14.10.16

Hai giáo sư Đại học Harvard, MIT đã được trao giải Nobel kinh tế vì nghiên cứu về lý thuyết hợp đồng



Hai giáo sư Đại học Harvard, MIT đã được trao giải Nobel kinh tế vì nghiên cứu về lý thuyết hợp đồng

Lễ công bố người đoạt Giải Nobel về kinh tế học, tên gọi chính thức là Giải thưởng của ngân hàng Riksbank Sveriges về khoa học kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel. (Ảnh: Stina Stjernkvist/TT via AP/Reuters).
Oliver Hart thuộc Đại học Harvard và Bengt Holmström thuộc Đại học MIT đã được trao giải thưởng Nobel 2016 về khoa học kinh tế vào hôm thứ hai vì các công trình của họ về lý thuyết hợp đồng, nghiên cứu về cách thức con người có thể đạt được các thỏa thuận một cách hiệu quả.
Những đóng góp của họ đã định hình cách suy nghĩ trong một loạt các lĩnh vực, từ pháp luật đến kinh tế học cho đến khoa học chính trị, gây ảnh hưởng đến cách thức các học giả suy nghĩ về các mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động, giữa các doanh nhân và nhà đầu tư, và giữa người cai trị và người được cai trị.
Bengt R. Holmström (1949-)
Oliver Hart (1948-)
Hart sinh ra tại Anh, 68 tuổi, giảng dạy kinh tế học tại Đại học Harvard, trong khi Holmström sinh ra tại Phần Lan, 67 tuổi, giảng dạy tại Học viện Công nghệ Massachusetts. Họ chia sẻ giải thưởng và chia đều 8 triệu krona Thụy Điển tiền thưởng (khoảng 925,000 USD).
"Oliver Hart, tôi rất vui khi giành được giải thưởng với ông ấy. Ông ấy là người bạn thân nhất của tôi ở đây," Holmström nói với các phóng viên ngay sau khi hay tin về quyết định của Ủy ban Nobel.
Công trình của Holmström khai phá cách thức tốt nhất để động viên nhân viên – làm thế nào để giám sát và khen thưởng công việc của họ. Như ông lưu ý, trả lương theo kết quả công việc không phải bao giờ cũng động viên được nhân viên làm việc cật lực nhất, bởi các cấp trên không thể theo dõi hết những gì mọi người đang làm. Holmström đã chỉ ra cách thức để có thể tạo ra ý nghĩa công việc khi trả cho nhân viên một mức lương cố định thay vì nhiều loại tiền thưởng trong những tình huống mà các biện pháp đo lường kết quả công việc không thỏa đáng, như thường thấy. Trả lương theo kết quả công việc có thể phản tác dụng, ví dụ, nếu nó khuyến khích các giám đốc điều hành ưu tiên các lợi ích ngắn hạn, hoặc nếu nó buộc các giáo viên giảng dạy chỉ để (người học) thi.
Glenn Ellison
"Tôi nghĩ họ xứng đáng nhận một giải thưởng như vậy", Glenn Ellison, trưởng khoa kinh tế của Đại học MIT cho biết. "Công trình của Bengt xuất sắc vì đã trả lời được những câu hỏi thực sự quan trọng, và vì được xây dựng tuyệt đẹp về mặt toán học."
Hart đã nghiên cứu cách thức tốt nhất để soạn thảo các hợp đồng khi các kết quả khả thi mang tính mơ hồ. Ông đã làm thay đổi cách thức các nhà kinh tế suy nghĩ về các tập đoàn, làm nổi bật cách thức các doanh nghiệp có thể gia tăng hiệu quả không chỉ qua sự cạnh tranh, mà còn thông qua sự hợp tác – qua các bản hợp đồng được ký kết với nhau. Và đôi khi, ông kết luận, điều hữu hiệu hơn đối với các công ty có thể đơn giản là một sự hợp nhất, bởi vì một chủ sở hữu duy nhất sẽ có khả năng đưa ra những quyết định tổng thể tốt hơn.
Điều này liên quan đến một trong những câu hỏi trọng tâm của chính phủ: phần việc của nhà nước nên là bao nhiêu, và phần việc mà nhà nước ủy thác cho các công ty bên ngoài nên là bao nhiêu? Các lý thuyết của Hart cho rằng các công ty tư nhân được chính phủ thuê mướn thường có nhiều động cơ mạnh để làm việc cẩu thả, làm phức tạp ý tưởng​​ cho rằng thị trường tư nhân luôn hoạt động hiệu quả hơn.
