Tại sao kinh tế học cần đến lịch sử kinh tế
Cái
đẹp của internet là cho phép bạn thỉnh thoảng lướt qua các bài viết như bài
viết này mà bạn có thể bỏ lỡ (H/T Greg Mankiw). Như các
bạn mong đợi, tôi đồng ý với Temin rằng lịch sử kinh tế đóng một vai trò cơ bản
trong giáo dục kinh tế, và MIT là một ví dụ điển hình. Để lặp lại một điểm mà
tôi đã viết trước đây trên blog, nhiều siêu sao từng tốt nghiệp từ trường này
có một sự nhạy cảm lịch sử đã làm cho họ trở thành những nhà kinh tế giỏi hơn.
Obstfeld và Rogoff nổi tiếng với công trình đột phá của họ về kinh tế học vĩ mô
mở, nhưng cả hai đều đã viết nhiều cuốn sách quan trọng về lịch sử kinh tế
(Obstfeld cùng với Taylor, và Rogoff cùng với Reinhart), và tôi không nghĩ đó
là một sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng phong cách của Obstfeld-Rogoff trong kinh
tế học vĩ mô mở có xu hướng dựa nhiều hơn vào thế giới thực so với một số tương
đương trong kinh tế học đóng. Paul Krugman thường xuyên cho thấy một sự quan
tâm và kiến thức về lịch sử, mà ông ứng dụng một cách
hiệu quả; thậm chí đừng để tôi bắt đầu nói về Ron Findlay, v.v.
![]() |
Maurice Obstfeld (1952-) |
Có
rất nhiều lý do để nghĩ rằng chúng ta cần đến lịch sử nhiều hơn nữa trong
chương trình giảng dạy kinh tế học, chứ không phải là ít hơn. Cuộc khủng hoảng
kinh tế và tài chính hiện nay đã dấy lên một cuộc tranh luận gay gắt về tình
trạng của kinh tế học, và về vấn đề đào tạo mà các sinh viên đại học và sau đại
học về kinh tế học được tiếp nhận. Quan trọng hơn, trong số những người tranh
luận mạnh nhất cho một sự thay đổi trong cách thức mà các nhà kinh tế trẻ được
đào tạo là những người sử dụng các sinh viên đó, trong cả lãnh vực tư và công.
Người sử dụng lao động ngày càng phàn nàn nhiều rằng các nhà kinh tế trẻ không
thông hiểu cách thức một hệ thống tài chính vận hành thực sự, và không được
chuẩn bị tốt để suy nghĩ về những chính sách phù hợp thời buổi khủng hoảng.
Đáng
chú ý, nhiều người sử dụng lao động và các nhà hoạch định chính sách còn lập
luận rằng kiến thức về lịch sử kinh tế có thể đặc biệt hữu
ích.
Ví
dụ, Stephen King, trưởng nhóm kinh tế gia của ngân hàng HSBC, cho rằng: "Có
quá ít nhà kinh tế, mới đến với thế giới tài chính, có kiến thức thực sự về những sự kiện, mặc dù đôi khi xảy ra trong quá khứ xa xôi, nhưng lại tỏ ra
rất thích đáng lớn cho công việc hiện tại... Cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu có thể được được diễn giải và thông hiểu một cách dễ hơn bởi một người có
trước hiểu biết về vụ sụp đổ năm 1929, cuộc Đại suy thoái và, sự sụp đổ năm
1907" (Coyle 2012, p. 22).
![]() |
Andrew Haldane |
Andrew
Haldane, Giám đốc điều hành về bình ổn tài chính tại ngân hàng Bank of England
[ngân hàng trung ương Anh - ND], đã viết rằng "lịch sử tài chính có lẽ
đã làm cho chúng ta xem trọng các chu kỳ tín dụng", và rằng sự biến
mất của những môn học phụ như lịch sử kinh tế và tài chính, cũng như lịch sử
tiền tệ, ngân hàng và tài chính, khỏi chương trình giảng dạy cốt lõi đã góp
phần làm cho các nhà hoạch định chính sách xem nhẹ những nhân tố trên, một sai
lầm mà "bây giờ cần phải sửa chữa lại" (Coyle 2012, pp.
