PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: MỘT TƯƠNG LAI PHI THỰC?
Các Mục tiêu Phát triển Bền vững chắc chắn vẫn là một giấc mơ phi thực tế.
Chúng được các nước nghèo coi là “giúp các nước giàu hơn thanh lọc lương tâm
khi họ kiên định cố gắng hợp pháp hóa các trật tự địa chính trị và tân tự do” vốn
là nguyên nhân gây ra đau khổ cho họ.
Tính đến cuối tháng tám này, đã hơn một thập kỷ liên tục tôi tham dự các Hội thảo Quốc tế về các Vấn đề khẩn cấp của Hành tinh được tổ chức hằng năm tại Sicily, thành phố lịch sử Erice. Sau ba năm gián đoạn bởi đại dịch Covid-19, hội thảo được tổ chức trở lại dưới sự chủ trì của giáo sư Antonino Zichichi, trong khuôn khổ Quỹ Ettore Majorana và Trung tâm Văn hóa Khoa học nhằm thúc đẩy một nền khoa học minh bạch, không biên giới. Trong 56 năm qua, Hội thảo đã đón tiếp hơn 132.000 nhà khoa học từ 140 quốc gia với các hội nghị, hội thảo, lớp học và seminar.
Năm nay, lần đầu tiên giáo sư Zichichi, nay đã 94 tuổi, không trực tiếp
tham dự được và chúng tôi rất nhớ sự hiện diện của ông. Tuy nhiên, thay vào đó,
ông vẫn chào đón chúng tôi bằng một đoạn video trong phần khai mạc hội thảo. Sự
vắng mặt của ông và một số thành viên thân thiết là một sự thiếu hụt. Tuy
nhiên, nhiều gương mặt mới cũng mang đến cho hội thảo lần thứ 55 những sự mới mẻ.
Các chủ đề được thảo luận lần này khá đa dạng về các mối đe dọa và thách thức hành tinh của chúng ta đang phải đối mặt:
- Vũ khí hạt nhân, kiểm soát vũ khí và sự chuyển giao an ninh toàn cầu, bao gồm các bài thuyết trình về tình hình ở ba khu vực: phương Tây, Trung Đông, Trung Á và Đông Á.
- Nguồn gốc của đại dịch COVID-19, với các bài thuyết trình thú vị, cung cấp nhiều thông tin cũng như giới thiệu về các biến thể của SARS-CoV-2.
- Thị trường dầu mỏ và quá trình chuyển đổi năng lượng, các khía cạnh khác nhau của cuộc khủng hoảng dầu mỏ và những hạn chế đối với quá trình chuyển đổi năng lượng theo chính sách cắt giảm lượng khí nhà kính xuống gần 0 nhất có thể.
- Cơ sở hạ tầng quan trọng, bao gồm các vấn đề cụ thể về thu và trữ carbon và những điểm yếu của cơ sở hạ tầng nước.
- Những thách thức về an ninh mạng gắn với các cuộc khủng hoảng hiện nay, cùng với những lo ngại về tương lai và những thách thức của công nghệ thông tin.
- Tiến độ thiết kế và phát triển các lò phản ứng hạt nhân loại nhỏ, sự tồn tại của chúng có vai trò quan trọng trong chính sách năng lượng tương lai của Việt Nam.
- Ô nhiễm và khủng hoảng nước, bao gồm các báo cáo cập nhật về nguồn nước ngầm, hạn hán cũng như nghiên cứu thú vị về tác động của ô nhiễm nước do chì đến sự phát triển của trẻ nhỏ.
- Các chất gây ô nhiễm môi trường và sức khỏe trẻ em, bao gồm nghiên cứu về tác động của các hóa chất gây rối loạn nội tiết và chiến lược hóa học cho phát triển bền vững.
Chủ
nghĩa dân túy và sự trượt dốc của cánh hữu đã trở thành mối đe dọa đối với các
chế độ tân tự do hiện đang thống trị châu Âu, nơi những ký ức về chủ
nghĩa phát xít vẫn chưa hoàn toàn phai nhạt.
