã dẫn chứng bằng tài liệu, từ sự khởi đầu của cuộc sống đô thị, nhiều thiên niên kỷ trước, các giao dịch thương mại thường liên quan đến các mạng lưới thương gia thuộc các kiều dân cùng sắc tộc sống chung với người nước ngoài. Người Hy Lạp, người Phoenicia, các nhà buôn xuyên sa mạc Sahara, những người thuộc liên minh Hanse, người Do Thái, người Armenia, người Hoa ở hải ngoại, và các công ty Đông Ấn của Hà Lan và Anh đã tổ chức nhiều giao dịch thương mại trên thế giới thông qua các mạng lưới trên. Mặc dù các thương gia nước ngoài đôi khi rất mạnh về chính trị ở các nước tiếp nhận họ, nhưng thường họ không đủ mạnh và phải đối mặt với sự phân biệt đối xử.
Avner Greif (1955-)
Nhà kinh tế Avner Greif lập luận rằng độ lâu bền và kiên cường qua lịch sử của các mạng cộng đồng sắc tộc phản ánh khả năng tôn trọng các hợp đồng từ xa khi các khuôn khổ thể chế sẵn có không thể làm được như vậy một cách chắc chắn. Họ có thể thiết lập niềm tin giữa các nhà xuất khẩu và nhập khẩu bởi vì họ có thể trừng phạt các hành vi mang tính cơ hội. Đối với một cộng đồng chặt chẽ, cái giá về uy tín và các hình thức trừng phạt xã hội khác vượt giới hạn địa lý: không thanh toán tiền hàng có nghĩa là không có khả năng cưới hỏi cho con cái của mình.
Từ đó các thể chế pháp lý đã tiến hóa để thúc đẩy thương mại lạnh lùng khách quan. Các nhà xuất khẩu và nhập khẩu không còn cần phải biết nhau, bởi vì họ có thể viết một hợp đồng có hiệu lực ràng buộc với một tòa án.
Hillel Rapoport
Và tác động của mạng lưới cộng đồng cùng sắc tộc còn có thể quan trọng hơn thế nữa. Như Hillel Rapoport thuộc Trường Kinh tế Paris và các đồng tác giả đã chỉ ra, khi kiểm soát các yếu tố quyết định khác của thương mại, các quốc gia giao dịch nhiều hơn, và đầu tư nhiều hơn, với cộng đồng hải ngoại của nước nhà. Trong một công trình gần đây cùng với Dany Bahar, Rapoport cũng chỉ ra rằng các nước trở nên tốt hơn khi sản xuất ra những sản phẩm mà nước nhà của những người di cư rất giỏi sản xuất.
Tôi diễn giải những kết quả trên như là hệ quả của kiến ​​thc ngm hay bí quyết. Để làm được việc, bạn cần phải biết cách làm như thế nào, và bí quyết này chủ yếu mang tính vô thức. Nói chung, hầu hết chúng ta đều biết cách đi xe đạp, nhưng chúng ta không thực sự quan tâm đến những gì bộ não chúng ta làm để đạt được kỳ công đó, hoặc làm thế nào để phát triển khả năng đó thông qua thực hành.
Bí quyết ấy di chuyển theo địa lý trong não của những người sở hữu nó và được chuyển giao cho người khác tại nơi làm việc. Đó là lý do tại sao các món ăn dân tộc được truyền bá qua các cộng đồng hải ngoại, chớ không phải qua các sách dạy nấu ăn. Và cũng có thể là lý do tại sao các nền kinh tế có nhiều cộng đồng di dân thường hoạt động tốt hơn. Ngoài ra, những người hồi hương thường là một nguồn quan trọng các kỹ năng mới cho một quốc gia. Trong một công trình hiện đang tiến hành, Ljubica Nedelkoska thuộc Trung tâm phát triển quốc tế của Đại học Harvard đã cho rằng tiền lương của những người Albania chưa bao giờ bỏ xứ có xu hướng tăng khi người di cư hồi hương.
Bằng chứng về tầm quan trọng của cộng đồng hải ngoại có ở khắp mọi nơi, nếu bạn muốn tìm xem. Franschhoek (một vùng cư dân gốc Pháp ở Nam Phi) là một thung lũng xinh đẹp gần Cape Town được người Huguenots (người Tin lành Pháp –ND) thành lập vào cuối thế kỷ XVII. Đó là lý do tại sao, cho đến ngày nay, các loại rượu vang vẫn được sản xuất tại đây.
Tương tự như vậy, Joinville là một thành phố ở miền nam Brazil được những người Đức tương đối ít học thành lập vào cuối thế kỷ XIX. Do các mối liên kết văn hóa mà họ và con cháu của họ đã duy trì với mẫu quốc trong hơn 120 năm, thành phố nổi tiếng về những sản phẩm được sản xuất với công nghệ tiên tiến, những thứ chưa được phát minh khi người di cư đến đó. Morocco đầy rẫy các tổng đài nói tiếng Pháp có quan hệ hợp đồng thông qua một doanh nghiệp có quan hệ họ hàng ở Paris.
Quá trình công nghiệp hóa ở Đông Á khai thác các liên kết được mạng lưới những người Trung Quốc hải ngoại tạo ra. Các ngành công nghiệp công nghệ cao của Ấn Độ phần lớn được tạo ra bởi những người di cư hồi hương và được kết nối sâu sắc với cộng đồng hải ngoại. Israel là một quốc gia hoàn toàn được tạo ra bởi cộng đồng hải ngoại, và sự phát triển mạnh của ngành công nghệ cao cũng hưởng lợi từ các mối quan hệ bền vững ấy. Ngược lại, nhiều nước Mỹ Latinh có cộng đồng hải ngoại lớn khổng lồ ở nước ngoài, nhưng chỉ có vài câu chuyện thành công tương ứng.
Cộng đồng hải ngoại của một quốc gia, và cộng đồng người nước ngoài mà quốc gia ấy tiếp nhận, có thể là một tài sản rất lớn cho sự phát triển của quốc gia đó. Cộng đồng hải ngoại không phải là những gusanos hay sâu bọ, như Fidel Castro đề cập khi nói đến những người Cuba ở hải ngoại. Họ là một kênh mà qua đó không chỉ có dòng chảy kiều hối, mà còn là dòng chảy của rất nhiều kiến ​​thc ngm, và là mt ngun cơ hi tim năng để giao dch thương mi, đầu tư, đổi mi, và trao đổi các mng chuyên môn.
Nhưng một cộng đồng hải ngoại chỉ có thể làm điều kỳ diệu về kinh tế khi được nước tiếp đón chấp nhận và được nước xuất thân của họ đánh giá cao. Các chính phủ cần có một chiến lược về cộng đồng hải ngoại, được xây dựng trên những cảm nhận tự nhiên về bản sắc và tình cảm để nuôi dưỡng mạng lưới xã hội này như một nguồn tiến bộ kinh tế mạnh mẽ.
Ricardo Hausmann, cựu Bộ trưởng Bộ Kế hoạch của Venezuela và cựu trưởng kinh tế gia của Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, là giáo sư của dự án Thực hành phát triển kinh tế tại Đại học Harvard, nơi ông cũng là Giám đốc Trung tâm Phát triển Quốc tế. Ông là Chủ tịch của Hội đồng Global Agenda Meta-Council thuộc Diễn đàn Kinh tế Thế giới về tăng trưởng hòa nhập.
Ricardo Hausmann
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
Nguồn: “The Diaspora Goldmine”, Project Syndicate, June 29, 2015
-------
Bài có liên quan trên PTKT:
Print Friendly and PDF