135-6).
![]() |
Stanley Fischer (1943-) |
Trong
khuôn khổ các bài giảng Humanitas Lecture gần đây tại đại học Oxford, Stanley
Fischer (một người nữa cũng tốt nghiệp MIT) nói rằng: "Tôi nghĩ rằng
tôi đã học được rất nhiều từ việc nghiên cứu lịch sử ngân hàng trung ương cũng
như từ sự hiểu biết về lý thuyết ngân hàng trung ương và tôi khuyên tất cả
những ai muốn trở thành người hoạt động ngân hàng trung ương nên đọc sách lịch
sử" (http://www.youtube.com/watch?v=5Y-ZhFbw2H4,
43,48 phút).
Kiến
thức về lịch sử kinh tế và lịch sử tài chính là điều rất quan trọng khi suy
nghĩ về kinh tế theo nhiều cách. Rõ ràng nhất là nó buộc sinh viên phải thừa
nhận rằng những gián đoạn lớn trong thành tựu kinh tế và trong các chính sách
kinh tế đã từng xảy ra nhiều lần trong quá khứ, và sẽ có thể xảy ra một lần nữa
trong tương lai. Những gián đoạn đó thường trùng với các cuộc khủng hoảng kinh
tế và tài chính, và do đó không thể giả định được rằng đây là điều không thể
xảy ra về mặt lý thuyết. Đào tạo về lịch sử sẽ làm cho sinh viên miễn nhiễm với
sự tự mãn đặc trưng của “Thời kỳ ôn hoà vĩ đại” (“Great Moderation”).
Giữ lấy khoảng lùi, cuối cùng sẽ thấy là con thiên nga không đen đến thế.
![]() |
Robert Solow (1924-) |
Điểm
liên quan thứ hai là lịch sử kinh tế dạy cho sinh viên về tầm quan trọng của
bối cảnh. Như Robert Solow (vâng, cũng từ trường MIT, mặc dù là một tiến sĩ của
đại học Harvard) chỉ ra rằng, "sự lựa chọn đúng đắn một mô hình phụ
thuộc vào bối cảnh của thể chế" (Solow 1985, p. 329), và điều này cũng
đúng với những lựa chọn đúng đắn về chính sách. Ngoài ra, bản thân một thể chế
"đúng" cũng có thể phụ thuộc vào bối cảnh. Lịch sử có nhiều ví
dụ về những thể chế được phát triển để giải quyết vấn đề của một thời đại,
nhưng sau này chính chúng lại trở thành là vấn đề.
Thứ
ba, lịch sử kinh tế chắc chắn là một lĩnh vực thực nghiệm. Học lịch sử kinh tế
buộc sinh viên đưa thêm vào tính kỹ thuật chặt chẽ của các chương trình học một
chiều kích bổ sung về tính chặt chẽ: thử hỏi liệu những giải thích của
họ về các sự kiện lịch sử có thực sự phù hợp với thực tế hay không. Điều đó rõ
ràng không có nghĩa là lựa chọn những sự kiện có lợi và bỏ qua những sự kiện
bất lợi để phù hợp với luận thuyết của mình và bỏ qua tất cả những luận thuyết
khác không phù hợp: thế giới là phức tạp, và các nhà kinh tế cần được đào tạo
để thừa nhận điều đó. Sự tiếp xúc với lịch sử kinh tế dẫn đến một khung tư duy
thực nghiệm, và sự sẵn sàng thừa nhận một khung lý thuyết nhất định không phải
lúc nào cũng hiệu quả để giải thích thế giới hiện thực. Đó là những thói quen
tinh thần then chốt đối với các nhà kinh tế trẻ mong muốn ứng dụng kỹ năng vào
môi trường lao động, và, tôi cũng cho là, vào môi trường hàn lâm.
