Vâng, kinh tế học là một khoa học
Raj Chetty
CAMBRIDGE, Mass. – Đang tồn tại một lời
than vãn cũ kỹ về nghề nghiệp của tôi: nếu bạn hỏi
ba nhà kinh tế học cùng một câu hỏi, bạn sẽ nhận được ba câu trả lời khác nhau.
Lời than vãn này đến với tâm trí tôi tuần
trước, khi Giải thưởng về Khoa học kinh tế để tưởng nhớ Nobel được trao cho ba
nhà kinh tế học, hai trong số đó, Robert
J. Shiller của Trường Yale và Eugene F. Fama của Đại học Chicago, có thể
được nhìn nhận là có những quan điểm mâu thuẫn nhau về sự hoạt động của các thị
trường tài chính. Thoạt nhìn, suy nghĩ của ông Shiller về vai trò của “tâm trạng
phấn khởi vô lý” trong thị trường chứng khoán và thị trường nhà ở dường như mâu
thuẫn với nghiên cứu của ông Fama rằng các thị trường trên phản ảnh thông tin mới
vào giá cả một cách rất hiệu quả.
Robert Shiller (1946-) |
Eugene Fama (1939-) |
Loại khoa học gì đây, nhiều người tự hỏi,
tặng thưởng những vinh dự đặc biệt nhất của nó cho các học giả có những ý kiến
đối lập nhau? “Họ cũng nên tạo những giải thưởng cân đối về chính trị trong vật
lý, hóa học và y khoa,” nhà xã hội học Kieran Healy ở Trường Duke châm biếm
trên Twitter.
Nhưng những sự khác biệt dễ thấy trên
tiêu đề các công trình nghiên cứu của nhiều Khôi nguyên Nobel này kém quan trọng
hơn sự thống nhất sâu sắc của cách tiếp cận khoa học của họ về những vấn đề
kinh tế, với đặc trưng là phát biểu và kiểm định những giả thiết chính xác. Tôi
cảm thấy bất an khi những người theo chủ nghĩa hoài nghi gợi ý rằng những sự bất
đồng trong các câu trả lời cho các câu hỏi nhất định hàm ý rằng kinh tế học là
một khoa học rối rắm, một ngụy khoa học mà những phát hiện của nó không thể là
nền tảng vững chắc cho việc đề ra những quyết định về chính sách.
Kieran Healy |
Cách nhìn đó là thiên lệch và không am
hiểu. Nó đặt ra những yêu cầu đối với kinh tế học mà không có ở những ngành
khoa học thực nghiệm khác, như là y học, và nó không biết đến một số công trình
mới nổi - xây dựng dựa trên cách tiếp cận khoa học của các tác giả thắng giải
(Nobel) tuần vừa rồi – đang chuyển hóa kinh tế học thành một lĩnh vực trên nền
tảng thực tế một cách chắn chắn.
Đúng thật là những câu trả lời cho những
vấn đề vĩ mô “bức tranh rộng lớn” – kiểu như những nguyên nhân của các cuộc khủng
hoảng hay những yếu tố quyết định cho tăng trưởng – vẫn còn nằm ngoài tầm với.
Nhưng trong khía cạnh này, những thách thức các nhà kinh tế phải đối mặt không
khác với những thử thách gặp phải trong y học và y tế công cộng. Các nhà nghiên
cứu về y tế đã làm việc hơn một thế kỷ để hiểu được những vấn đề “bức tranh rộng
lớn” về chế độ ăn kiêng và lối sống ảnh hưởng như thế nào đến sức khỏe và tuổi
thọ, tuy thế họ vẫn chưa có được sự hiểu biết khoa học đầy đủ về những mối liên
hệ này. Vài nghiên cứu nói với chúng ta rằng nên sử dụng nhiều cà phê, rượu và
socola; số khác thì lại khuyên ngược lại. Nhưng chỉ ít người sẽ tranh cãi rằng
y học không nên được xem xét như một khoa học hay rằng các bác sĩ không nên ra
những quyết định dựa trên các bằng chứng có sẵn tốt nhất.