Chúng ta hãy bắt đầu với một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất; quan niệm
cho rằng dân chủ là vốn có của sự phát triển bền vững. Quả thực, những trang
huy hoàng nhất của văn hóa phương Tây, từ Hy Lạp của Pericles đến Lumières, đã ủng
hộ “giáo lý” rằng quản trị dân chủ không chỉ cần thiết để đạt được trạng thái
phát triển bền vững mà còn là một phần của mục tiêu phát triển bền vững mà
chúng ta đang theo đuổi. Người phương Tây coi đây là điều hiển nhiên và về
nguyên tắc họ có lý do chính đáng cho niềm tin của mình. Tuy nhiên, gần đây,
trên thực tế, dân chủ dường như rất mong manh trong một thế giới toàn cầu hóa,
nơi việc thao túng và tẩy não dân chúng trở nên dễ dàng hơn với các phương tiện
truyền thông gần như là tức thời với độ bao phủ toàn cầu. Chủ nghĩa
dân túy và sự trượt dốc của cánh hữu đã trở thành mối đe dọa đối với các chế độ
tân tự do hiện đang
thống trị châu Âu, nơi những ký ức về chủ nghĩa phát xít vẫn chưa hoàn toàn
phai nhạt; Nhiệm kỳ Tổng thống của Trump ở Mỹ đã cho thấy nền dân chủ đã trở
nên bất lực như thế nào trong việc ngăn chặn sự lừa dối để giành lấy quyền lực,
Đảng Cộng hòa đã nhanh chóng trở thành con rối của tổng thống như thế nào, Đảng
Dân chủ đã bất lực như thế nào trong việc khôi phục một phần liêm chính chính
trị. Tất nhiên, điều này không ảnh hưởng gì đến giá trị của lý tưởng dân chủ,
nó chỉ cảnh báo rằng chúng ta có thể dễ dàng bị lừa gạt bởi sự hấp dẫn của nó.
Hãy nghĩ đến Trung Quốc: chúng ta có tin rằng dân chủ hơn và ít độc tài hơn sẽ
giúp Tập Cận Bình đưa đất nước này phát triển vượt bậc không? Dĩ nhiên là
không. Trung Quốc vẫn còn là một đế quốc phong kiến vào đầu thế kỷ trước, kế hoạch
Đại nhảy vọt chỉ mới cách đây 60 năm, Cách mạng Văn hóa mới kết thúc chưa đầy
50 năm và phải đến năm 1978, chính sách cải cách, mở cửa mới bắt đầu được thực
hiện. Đây là một quốc gia đang trong quá trình phát triển nhanh chóng, có mức độ
bất bình đẳng trong thu nhập, đặc biệt là giữa thành
thị và nông thôn. Trung Quốc không chỉ được coi là đối thủ cạnh tranh mà còn thường xuyên bị coi là kẻ thù của
thế giới phương Tây. Để chèo lái nó vượt qua những thời điểm thử thách như vậy,
cần một bàn tay mạnh mẽ, khả năng lãnh đạo, khả năng chịu đựng áp lực phi thường
do dư luận xã hội gây ra để không thể lãng phí thời gian quý báu vào việc bịa
ra những lý lẽ chỉ nhằm mục đích an ủi, tái bầu cử định kỳ. Những phát biểu như
vậy của tôi sẽ bị người phương Tây coi là phạm thượng, tuy nhiên con đường phát
triển của các nước không giống nhau và đối với nhiều nước đang phát triển, dân
chủ thậm chí có thể là một trở ngại của phát triển ở những nước này.
