Giới thiệu cuộc tranh luận "Kinh tế học được dùng vào việc gì?"
Năm
năm sau sự sụp đổ của công ti tài chính toàn cầu Lehman, kinh tế học đang bị
chỉ trích cả từ bên ngoài lẫn bên trong giới kinh tế về tính không xác đáng,
ngạo mạn và nhiều điều khác nữa. Chuyên mục này giới thiệu một cuộc tranh luận
mới của Vox tập trung vào hai câu hỏi: Kinh tế học được sử dụng vào mục đích
gì, và giảng dạy kinh tế học như thế nào cho thế hệ kế tiếp?
Nếu kinh tế học nổi lên từ cuộc khủng
hoảng toàn cầu không thay đổi, thì nó sẽ mất mọi sự tín nhiệm. Đó chắc chắn
không phải là quan điểm của tất cả các nhà kinh tế, nhưng có nhiều người nghĩ
như vậy. Có rất nhiều ví dụ phê phán về chủ đề của chúng ta từ bên trong lẫn
bên ngoài. Một số phê phán mang tính cường điệu thiếu thông tin, nhưng một số
khác – chẳng hạn như bài viết gần đây “Economics in Denial (Khi kinh tế
học bị phủ nhận)” của Howard Davies (2012), Chủ tịch sáng lập
Cơ quan Dịch vụ Tài chính (cơ quan điều tiết mọi nhà cung cấp dịch vụ tài chánh
của Vương quốc Anh – ND) – phải được xem xét nghiêm túc.
![]() |
Howard Davies (1951-) |
Tuy nhiên, người ta không rõ điều gì
sẽ định hình một phản ứng hiệu quả thậm chí đối với những phê phán có cơ sở.
Nói chung, tham gia vào một cuộc tranh luận chuyên môn về nội dung và phương
pháp luận của kinh tế học, được hỗ trợ bởi các nghiên cứu, sẽ mất nhiều năm.
Một điểm khởi đầu, được nhận diện tại
một hội nghị được Ngân hàng Trung ương của Anh tổ chức vào đầu năm nay, là vấn
đề giảng dạy kinh tế học, bắt đầu từ những năm đầu đại học. Thành phần tham dự
gồm những nhà tuyển dụng các nhà
kinh tế (bao gồm Ngân hàng Trung ương của Anh và Cơ quan dịch vụ kinh tế của
chính phủ) và các nhà kinh tế học hàn lâm. Một cuốn sách với các bài viết trước
khi hội nghị diễn ra và các bài viết của những người tham dự hội nghị được công
bố trong tháng này (What’s The Use of Economics: Teaching The Dismal
Science After The Crisis – Kinh tế học được sử dụng vào mục đích gì: Giảng dạy
khoa học buồn thảm sau khủng hoảng, NXB London Publishing
Partnership).
Phản hồi từ những nhà tuyển dụng các nhà kinh tế trẻ
Một số chủ đề đã được nêu lên từ hội
nghị và từ cuốn sách. Chủ đề thứ nhất là mức độ không hài lòng của nhà tuyển
dụng đối với cách thức giảng dạy kinh tế học ở các trường đại học, để cho tất
cả các sinh viên tốt nghiệp kinh tế có được năng lực lao động tốt. Nhà tuyển
dụng các sinh viên tốt nghiệp trong bất kỳ chuyên ngành nào, cũng như người sử
dụng các nhà kinh tế trẻ, đều có chung lời kêu ca về việc thiếu một số kỹ năng
ở các sinh viên mới tốt nghiệp. Ví dụ, kỹ năng giao tiếp kém là một chủ đề phổ
biến thường thấy. Các nhà kinh tế làm việc bên ngoài thế giới học thuật cần
phải truyền thông tất cả các kiến thức chuyên môn của họ cho các đồng nghiệp và
khách hàng không chuyên, vì vậy, đó là một kỹ năng cốt lõi đối với họ. Ví dụ,
trong một cuộc khảo sát năm 2012 các nhà kinh tế tại Cơ quan dịch vụ kinh tế
của chính phủ – nhà tuyển dụng các nhà kinh tế lớn nhất tại Anh – mô tả hai
lãnh vực công việc chính của họ là xây dựng các tài liệu báo cáo nhanh và chuẩn
bị tư vấn các chính sách. Các nhà kinh tế của Khu phố tài chính và các nhà kinh
tế tư vấn phải thường xuyên trình bày các nghiên cứu của họ cho các khách hàng
không phải là nhà kinh tế của doanh nghiệp mình.