Alberto Alesina (1957-)
"Oliver là một nhà kinh tế tuyệt vời", Alberto Alesina, một nhà kinh tế và đồng nghiệp của Hart tại Đại học Harvard cho biết. "Tôi không nghĩ có bất cứ ai đó ngạc nhiên. Mọi người chỉ chờ đợi khi nào thì điều ấy sẽ xảy ra."
Holmström và Hart bắt đầu công bố những công trình có ảnh hưởng của họ vào thời điểm mà kinh tế học đã nhanh chóng trở thành một bộ môn ngày càng mang tính toán học hơn – và như một số người nói, bí hiểm hơn. Nhưng các lý thuyết của họ chứng minh cách mà toán học và kinh tế học có thể cùng nhau làm rõ những ý tưởng sâu sắc vào các ứng dụng thực tế.
Nếu một số nghiên cứu của họ có vẻ giống như lẽ phải thông thường, thì chúng cũng cho thấy là những ý tưởng này đã thâm nhập sâu vào xã hội đến mức độ nào. Đồng thời, nhiều đóng góp của họ cũng nằm trong cách thức mà họ – cùng với các đồng nghiệp, trong đó có Paul Milgrom, Robert Wilson, John Moore, và Sandy Grossman – đi tiên phong trong việc sử dụng toán học để xem xét một cách nghiêm ngặt các quan niệm mơ hồ trước đây về động viênhợp đồng.
Justin Wolfers (1972-)
Paul Krugman (1953-)
"Một lựa chọn tuyệt vời không tranh cãi," Justin Wolfers giáo sư tại Đại học Michigan đã chia sẻ trên trang Twitter. "Giải Nobel dành cho Hart-Holmstrom là tất cả những gì mà các nhà lý thuyết kinh tế đã quay trở về với thế giới thực với tất cả những khiếm khuyết của nó,” ông nói thêm, mô tả chiến thắng này "đã được chờ đợi từ lâu".
"Hart và Holmstrom rõ ràng rất xứng đáng đến nỗi suy nghĩ đầu tiên của tôi là ‘họ chẳng đã nhận được giải rồi sao?’", Paul Krugman, nhà kinh tế và cũng là một người đoạt giải Nobel cho biết vào sáng hôm thứ hai trên trang Twitter.
Lý thuyết hợp đồng tỏ ra xác đáng trong những năm gần đây. Có thể viện dẫn nó, một phần, để giải thích:
  • Tại sao những việc làm theo kiểu "lao động tự do" (“gig economy”) như Uber và TaskRabbit đã cất cánh. (Việc giám sát kết quả công việc tốt hơn sẽ giúp các công ty dễ nuôi dưỡng một lực lượng lao động làm việc theo ý muốn.)
  • Những cạm bẫy trong các nỗ lực của chính sách Obamacare để tưởng thưởng các bác sĩ vì kết quả công việc tốt hơn. (Đo lường kết quả của việc chăm sóc sức khỏe là điều mơ hồ, và các bác sĩ có thể cố gắng lợi dụng hệ thống.)
  • Làm thế nào để đầu tư hiệu quả hơn vào các công ty mới khởi nghiệp, và làm thế nào để rút khỏi các công ty đang lao dốc xuống sự phá sản. (Tập trung vào người nắm quyền kiểm soát, chứ không nhất thiết vào người mắc nợ.)
Per Strömberg (1968-)
"Khi bạn bắt đầu suy nghĩ về những điều trên, thì hợp đồng là điều thực sự mang tính cơ bản," Per Strömberg, Chủ tịch Ủy ban Giải thưởng Khoa học Kinh tế cho biết. "Chúng ta thấy những điều đó ở khắp mọi nơi trong xã hội. Tất cả chúng ta đều có tham gia vào nhiều loại hình hợp đồng khác nhau."
"Đây là một lý thuyết đã thực sự làm gia tăng rất nhiều ứng dụng khác," ông nói. "Trong rất nhiều, rất nhiều lĩnh vực, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế học mà còn trong lĩnh vực pháp luật và chính trị học, trên thực tế người ta đang sử dụng các lý thuyết này để tìm hiểu những gì họ đang nghiên cứu."
