CAO HUY THUẦN và THÍCH TRÍ QUANG
Nguyễn Thùy An
![]() |
Giáo sư Cao Huy Thuần (1964-2024) |
![]() |
Thiền sư Thích Trí Quang (1923-2019) |
Dù đã đọc qua các tác phẩm và tiểu luận của Giáo sư Thuần từ trước đó, phải chờ đến khi nhận được lời khuyên và sự động viên của Bác Trần Hải Hạc, tôi mới dám ngỏ lời xin trò chuyện cùng ông. Như Giáo sư Thuần tự nhận với tôi, ông “ít nói” và đã nhiều lần “từ chối phỏng vấn hay viết lại chuyện cũ.” Trong hồi âm đến thư dài giới thiệu của tôi vào mùa xuân năm 2022, ông đã không quên cho tôi biết cuộc trò chuyện mà ông đã đồng ý, thực tế, là ngoại lệ: “Cô đánh đúng chỗ yếu của tôi. Cho nên tôi khó lòng không tỏ thiện cảm và quý mến của tôi khi đọc thư cô. Nhưng xin cô nhớ câu viết đầu thư của tôi: tôi rất ít nói và chuyện ấy lại rất khó nói. Tôi sợ cô sẽ thất vọng.” Tôi mừng khôn xiết!
Nhờ sự hỗ trợ của gia đình Giáo sư Thuần và công nghệ FaceTime/Viber, mà
chúng tôi đã có được những buổi nói chuyện đường dài với nhau. Lắm lúc,
chúng tôi phải dời hẹn, hoặc cắt ngắn thời gian, vì lý do sức khoẻ, hay
vì Giáo sư bị ho mà không tìm được thuốc đúng để mua (Giáo sư đùa, “Tôi
còn ho mà tiệm thuốc thì cứ hết kho!”). Cũng không ít khi, chúng tôi nói
hơn một tiếng đồng hồ mà giọng Giáo sư vẫn rõ, mạnh, thi thoảng lại run run khi
nhắc đến điều khiến ông xúc động.
Dù ngắn hay dài, những buổi nói chuyện với người đi trước đều giúp tôi hiểu
thêm được nhiều điều về người đã xa, lẫn việc trước mắt. Nếu như từ Bác Trần Hải
Hạc, tôi học được lịch sử phức tạp đằng sau những cuộc vận động cho
hòa bình đầy chông gai – và cũng đầy can đảm – của trí thức và sinh viên
Phật tử Việt Nam tại hải ngoại, thì từ Giáo sư Cao Huy Thuần, tôi hiểu thêm được
phần nào tâm tư của người nặng nợ với Phật giáo đồ bên kia đại dương.
Khi trò chuyện về căn nguyên gặp gỡ giữa ông và Thầy Trí Quang, Giáo sư tả
cho tôi nghe thời khắc lần đầu ông nhìn thấy đôi mắt sáng của Thầy. Thời khắc ấy,
ông nói, cũng “khủng khiếp, mãnh liệt” không khác chi cảm giác nam nữ bị
tiếng sét ái tình. Đôi mắt ấy cho ông biết nhà lãnh tụ này sẽ thay đổi không chỉ
cuộc đời ông, mà còn là vận mệnh của rất nhiều đồng bào của ông. Vị thiền sư –
người ít nói đến nỗi mỗi chữ thốt ra đều tựa giọt mưa ngọt lành buổi hạn hán –
đã mang lại cho người thanh niên lập ra tờ báo Lập Trường ở
Huế nguồn hy vọng gần như là cứu tinh.
Qua những tư liệu bản thân góp nhặt, tôi hiểu Giáo sư không hề một mình
trong cảm giác ngưỡng mộ và hy vọng đó. Vị trí trọng vọng của Thiền sư Trí
Quang trong lòng Phật tử và trên chính trường miền Nam vẫn tồn tại ngay cả sau
năm 1966, thời điểm mà nhiều sử gia, khi nhìn lại cuộc chiến, đã đặt dấu
chấm hết cho ảnh hưởng chính trị của Khối Phật giáo Ấn Quang. James McAllister,
chẳng hạn, kết luận: “Cả Trí Quang lẫn phong trào Phật giáo nói chung đều
không thể sống sót sau cuộc khủng hoảng năm 1966,” và rằng, từ năm 1967 đến
khi chiến tranh kết thúc, “Trí Quang và các Phật tử hiếu chiến hoàn toàn đứng
ngoài tiến trình chính trị của miền Nam Việt Nam”(1). Tương tự,
Jeffrey Clarke xem cuộc tranh đấu năm 1966 là “nỗ lực kháng cự cuối cùng của
Phật giáo với tư cách là một lực lượng chính trị trung gian”(2).
Chỉ một, hai dữ kiện lịch sử cũng đủ khắc họa nên một bức tranh hoàn
toàn khác: Ngày 22 tháng 5 năm 1970, Thượng tọa Viện trưởng Thích Thiện
Hoa tuyên bố bản thông cáo của Viện Hóa Đạo, chính thức phát động phong
trào “đòi hòa bình” của Phật giáo Ấn Quang. Mở đầu phong trào sẽ là một cuộc
tuyệt thực kéo dài 48 tiếng, và sau đó là một buổi biểu tình quy tụ
10 ngàn đồng bào Phật tử, tăng ni đến Dinh Độc Lập. Tờ nhật báo Đuốc
Nhà Nam, chủ biên là nhà báo lão thành Trần Tấn Quốc, không quên đưa kèm
thông tin về nhân vật được trông chờ nhất: “Nếu sau 48 tiếng vẫn không cải
thiện, Thượng tọa Trí Quang sẽ lộ diện tham gia tranh đấu… Giới thạo tin cho rằng
nếu Thượng tọa Trí Quang xuất hiện thì cuộc tranh đấu sẽ bùng phát mạnh mẽ vô
cùng”(3).