![]() |
Người dân ở thủ đô Madrid, Tây Ban Nha biểu tình phản đối giá điện tăng vọt hồi tháng 7-2021. Ảnh: Europa Press |
![]() |
Lượng phát thải CO2 bình quân đầu người, 2000-2020. |
Nếu đây là cách mà người Trung Quốc nhìn nhận về việc loại bỏ carbon, ta có
thể dễ dàng hình dung người Việt Nam, với tỷ lệ phát thải bình quân đầu người
chỉ bằng một nửa của người Trung Quốc, và người Ấn Độ, với tỉ lệ chỉ bằng nửa
người Việt Nam, sẽ nhìn nhận vấn đề này như thế nào. Nếu nhu cầu chuyển đổi
năng lượng toàn cầu sang năng lượng tái tạo là rõ ràng, thì tính cấp thiết của
nó ở một quốc gia cụ thể phụ thuộc rất nhiều vào tình trạng phát triển và khối
lượng dự trữ nhiên liệu hóa thạch của quốc gia đó. Thật là viển vông khi mơ về
những quy định thống nhất trên toàn cầu về việc này. Giờ đây, người ta thừa nhận
rộng rãi rằng còn rất xa thế giới mới đạt được các mục tiêu của SDG, hầu hết
các mục tiêu đó sẽ không thể nào đạt được vào năm 2030. Một số nhà phê bình cho
rằng chúng vẫn “được củng cố bởi các quan niệm phát triển có ảnh hưởng của chủ
nghĩa hiện đại phương Tây: chủ quyền của con người đối với môi trường, chủ
nghĩa cá nhân, cạnh tranh, tự do, tư lợi, niềm tin vào thị trường dẫn đến phúc
lợi tập thể, tài sản tư nhân…” Những người khác lại cảnh báo rằng chúng “có thể
được sử dụng để ngụy trang hoạt động kinh doanh thường lệ bằng cách cải trang
nó sử dụng các biện pháp tu từ bền vững liên quan đến SDG; […] Chúng thậm chí
có thể gây ra những tác động ngược, bằng cách tạo ra một màn sương mờ cho những
hoạt động chính trị sôi nổi nhằm che lấp đi thực tế trì trệ, đi vào ngõ cụt và
hoạt động kinh doanh như họ vẫn làm.” Gần đây, các kỹ thuật loại bỏ carbon, từ
trồng cây đại trà đến các thiết bị thu khí trực tiếp công nghệ cao, đã được ủng
hộ với tuyên bố rằng nếu chúng được triển khai đồng thời với việc giảm đốt
nhiên liệu hóa thạch, chúng ta có thể nhanh chóng ngăn chặn sự nóng lên toàn cầu.
Thật không may, trên thực tế, một số ý tưởng về loại bỏ carbon được một số người
cho là đã cấp phép cho một cách tiếp cận nguy hiểm “đốt trước, trả sau”, khiến
lượng khí thải carbon tiếp tục tăng cao: họ nói, nó đã giúp duy trì niềm tin
vào sự cứu rỗi của công nghệ và làm giảm mức độ cấp thiết về vấn đề hạn chế khí
thải hiện nay. Bản Đánh giá về Khí hậu của Liên Hợp Quốc công bố gần đây thừa
nhận rằng “thế giới đang không đi đúng hướng để đạt được các mục tiêu của Thỏa thuận Paris”. Bản đánh giá cũng lưu ý rằng đầu
tư vào nhiên liệu hóa thạch vẫn đang vượt nguồn lực dành cho các hoạt động vì
khí hậu; các quốc gia nghèo bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi hạn hán, bão lụt và nước
biển dâng, yêu cầu các quốc gia giàu hơn chịu trách nhiệm về mặt lịch sử đối với
hầu hết lượng phát thải khí nhà kính; các quốc gia đang phát triển gần đây đã
yêu cầu thành lập một quỹ mới nhằm bồi thường những tổn thất không thể khắc phục
do nhiệt độ tăng cho các quốc gia bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, ít nhất 100 tỷ USD mỗi năm vào năm
2030.
Ví dụ thứ ba, hãy
xem xét vai trò của năng lượng hạt nhân trong quá trình chuyển đổi năng lượng
mà phát triển bền vững đòi hỏi. Xây dựng, bảo trì và vận hành các nhà máy điện
hạt nhân là một nhiệm vụ đòi hỏi quản lý có trách nhiệm, tầm nhìn và cam kết
dài hạn, nghiêm ngặt về trí tuệ và đạo đức, ý thức và hiểu biết sâu sắc về các
vấn đề an toàn, khả năng tránh xa những xáo trộn ngẫu nhiên và do xuống cấp có
thể xảy ra ảnh hưởng đến hoạt động ổn định của chúng. Đến nay đã gần bốn thập kỷ,
điều hoàn toàn ngược lại đã xảy ra. Nguyên nhân chính là do áp lực từ thái độ
và sự phi lý của công chúng, thiếu chín chắn về mặt khoa học và dễ bị thao
túng, tẩy não. Những quyết định hỗn loạn đã được đưa ra; ở Ý theo cuộc trưng cầu
dân ý năm 1987, tất cả các nhà máy hạt nhân đã đều bị đóng cửa vào năm 1990.