Công trình của Holmström đã ảnh hưởng đến cách thức các tập đoàn xác định mức lương của các giám đốc điều hành (CEO), một quá trình đang bị xem xét lại một cách kỹ lưỡng khi mà tiền lương của các CEO tiếp tục tăng nhanh hơn so với thu nhập của người lao động bình thường. Nhiều công ty trả thù lao cho các CEO của họ theo kết quả tăng giảm giá cổ phiếu, hoặc trực tiếp bằng các chứng khoán, nhưng Holmström và các đồng nghiệp của ông đã lập luận rằng cách làm này đôi khi cho thấy các công ty thưởng cho các giám đốc điều hành vì sự may mắn, chứ không phải vì đã làm tốt công việc, và có thể làm hại đến tiềm năng dài hạn của một công ty khi tìm kiếm những thu nhập ngắn hạn.
Tyler Cowen (1962-)
"Khi nào thì sẽ trả lương trên cơ sở những nỗ lực được cảm nhận, và khi nào thì sẽ trả lương trên cơ sở các kết quả quan sát được, chẳng hạn như lợi nhuận hay giá cổ phiếu? Holmström là nhà lý thuyết số một trong việc giúp giải quyết những vấn đề thuộc loại này," Tyler Cowen, một nhà kinh tế, đã viết trong một tiểu luận được đăng vào sáng hôm thứ hai.
Hart đã chỉ ra rằng chính sách tư nhân hóa của chính phủ có cả mặt tích cực lẫn tiêu cực. Một mặt, sự cạnh tranh giữa các nhà thầu tư nhân có thể dẫn đến chi phí thấp hơn và chất lượng cao hơn. Nhưng nếu chính phủ không thể theo dõi chất lượng một cách thỏa đáng, thì các công ty sẽ tập trung vào việc cắt giảm chi phí.
Sally Yates (1960-)
Những ý tưởng này được minh họa gần đây khi chính quyền Obama quyết định loại bỏ dần việc sử dụng các nhà tù tư nhân, vì lý do chất lượng thấp của các nhà tù đó. "Họ đơn giản không cung cấp cùng một mức độ các dịch vụ cải huấn, các chương trình, và các nguồn lực," Phó Tổng chưởng lý Sally Yates đã viết trong một bản ghi nhớ vào tháng tám.
Nghiên cứu của Hart nêu bật những vấn đề với các hợp đồng không đầy đủ, hiện diện ở khắp mọi nơi. Thật khó để viết một thỏa thuận giải thích rõ mọi tình huống; trong một số trường hợp, vấn đề này trở nên quá lớn đến nỗi có thể làm cho một bên đưa vào nhiều điều khoản kinh tế hơn để mua đứt phía bên kia, thay vì cả hai bên ngồi lại cam kết với nhau về một thỏa thuận nhạy cảm.
Holmström nhận bằng tiến sĩ tại Đại học Stanford và đã giảng dạy tại Đại học MIT từ năm 1994. Hart nhận bằng tiến sĩ tại Đại học Princeton và đã giảng dạy tại Đại học Harvard từ năm 1993. Cả hai thường tiến hành nghiên cứu song song các công trình của họ, mặc dù họ đôi khi có cùng nhau viết chung bài. Cả hai đều là những người nhập cư vào Hoa Kỳ, một điều mang tính điển hình – tỉ lệ những người Mĩ sinh trưởng ở nước ngoài đoạt giải Nobel là khá cao.
Holmström đầu tiên đến Hoa Kỳ như là một sinh viên thuộc diện trao đổi văn hóa. Sau khi tốt nghiệp, ông buộc phải trở lại châu Âu theo một điều kiện trong thị thực hộ chiếu. Ông kể lại hành trình lần cuối trở lại Mỹ tại một cuộc họp báo nhẹ nhàng được tổ chức tại Đại học MIT vào sáng ngày thứ Hai. Ông nói, những người khác đã tìm cách lách các quy định về thủ tục thị thực, nhưng ông thì không.
"Là người đến từ Phần Lan, tôi nói rằng cần phải tuân thủ những gì đã được viết trong hợp đồng. Chúng tôi không thương thảo lại – những người đó đang ở Harvard," ông nói đùa.
Năm ngoái, Giải thưởng Nobel về kinh tế học đã được trao cho nhà kinh tế Angus Deaton thuộc Đại học Princeton vì các nghiên cứu về cách thức con người, đặc biệt là người nghèo, đưa ra các quyết định về chi tiêu tiền bạc.
Jeff Guo là phóng viên chuyên mục kinh tế, chính sách trong nước, và mọi thứ mang tính thực nghiệm. Ông ấy đến từ Maryland, nhưng không thuộc thế giới chính trị của thủ đô.
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
Print Friendly and PDF