Ba tháng sau, liên danh (Phật giáo) Hoa Sen của luật sư Vũ Văn Mẫu, với sự ủng
hộ của Khối Ấn Quang, cán đích đầu cuộc đua vào Thượng viện. Trong 16 liên danh
tranh cử, Hoa Sen chiến thắng với 65.7 phần trăm tổng số phiếu bầu. Thành công
“đáng nể” – từ mà Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker dùng khi thuật lại
kết quả với Tổng thống Nixon – của Hoa Sen đã thúc đẩy quyết tâm mưu
cầu “cuộc đua một người” vào Dinh Độc Lập của Tổng thống Thiệu một năm sau đó. Ảnh
hưởng của Phật giáo và của Thích Trí Quang, rõ ràng, không chỉ dừng lại ở năm
1966.
Người nhận thức được tầm quan trọng lịch sử của Thiền sư Trí Quang
không chỉ có Giáo sư Cao Huy Thuần. Nhưng người vì Thích Trí Quang và những khắc
họa về ông trong sử liệu và ký ức đương đại mà thao thức, trăn trở, nhức
nhối đến nỗi phá lệ nói ra “những gì vốn đã nên quên nhưng dặn mình phải nhớ”
với một người vô danh, vô diện, chưa một lần gặp mặt dù chỉ qua màn hình máy
tính, có lẽ chỉ có Giáo sư Thuần.
Với ông, trải lòng với hậu bối là “cơ hội cuối” để giúp cố nhân cất
lên tiếng nói rất, rất khó nói. Như ông đã viết trong thư gửi tôi: “Khi
cô không trắng cũng không đen, mà người khác thì cứ muốn cô phải đen hay trắng,
rồi dí súng lục vào màng tang cô, cô nói thế nào? Cái súng lục ấy là bối cảnh
chiến tranh mà bây giờ càng lúc càng suy nghĩ về nó, lại càng thấy đau.” Dù
khó nói, dù đau, dù đó là tiếng nói rất ít ai chịu nghe, hiểu, Giáo sư Thuần vẫn
chọn nói ra. Tấm tình đó của ông dành cho tôi – người muốn hiểu
đủ để chịu và cần nghe ông nói – là một phần, nhưng cho tri kỷ, cho
quê hương là vạn phần.
Dòng thư (tái bút) cuối mà Giáo sư Thuần gửi tôi là một lời đồng cảm quen
thuộc: “Tôi thương cảm tình cảnh cô đơn của cô khi đọc bài tường thuật về hội
thảo ở Berkeley. Giá mà có anh Long…” Tôi không rõ bài tường thuật mà Giáo
sư nhắc đến là bài viết nào. Chỉ biết, từ ngày Thầy tôi – Ngô Vĩnh Long – đột
ngột ra đi gần hai năm trước, những lời chia sẻ, động viên “thuyền xuôi lái
vững” của Giáo sư đã tiếp sức cho tôi rất nhiều. Đồng thời, tôi không quá
buồn, vì hiểu được “cô đơn” có lẽ cũng là trạng thái vĩnh cửu của một số người,
hoặc một số con đường mà ta chọn để đi…
Thiền sư Thích Trí Quang, theo Giáo sư Thuần, cũng là một người suốt đời cô
đơn. Thế mà, người cô đơn ấy lại là người dạy cho ông “cái nhìn để không sợ
cô đơn trong cuộc đời. Và trong sự thật.” Như Giáo sư từng chia sẻ trong
bài viết tưởng niệm Thầy Trí Quang trên tạp chí Viet-Studies, Thầy
đã nhắc nhở ông: “nước trong quá thì không có cá” (4).
Tôi muốn nhân bài viết này nói lên lời cảm ơn đến Thầy tôi, đến Bác Hạc, đã
động viên tôi kết nối với Giáo sư Thuần, cũng như tri ân tất cả những gì ba người
và bằng hữu của họ đã chọn làm – và chọn nói – vì thế hệ đi sau.
Xin hẹn gặp lại Giáo sư Thuần ở nơi mà nước càng trong, cá sẽ càng đến bơi
lội cùng.
Mỹ, 11 tháng 7, 2024
Nguyễn Thùy An
Nguồn dẫn trong bài
(1) James McAllister, “'Only Religions Count in Vietnam':
Thich Tri Quang and the Vietnam War [Ở Việt Nam, Chỉ có Tôn giáo là
Quan trọng’: Thích Trí Quang và Chiến tranh Việt Nam],” Modern Asian
Studies 42, số 4 (2008), tr. 752, 781.
(2) Jeffrey Clarke, United States Army in Vietnam: Advice and
Support: The Final Years 1965-1973 [Quân đội Mỹ ở Việt Nam: Cố vấn
và Hỗ trợ: Những Năm Cuối 1965-1973] (Washington, D.C.: Center of Military
History, United States Army, 1988), 143.
(3) “Phật Giáo Sẽ Phát Động Phong Trào Đòi Hòa Bình Từ 31-5-70,” Đuốc
Nhà Nam, 30 tháng 5, 1970, tr. 1, 6.
(4) Cao Huy Thuần, “Thầy Trí Quang: Một trang lịch sử,” Viet-Studies, 9 tháng 11, 2019.
NGUỒN: Tác giả gửi cho Diễn Đàn ngày 11.7.2024
Nguồn bài đăng: CAO HUY THUẦN và THÍCH TRÍ QUANG, diendan.org,
12.07.2024.