Năm 2008, chính phủ thừa nhận rằng quyết định này là một “sai lầm khủng khiếp,
chi phí lên tới hơn 50 tỷ Euro” và đề xuất xây dựng khoảng 10 lò phản ứng mới,
với mục tiêu tăng tỷ lệ cung cấp điện hạt nhân lên khoảng 25% vào năm 2030. Đề
xuất này đã bị từ chối bởi một cuộc trưng cầu dân ý năm 2011. Năm 2014, Pháp đặt
mục tiêu giảm tỷ lệ sản xuất điện hạt nhân xuống 50% vào năm 2025. Mục tiêu này
đã bị trì hoãn vào năm 2019 đến năm 2035, trước khi quyết định từ bỏ năm 2023.
Vào tháng 2/2022, Pháp công bố kế hoạch xây dựng 6 lò phản ứng mới và xem xét
xây dựng thêm 8 lò phản ứng nữa. Tôi có thể dẫn thêm nhiều ví dụ, tất cả đều
cho thấy áp lực phi lý và cảm tính của dư luận ảnh hưởng và chi phối chính sách
điện hạt nhân ở các nước phát triển, gây lãng phí lớn về tài nguyên và những
quyết định không đúng, thiếu mạch lạc ngăn cản việc khai thác hiệu quả nguồn
năng lượng này.
Tôi
có thể dẫn thêm nhiều ví dụ, tất cả đều cho thấy áp lực phi lý và cảm tính của
dư luận ảnh hưởng và chi phối chính sách điện hạt nhân ở các nước phát triển,
gây lãng phí lớn về tài nguyên và những quyết định không đúng, thiếu mạch lạc
ngăn cản việc khai thác hiệu quả nguồn năng lượng này.
Tấm gương của Nhật Bản mang tính biểu tượng ở nhiều khía cạnh. Bất chấp ảnh
hưởng của Hiroshima và Nagasaki, với số người chết lên tới trên 150.000 người,
Nhật Bản đã áp dụng việc sử dụng công nghệ hạt nhân vì mục đích hòa bình vào giữa
những năm 1970, với mục đích cung cấp một phần điện năng đáng kể cho đất nước.
Việc xây dựng các nhà máy mới tiếp tục diễn ra mạnh mẽ trong suốt những năm 80
và đến những năm 90, trái ngược với hầu hết các nước, Nhật Bản không bị ảnh hưởng
nhiều bởi sự cố Chernobyl năm 1986. Tuy nhiên, bắt đầu từ giữa những năm 90 một
số sự cố nhỏ và những vụ che đậy ở Nhật Bản đã xảy ra phần nào làm xói mòn nhận
thức của công chúng về ngành này, dẫn đến các cuộc phản đối xây dựng các nhà
máy mới. Giống như ở các quốc gia khác, nhận thức về mối nguy hiểm khi tiếp xúc
với bức xạ đã bị phóng đại quá mức, tạo ra nỗi sợ phi lý. Thực tế là năng lượng
hạt nhân an toàn hơn nhiều, với hệ số rất lớn, so với nhiên liệu hóa thạch đã bị
công chúng toàn cầu bỏ qua. Sự tồn tại của bức xạ tự nhiên mà tất cả chúng ta đều
tiếp xúc cũng vậy, ở mức xấp xỉ 3 mili Sievert mỗi năm, cao gấp ba lần so với
liều chấp nhận được của mỗi cá nhân do Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế
(IAEA) ấn định. Mặc dù tác động của bức xạ lên cơ thể con người đã được hiểu
khá rõ, nhưng người ta vẫn cho rằng năng lượng hạt nhân và chất thải hạt nhân
có nguy cơ cao, trong khi đó các nguồn phóng xạ khác, chẳng hạn như tia X y tế
và khí radon tự nhiên, có mức độ rủi ro thấp hơn nhiều. Các chuyên gia thì có
quan điểm hoàn toàn trái ngược với nhận định này.