Có lẽ điều đáng ngạc nhiên hơn là quan
điểm nhất quán ở tất cả các nhà tuyển dụng, cũng như ở một số học giả, cho rằng
sinh viên đại học cần phải học nhiều hơn nữa về lịch sử kinh tế và lịch sử tư
tưởng kinh tế, và hơn thế nữa phải được đào tạo để quan tâm đến tình thế kinh
tế, đến các thể chế kinh tế, đến sự vận hành của các thị trường thực trong nền
kinh tế và các cuộc tranh luận về các chính sách hiện hành. Ví dụ, như nhận
định của Stephen King, trưởng kinh tế gia của Ngân hàng HSBC: "Các nhà
kinh tế trẻ đến với thế giới tài chính với rất ít hoặc không có kiến thức về cách thức vận hành của hệ thống tài chính. Đây là một lỗi tập thể. Các mô hình kinh tế
thường giả định hệ thống tài chính là một hộp đen". Mặc dù tất cả các nhà tuyển
dụng đều nhận ra sự cần thiết phải thực tế hơn nữa trong việc thích nghi chương
trình giảng dạy, và về những gì mà một sinh viên mới tốt nghiệp được kỳ vọng
phải biết một cách hợp lý, nhưng mức độ không hài lòng với những thiếu hụt hiện
nay là điều đáng báo động.
Những lỗ hổng trong kiến thức
của sinh viên tốt nghiệp dường như không phải xuất phát từ sự thiếu quan tâm
của họ về kinh tế học. Tại Anh, số lượng sinh viên bắt đầu học đại học kinh tế
tăng 8,5% lên 7.800 trong năm 2011, so với mức tăng 1% của tổng số sinh viên
đại học, và mặc dù giảm 2% trong năm 2012, nhưng tổng số sinh viên giảm lại là
7%. Số lượng sinh viên ghi danh học trình độ A về kinh tế học cũng tăng từ năm
2006. Những con số trên làm cho người ta khó tin rằng giới trẻ không quan tâm
đến các biến cố kinh tế thảm hại của những năm gần đây.
![]() |
Andrew Lo (1960-) |
Các câu hỏi về phương pháp luận
Chủ đề thứ hai là cách thức mà cuộc
khủng hoảng đã làm tăng tính cấp bách của một số vấn đề hoặc hoài nghi về
phương pháp luận kinh tế. Có lẽ đúng khi nói rằng đa số các nhà kinh tế trong
đại học không tin là cuộc khủng hoảng tài chính làm suy yếu nghiêm trọng các
khung lý thuyết của bộ môn. Mặc dù vậy, một số người tham dự hội nghị nêu lên
sự lo ngại đối với việc nhấn mạnh tư duy quy giản hơn là tư duy quy nạp trong kinh tế học, và đối
với việc sử dụng toán học mà không hiểu ý nghĩa của điều này.
![]() |
Paul Seabright (1958-) |
Andrew Lo của học viện MIT cho rằng
các kỹ thuật toán học trong kinh tế học chỉ có ý nghĩa từ việc ứng dụng vào các
vấn đề thực nghiệm thực tế và cần phải được giảng dạy trong bối cảnh đó. Paul Seabright thuộc Trường Kinh tế học
Toulouse nói rằng sinh viên không nên được dạy rằng kinh tế học là một phương
pháp tiếp cận luôn luôn thành công để thật sự hiểu được về cách thức vận hành
của nền kinh tế, mà đúng hơn là một cuộc điều tra thực nghiệm về một hiện tượng
ngày càng tiến hóa. Có một sự nhất trí cao về sự cần thiết làm giảm vai trò của
lý thuyết và thúc đẩy chủ nghĩa duy nghiệm. Như Andrew Lo đã nói: "Là nhà kinh tế chúng tôi muốn giải thích 99%
tất cả các hiện tượng quan sát được bằng cách sử dụng ba định luật đơn giản,
như các nhà vật lý học đã làm, nhưng thay vào đó chúng tôi phải xây dựng chín
mươi chín định luật để giải thích chỉ có 3%, đó là điều cực kỳ nản lòng".
Vai trò của kinh tế học vĩ mô
Về lĩnh vực thứ ba, vai trò của kinh
tế học vĩ mô, đã có ít sự đồng thuận, nhưng thay vào đó lại có rất nhiều ý
kiến. Có thể liệt kê các ý kiến ấy từ quan điểm cho rằng chỉ cần những điều
chỉnh nhỏ mô hình và chương trình giảng dạy hiện tại là đủ để tính đến các sự
kiện kinh tế gần đây của thế giới thực, đến tất cả những quan điểm cấp tiến hơn
cho rằng cần phải có một phương pháp tiếp cận mới để mô hình hóa kinh tế học vĩ
mô. Nội dung giảng dạy về kinh tế học vĩ mô rõ ràng là một vấn đề phụ đối với
cuộc tranh luận hiện nay về phân tích vĩ mô (ví dụ được Simon Wren-Lewis nêu một
số chi tiết trên blog của ông).