![]() |
Kenneth Rogoff (1953-) |
Thứ
tư, ngay cả khi cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính hiện nay đã qua đi, nhưng
những thách thức lớn lao và lâu dài đối với thế giới vẫn còn đó. Trong số những
thách thức đó là vấn đề làm thế nào để giải cứu hàng tỷ con người thoát khỏi
cảnh nghèo đói, một hoàn cảnh dường như không thể chấp nhận đối với những người
sống trong tổ chức OECD (Organization for
Economic Co-operation and Development - Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế).
Và cảnh nghèo đói đó là của một phần lớn nhân loại trong một phần lớn chiều dài
lịch sử: điều đáng ngạc nhiên không phải là thực tế "họ quá nghèo",
mà là "chúng ta quá giàu". Để hiểu được bài toán trên, chúng
ta phải quay sang sử học. Hiểu được điều gì dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế hiện
đại là vấn đề trước tiên đã đưa đến sự ra đời của lịch sử kinh tế, và vấn đề ấy
ngày nay vẫn còn xác đáng như vào những năm cuối của thế kỷ XIX. Ngoài những
vấn đề như sự trổi dậy của châu Á và sự suy tàn tương đối của phương Tây, những
vấn đề dài hạn khác có thể được xem xét với nhiều triển vọng trong một viễn
cảnh dài hạn bao gồm sự nóng lên của trái đất, tương lai của toàn cầu hóa, và
câu hỏi về tốc độ có thể mong chờ vào sự tiến bộ của công nghệ trong những thập
kỷ tới.
Thứ
năm, bản thân lý thuyết kinh tế đã nhấn mạnh – từ hơn hai mươi năm nay – rằng
sự phụ thuộc vào lộ trình đã đi qua là điều phổ biến.
Ronald Rogowski (1944-) |
Cuối
cùng, và có lẽ quan trọng nhất là từ quan điểm của một giảng viên đại học về
kinh tế học ở bậc đại cương, lịch sử kinh tế là một cách tuyệt vời để thuyết
phục sinh viên đại học rằng những lý thuyết được học về kinh tế học vi mô và
kinh tế học vĩ mô đều hữu ích để giúp họ hiểu được thế giới thực tại. Còn lâu
mới được xem như là một môn học "mềm" thay thế cho lý thuyết,
lịch sử kinh tế nên được xem như là một môn học bổ sung có tính sư phạm chủ
yếu. Qua kinh nghiệm, tôi biết không có gì hài lòng bằng khi nhìn thấy sinh
viên đại học nhận ra rằng một chút lý thuyết đơn giản có thể giúp họ hiểu được
các hiện tượng phức tạp của thế giới thực. Hãy thử nghĩ về việc Obstfeld và
Taylor sử dụng bô ba bất khả thi của Mundell-Fleming để giúp sinh viên cấu trúc
hóa hiểu biết của mình về lịch sử hội nhập thị trường vốn quốc tế trong 150 năm
qua; hoặc việc Ronald Rogowski sử dụng lý thuyết của Heckscher-Ohlin để thảo
luận về sự phân chia chính trị của thế giới trong những năm cuối của thế kỷ
XIX. Luận thuyết của Domar mà Temin viện dẫn trong bài báo của ông là một cách
tuyệt vời để nói với sinh viên về những gì dẫn đến hiện tượng lợi tức giảm dần của
lao động. Lịch sử kinh tế có nhiều những cơ hội như vậy để cho các nhà giáo dục
cố gắng động viên sinh viên của họ.
•
Coyle, D., ed. (2012), What’s the Use of Economics?: Teaching the
Dismal Science After the Crisis, London Publishing Partnership. (Xem Giảng dạy khoa học buồn thảm sau khủng hoảng)
•
Solow, R. (1985), “Economic History and Economics”, American
Economic Review 75, 328-31.
Giáo sư lịch sử kinh tế,
All Souls College, đại học Oxford
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
Nguồn:
“Why economics needs history”,
The Irish Economy, July 5th 2013