Paul Krugman (1953-) |
Janet Yellen (1946-) |
Tương tự như các nhà dịch tễ học, thách
thức chủ yếu phải đối mặt của các nhà kinh tế - và một nguyên nhân gốc rễ của
những sự không đồng thuận trong ngành – là khả năng hạn chế của chúng ta để tiến
hành các thí nghiệm. Nếu chúng ta có thể ngẫu nhiên hóa ra các quyết định chính
sách và sau đó quan sát xem chuyện gì xảy ra với nền kinh tế và cuộc sống của
người dân, chúng ta sẽ có khả năng hiểu biết chính xác nền kinh tế hoạt động
như thế nào và làm sao để cải thiện chính sách. Nhưng những chi phí thực tế và
đạo đức của những thử nghiệm như thế ngăn chặn kiểu tiếp cận này. (Chắc chắn là chúng ta không muốn tạo
nhiều cuộc khủng hoảng tài chính chỉ để hiểu chúng nó hoạt động như thế nào.)
Esther Duflo (1972-) |
David Card (1956-) |
Tuy nhiên, các kinh tế gia vừa bắt đầu
vượt qua những thách thức trên bằng cách phát triển các công cụ tiến gần đến
các thí nghiệm khoa học để tìm ra những câu trả lời có sức thuyết phục cho những
câu hỏi chính sách riêng biệt. Ở những thập kỷ trước, những nhà kinh tế lỗi lạc
nhất tiêu biểu là các lý thuyết gia như
Paul Krugman và Janet L. Yellen, các mô hình của họ tiếp
tục dẫn dắt suy tưởng kinh tế. Ngày nay, các kinh tế gia lỗi lạc nhất lại thường
là các nhà thực nghiệm như David Card của Đại học California, Berkeley, và Esther Duflo
từ Viện Công nghệ Massachusetts, những người tập trung kiểm định các lý thuyết
cũ và công thức hóa những lý thuyết mới sao cho khớp với chứng cứ.
Thể loại công việc thực nghiệm này trong
kinh tế học có thể được so sánh như nghiên cứu chuyên sâu “vi mô” trong y học
(giống như nghiên cứu các liệu pháp chữa bệnh tim) đã có đóng góp cực kỳ to lớn
để tăng tuổi thọ và chất lượng cuộc sống, còn những vấn đề “vĩ mô” về những yếu
tố quyết định đến sức khỏe vẫn còn chưa ngã ngũ.
Hãy xem xét câu hỏi chính trị nhạy cảm của
việc mở rộng trợ cấp thất nghiệp có làm tăng tỷ lệ thất nghiệp hay không do làm
giảm động lực khuyến khích người lao động quay trở lại làm việc. Gần một tá các
nghiên cứu kinh tế học đã phân tích vấn đề này bằng cách so sánh tỷ lệ thất
nghiệp ở những nước đã mở rộng và không mở rộng trợ cấp thất nghiệp. Những
nghiên cứu này gần giống như là các thực nghiệm y khoa trong đó vài nhóm nhận
được điều trị theo một phác đồ - trong trường hợp này, mở rộng trợ cấp thất
nghiệp – trong khi các nhóm “đối chứng” thì không.
Những nghiên cứu như thế này đều phát hiện
ra rằng gia hạn thêm 10 tuần hưởng trợ cấp thất nghiệp làm tăng thời gian trung
bình con người không làm việc khoảng tối đa một tuần. Phát hiện đơn giản, không
thể công kích này ngụ ý rằng các nhà hoạch định chính sách có thể mở rộng trợ cấp
thất nghiệp để cung cấp sự hỗ trợ cho những ai mất việc mà không làm tăng tỷ lệ
thất nghiệp lên đáng kể.
Những nghiên cứu kinh tế khác đã lợi dụng
những hạn chế cố hữu trong một chính sách cụ thể để thu thập các bằng chứng
khoa học. Một ví dụ xuất sắc mới đây thôi liên quan đến bảo hiểm y tế ở Oregon.