![]() |
Benjamin Friedman (1944-) |
Tuy nhiên, khi Benjamin Friedman của
Đại học Harvard mô tả tình trạng vĩ mô trước khủng hoảng là "ương ngạnh trong sai lầm" và Andrew
Haldane của Ngân hàng Trung ương Anh mô tả các mô
hình tác nhân tiêu biểu với những dự kiến phản ánh các nét cơ bản của nền kinh
tế là "không thích hợp về cơ bản"
đối với thế giới ngày nay, nó sẽ làm cho một ai đó hoặc là rất tự tin hoặc là
rất tự mãn không phản ánh một số ngờ vực về những gì mà họ giảng dạy cho các
thế hệ nhà kinh tế kế tiếp.
Thay đổi phương pháp giảng dạy kinh tế
học ở các trường đại học đối mặt với nhiều trở ngại, và cải cách nội dung
chương trình giảng dạy thậm chí có thể là điều khó khăn nhất để khắc phục. Các
trường đại học ở nhiều quốc gia đối mặt với những thách thức tài chính hiện
nay, cần giảng dạy cho nhiều sinh viên hơn mà không bổ sung thêm kinh phí. Vì
vậy, nhu cầu về thời gian học thuật ngày càng tăng. Trong hệ thống các trường
đại học tại Anh và các quốc gia khác, cũng có những chính sách khích lệ mạnh mẽ
để các học giả dành thời gian để nghiên cứu nhiều hơn là giảng dạy. Hơn thế
nữa, hồ sơ và đề xướng nghiên cứu của họ sẽ hưởng lợi từ việc công bố một lượng
lớn các báo cáo nghiên cứu làm tăng dần kinh văn hiện tại. Theo những tác giả
có đóng góp học thuật, phương pháp đánh giá đại học và nghiên cứu Research
Excellence Framework của Anh lưu ý các nhà nghiên cứu tập trung viết bài báo
khoa học, chớ không phải là sách, và chỉ cho một số tạp chí hạn chế.
Trong khi đó, các cuộc khảo sát sinh
viên gợi ý cho thấy có nhiều sinh viên đã khá không hài lòng với mức độ tiếp
xúc với giảng viên hoặc với chất lượng giảng dạy. Ngoài ra, khi họ phải đối mặt
với các khoản vay lớn để trả học phí, thì họ xem giáo dục đại học họ như một
công cụ hơn: cần đảm bảo họ làm bài tốt trong các kỳ thi và có được một việc
làm tốt sau này. Cuối cùng, sinh viên đại học là sản phẩm của một chương trình
giáo dục học thường nhấn mạnh đến việc “dạy
để thi” để cải thiện kết quả của nhà trường trên bảng xếp hạng, chứ không
phải là khuyến khích khám phá trí tuệ và học tập độc lập.
![]() |
Michael McMahon |
Nhiều tham luận gợi ý những bước thực tiễn, không đòi
hỏi nhiều thời gian, để cải thiện công tác giảng dạy đại học. Trong số các bước
trên có các cơ chế chia sẻ những cách thực hành tốt nhất và sử dụng các nguồn
lực trực tuyến. Tuy nhiên, như Michael McMahon của Đại học Warwick đã chỉ ra,
bản thân các sinh viên cần phải hiểu đúng để được hưởng lợi theo nghĩa đầy đủ
nhất từ trường đại học, họ cần phải đọc nhiều,
tham gia thảo luận và trên hết phải ngừng lại kỳ vọng được cầm tay chỉ việc. Về
vấn đề cải cách rộng lớn hơn các cơ cấu khuyến khích học tập, thì có một nhóm
công tác sau hội nghị đang thảo luận và dự kiến sẽ đưa ra một bản báo cáo các
khuyến nghị cải cách vào năm tới.
![]() |
Diane Coyle (1961-) |
Các nhà kinh tế là những người ở vị
trí tốt nhất để hiểu được thế mạnh và sự chặt chẽ trí tuệ của bộ môn chúng ta,
và khả năng đóng góp của kinh tế học để giải quyết rất nhiều thách thức trong
những vấn đề của thế giới ngày nay, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính và
kinh tế hiện nay. Bất kỳ một nhà kinh tế trung thực nào cũng sẽ thừa nhận rằng
mức độ lâu dài và tính khốc liệt của cuộc khủng hoảng đòi hỏi ít nhất là các
nhà kinh tế học phải tự nhìn lại và tự đánh giá về mặt chuyên môn. Nhiều người
đồng ý rằng kinh tế học cần phải thay đổi. Chắc chắn là việc giáo dục các nhà
kinh tế trẻ nên là nơi bắt đầu tốt nhất để làm điều này chăng?
Tài liệu tham khảo
Davies, Howard (2012), "Economics in Denial", Project
Syndicate, 22 tháng Tám.
Giám đốc điều hành của Enlightenment
Economics
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
Nguồn: “What’s the Use of Economics? Introduction to the Vox
Debate”, VEPR’s Policy
Portal, 19 September 2012