Vào tháng 3/2011, sự cố Fukushima đã gây ra hậu quả vô cùng tai hại đối với
nhận thức của công chúng toàn cầu về sự an toàn của các nhà máy điện hạt nhân.
Số người chết vì sóng thần lên đến gần 20.000 người, trong khi chết vì sự cố hạt
nhân, chủ yếu do sự nóng chảy lõi lò phản ứng số 3, là bằng 0 nếu xem xét cái
chết do chiếu xạ ngay lập tức, và một người chết nếu tính đến cái chết của một
công nhân vì ung thư phổi do bức xạ bốn năm sau đó. Điều này bị phần lớn công
chúng bỏ qua. Sau tai nạn, một số người đã thiệt mạng sau khi được sơ tán khỏi
nhà của họ trong khu vực lân cận, nhưng không có trường hợp nào trong số này,
(tổng số bằng khoảng 10% số người chết bởi sóng thần), được cho là liên quan đến
phóng xạ. Những ca tử vong bao gồm bệnh nhân bệnh viện, người già tại các cơ sở
điều dưỡng, nguyên nhân tử vong do hạ thân nhiệt, tình trạng bệnh lý trầm trọng
và mất nước. Các nhà chức trách đã bị chỉ trích vì đã sơ tán quá nhiều người và
đã tuyên bố không an toàn ở một khu vực quá rộng gây ra thiệt hại không cần thiết
do đề phòng quá mức.
![]() |
Sóng thần tràn vào nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi ở thị trấn Okuma, tỉnh Fukushima, Nhật Bản. Ảnh: AFP |
Gần đây, Nhật Bản bắt đầu xả nước nhiễm xạ đã qua xử lý từ nhà máy điện Fukushima bị hỏng vào Thái Bình Dương. Bất chấp bằng chứng không thể chối cãi về sự an toàn của hoạt động này, nó đã kích hoạt một cuộc biểu tình, sự vô trách nhiệm và thiếu hiểu biết của một phổ rộng người trong xã hội: Trung Quốc, nước mua hải sản lớn nhất từ Nhật Bản, đã bị thiệt hại về kinh tế đáng kể khi dừng tất cả các hoạt động nhập khẩu hải sản từ Nhật Bản. Trung Quốc gọi việc xả nước này là một “hành động cực kỳ ích kỷ và vô trách nhiệm” và nhận định rằng Nhật Bản đang “để lại vết thương cho các thế hệ tương lai”. Hầu hết người Hàn Quốc bày tỏ sự phản đối và những người biểu tình ở Seoul đã cố xông vào Đại sứ quán Nhật Bản. Các cuộc biểu tình với sự giận dữ cũng được tổ chức tại Hồng Kông và Tokyo. Những người theo chủ nghĩa hòa bình xanh kêu gọi giữ nước trong các bể chứa cho đến khi công nghệ xử lý tốt hơn được phát minh. Các cộng đồng dân cư ven biển và ngư dân ở Nhật Bản bày tỏ lo ngại rằng việc xả nước sẽ khiến người tiêu dùng lo lắng, tránh ăn hải sản từ khu vực này và công chúng Nhật Bản bị chia rẽ sâu sắc về vấn đề này, chỉ một nửa số người dân ủng hộ việc xả nước.
Những biểu hiện thiếu chín chắn như vậy thật khiến tôi vô cùng nản lòng;
chúng cho thấy rằng nhân loại vẫn còn rất xa mới có thể quản lý các nhà máy điện
hạt nhân một cách có trách nhiệm và tác động của áp lực do phong trào chống hạt
nhân phi lý gây ra có thể sẽ tiếp tục ngăn cản sự tiến bộ của lĩnh vực này
trong nhiều năm ở các nước dân chủ, như đã và đang xảy ra trong bốn thập kỷ
qua. Ngược lại, ở Ấn Độ và Trung Quốc, nơi hoạt động chống hạt nhân phần lớn bị
đàn áp, các tiêu chuẩn an toàn hạt nhân đã được thực thi ở mức được IAEA coi là
rất thỏa đáng. Tình trạng khác biệt như vậy gây khó khăn cho việc xác định ưu
tiên toàn cầu làm cho năng lượng hạt nhân có thể đóng vai trò quan trọng trong
quá trình chuyển đổi năng lượng mà hành tinh đang kêu gọi.