Năm 2008, chính quyền Oregon đã quyết định mở rộng chương trình bảo hiểm y tế
chính phủ của họ để bao bọc thêm những cá nhân có thu nhập thấp, nhưng họ có
ngân quỹ chỉ đủ để thanh toán phần nhỏ cho những gia đình đủ điều kiện được hưởng.
Phối hợp với các nhà nghiên cứu kinh tế, chính quyền bang thiết kế một thủ tục
kiểu xổ số qua đó những cá nhân đã nhận được bảo hiểm có thể so sánh được với
những ai không nhận, trong thực tế tạo ra một thí nghiệm ngẫu nhiên có chất lượng.
Nghiên cứu đã tìm ra rằng mở rộng đối tượng
bảo hiểm đã làm tăng việc chăm sóc sức khỏe, giảm căng thẳng tài chính và cải
thiện phúc lợi – những kết quả mà nay cung cấp sự hướng dẫn vô giá để hiểu được
những gì chúng ta mong đợi từ Đạo luật Chăm sóc sức khỏe hợp túi tiền.
Ngay cả khi những thí nghiệm này không
tiến hành được, cũng có nhiều cách để sử dụng “dữ liệu lớn” giúp làm sáng tỏ những
câu hỏi về chính sách. Trong một nghiên cứu tôi làm với hai đồng nghiệp, chúng
tôi đã phân tích những tác động của giáo viên tiểu học chất lượng cao đến thành
quả của học sinh họ dạy như là những người trưởng thành. Bạn có thể nghĩ rằng gần
như là không thể phân tách tác động nhân quả của một giáo viên loại ba trong
khi xem xét hết tất cả các yếu tố khác ảnh hưởng đến thành công cả cuộc đời của
một đứa trẻ. Song chúng tôi có thể phát triển những phương pháp để nhận diện
tác động nhân quả của những giáo viên bằng cách so sánh những học sinh thuộc
các nhóm liên tiếp nhau trong cùng một trường. Giả sử, ví dụ, rằng một giáo
viên xuất sắc dạy học sinh loại ba trong một trường cho trước năm 1995 nhưng
sau đó lại nghỉ thai sản năm 1996. Từ giai đoạn nghỉ thai sản của giáo viên về
sau cơ bản là một sự kiện ngẫu nhiên, bằng cách so sánh thành tích của những học
sinh những người đã học tập để đạt được loại ba năm 1995 so với năm 1996, chúng
ta có thể cô lập và tìm ra được những tác động nhân quả của chất lượng giáo
viên lên thành tích học sinh.
Sử dụng một bộ dữ liệu với các hồ sơ vô
danh trên 2,5 triệu học sinh, chúng tôi đã tìm ra là những giáo viên chất lượng
cao cải thiện thành tích học tập của học sinh họ dạy trên những phép thử tiêu
chuẩn và, quan trọng hơn, làm tăng thu nhập của học sinh – (trong tương lai) và
tỷ lệ ghi danh vào đại học, và làm giảm rủi ro có thai ở lứa tuổi vị thành niên
của học sinh. Những kết quả này, kể từ khi được kiểm chứng ở những khu vực trường
học khác, đã cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách hướng dẫn làm thế nào để
đo lường và cải thiện chất lượng giáo viên.
Những ví dụ này không có gì bất thường.
Và giống như sự sẵn có của dữ liệu ngày càng tăng, kinh tế học sẽ tiếp tục trở
thành một lĩnh vực có tính khoa học, tính thực nghiệm. Trong lúc đó, thật là
quá giản đơn và vô trách nhiệm khi sử dụng những bất đồng giữa các nhà kinh tế
trên một số ít các vấn đề khó như là cái cớ để bỏ qua sự đồng thuận trên nhiều
chủ đề của lĩnh vực và khả năng của nó để thông qua các quyết định chính sách
trên nền tảng chứng cứ thay vì ý thức hệ.
Raj
Chetty là giáo sư kinh
tế tại Harvard
Nguyễn Vũ
Hoàng dịch
Nguồn: Yes,
Economics Is a Science, New York Times, October 20, 2013