Nhân
loại vẫn còn rất xa mới có thể quản lý các nhà máy điện hạt nhân một cách có
trách nhiệm và tác động của áp lực do phong trào chống hạt nhân phi lý gây ra
có thể sẽ tiếp tục ngăn cản sự tiến bộ của lĩnh vực này.
Ví dụ thứ tư, chúng
ta có thể xem xét là vấn đề chăm sóc sức khỏe. Nhiều cải thiện trong sức khỏe
con người đã được thực hiện trong những năm gần đây. Rõ ràng, đây là mục tiêu
mà SDG đạt được nhiều tiến bộ nhất. Tuy nhiên, sự bất bình đẳng lớn giữa các nước
nghèo và nước giàu khiến cho những nước này khó có thể đạt được quan điểm chung
về các ưu tiên. Giải quyết sự bất bình đẳng là điều kiện quan trọng để tiến bộ.
Bất bình đẳng là thách thức cơ bản đối với bảo hiểm y tế toàn dân, lớn hơn với
những người giàu hơn, có trình độ học vấn cao hơn và ở khu vực thành thị, đặc
biệt ở các nước thu nhập thấp. Tăng cường đầu tư cho hệ thống y tế là rất quan
trọng để bảo vệ các nhóm dân cư và cá nhân dễ bị tổn thương, sống ở những khu vực
có tỷ lệ mắc bệnh cao. Tiến bộ chưa đạt được đầy đủ ở một số lĩnh vực, chẳng hạn
như giảm tỷ lệ tử vong ở bà mẹ. Trên toàn cầu, năm 2020 có khoảng 800 phụ nữ tử
vong mỗi ngày do mang thai hoặc sinh con. Gần 400 triệu người bị đẩy vào tình
trạng nghèo cùng cực vào năm 2019 do thiếu tiền cho sức khỏe. Hơn nữa, đại dịch
COVID-19 đã khiến số lượng tiêm chủng ở trẻ em sụt giảm lớn nhất trong ba thập
kỷ, khiến hàng triệu trẻ em có nguy cơ mắc phải những căn bệnh nguy hiểm có thể
phòng ngừa được. Số ca tử vong do bệnh lao và sốt rét đã tăng lên rất nhiều so
với trước đại dịch.
Trong bối cảnh như vậy, để minh họa sự chênh lệch và thách thức mà chăm sóc
sức khỏe đặt ra đối với tiến trình toàn cầu hướng tới một sức khỏe tốt hơn, hãy
so sánh hai trường hợp cực đoan: Nhật Bản và Nigeria. Hai nước có dân số lần lượt
là 127 và 203 triệu người và tổng thu nhập quốc nội (GDP) bình quân đầu người lần
lượt là 39,3 và 2,1 nghìn đô la. Tỷ lệ GDP đầu tư vào chăm sóc sức khỏe là 11%
với Nhật Bản và 3% với Nigeria. Tỷ lệ bác sĩ y khoa trên 10.000 bệnh nhân là 26
ở Nhật Bản và 1,2 ở Nigeria. Tháp tuổi rất khác nhau với độ tuổi trung bình là
49 tuổi ở Nhật Bản và 17 tuổi ở Nigeria. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh trên một
nghìn ca là 1,6 ở Nhật Bản và 56 ở Nigeria. Nhìn từ quan điểm toàn cầu, tình trạng
khẩn cấp của hành tinh rõ ràng ngụ ý việc chuyển các nguồn lực lớn từ Nhật Bản
sang Nigeria nhằm khôi phục phần nào công lý và bình đẳng giữa hai quốc gia. Thậm
chí khi bạn cho rằng cái chết của một đứa trẻ sơ sinh có nghĩa là mất đi nhiều
chục năm cuộc đời trong khi cái chết của một người lớn tuổi chỉ có nghĩa là một
vài năm. Tuy nhiên, trên thực tế, điều này rõ ràng là không thể thực hiện được
trong thế giới chúng ta đang sống, nơi quyền lực nằm trong tay mỗi quốc gia.
Khôi phục sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe trên toàn thế giới trong khoảng
thời gian vài thập kỷ là một giấc mơ xa vời.
Khôi
phục sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe trên toàn thế giới trong khoảng thời
gian vài thập kỷ là một giấc mơ xa vời.
Ví dụ cuối cùng, một số
người cho rằng những đổi mới công nghệ trong tương lai sẽ mở đường cho sự phát
triển bền vững toàn cầu. Đổi mới công nghệ nhằm mục đích thúc đẩy sử dụng hydro
trong quá trình chuyển đổi năng lượng, thu hồi và lưu trữ carbon, chuyển đổi kỹ
thuật số và nhiều ý tưởng khác, mà nhìn từ Việt Nam, dường như đó là những điều
đến từ một thế giới khác với thế giới chúng ta đang sống. Tôi đã quá già để có
thể bị hấp dẫn bởi những chiếc xe không người lái hay bởi Elon Musk với mong muốn
thiết lập sự hiện diện lâu dài của con người trên sao Hỏa, để loài người không
còn chỉ tồn tại trên hành tinh duy nhất có thể sống được của mình. Tôi đã quá
già để cảm thấy lo lắng về vụ nổ của Titan, trên hành trình khám phá xác tàu
Titanic, đã khiến 5 người tử vong, hay bốn ngày trước đó, Messenia, một tàu
đánh cá rỉ sét và quá tải, đã bị chìm khi đang chở khoảng 400 đến 750 người di
cư, trong đó chỉ có 100 người được cứu thoát. Công chúng và giới truyền thông
ít chú ý đến vụ chìm tàu sau so với vụ trước. Sự tương phản của hai vụ đắm tàu
cho ta một minh họa rõ ràng về sự tương phản giữa công nghệ do các nước phát
triển giàu có đưa ra và những công nghệ mà các nước nghèo, đang phát triển cần.
Trong nghiên cứu của mình, tôi đã dành nhiều thời gian và công sức để “thuần
hóa” máy tính, chúng là những người bạn đồng hành rất quen thuộc; Tôi biết rõ về
chúng và có một điều rõ ràng chúng không thông minh. Chúng chỉ là những công cụ
và giống như bất kỳ công cụ nào khác, chúng có thể được sử dụng tốt hoặc xấu.
Thật không may, con người hiện nay tán dương những ưu điểm của Trí tuệ Nhân tạo thường rơi vào loại thứ hai. Tôi hiểu rằng
sự đổi mới nói chung và công nghệ mới nói riêng phải được các nước đang phát
triển quan tâm, rằng những sinh viên xuất sắc hơn phải được khuyến khích làm
quen với chúng. Nhưng điều này hàm ý phải có sự lựa chọn cẩn thận những thứ phù
hợp nhất với nhu cầu của đất nước và việc quảng bá chúng thường nói dễ hơn làm.
Tôi nhớ mình đã cố gắng thuyết phục người đứng đầu một viện thuộc Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam đào tạo một nhóm nhỏ các kỹ sư trẻ sáng giá về
vi điện tử và thiết kế, sản xuất mạch tích hợp. Tôi tin chắc rằng đây là một dự
án thực tế với xác suất thành công lớn và tỷ lệ đầu tư đầy hứa hẹn. Nhưng tôi
đã không thành công.
SDG chắc chắn vẫn là một giấc mơ phi thực tế. Chúng được các nước nghèo coi
là “giúp các nước giàu hơn thanh lọc lương tâm khi họ kiên định cố gắng hợp
pháp hóa các trật tự địa chính trị và tân tự do” vốn là nguyên nhân gây ra
đau khổ cho họ. Một trong những Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ quan trọng,
có trước SDG, là “xóa đói nghèo cùng cực” từ năm 1990 đến năm 2015. Một thập kỷ
sau, SDG đặt mục tiêu hàng đầu thực hiện điều tương tự, trong khi hàng trăm triệu
người vẫn nghèo.
Nguyễn Dung dịch
Tác giả:
![]() |
Pierre Darriulat |
Nguồn bài dịch: Phát triển bền vững: Một tương lai phi thực?, Tạp chí Tia sáng, 9/10/2023.
