1.9.17

Không, hiện tượng nhiệt độ khí hậu nóng lên đã không dừng lại vào năm 1998

KHÔNG, HIỆN TƯỢNG NHIỆT ĐỘ KHÍ HẬU NÓNG LÊN ĐÃ KHÔNG DỪNG LẠI VÀO NĂM 1998
Hiện tượng nhiệt độ khí hậu “tạm dừng” nóng lên từ năm 1998 đến năm 2012 gắn với sự ra đời của một kỹ thuật đo đạc mới. Cho dù những người hoài nghi về hiện tượng khí hậu nóng lên có chống đối kết luận này đi nữa.
Một tảng băng trôi ở bán đảo Nam Cực. Ảnh: EITAN ABRAMOVICH/AFP
Nếu không có sự xuất hiện sắp tới của Donald Trump tại Nhà Trắng và sự hình thành một chính quyền Mỹ thống trị bởi những người hoài nghi hiện tượng biến đổi khí hậu, thì thông tin có thể sẽ không được bình luận nhiều. Trong ấn bản ra ngày Thứ tư, 4 tháng 1 của tạp chí Science Advances [Khoa học tiến bộ], các nhà nghiên cứu Mỹ do Zeke Hausfather (Đại học California, Berkeley) dẫn đầu đã cho thấy, dựa trên việc phân tích lại toàn bộ các dữ liệu đã được dẫn chứng, rằng hiện tượng nhiệt độ khí hậu nóng lên đã không hề dừng lại vào năm 1998 – trái với sự huyễn hoặc của các mạng lưới những người hoài nghi về hiện tượng biến đổi khí hậu.
Zeke Hausfather
Sự việc không là điều gì mới: vào tháng 6 năm 2015, trên tạp chí Science, các nhà nghiên cứu của Cục Quản lý Đại dương và Khí quyển Quốc gia (NOAA) đã chỉ ra rằng hiện tượng nhiệt độ khí hậu “tạm dừng nóng lênnổi tiếng, từ năm 1998 đến năm 2012, chủ yếu là do một độ chênh đo đạc, chứ không phải là một sự suy giảm đáng kể của tốc độ biến đổi khí hậu đang diễn ra. Nhưng việc đặt lại vấn đề của lập luận nhiệt độ khí hậu “tạm dừng [nóng lên]” được những người phản bác hiện tượng nhiệt độ khí hậu nóng lên do con người gây ra nêu bật một cách có hệ thống không phải là điều làm cho ai cũng hài lòng. Thật vậy, một số nhà lập pháp thuộc đảng Cộng hòa đã cáo buộc, kể từ đó, các nhà nghiên cứu của NOAA về sự gian lận khoa học và thao túng dữ liệu.
Chính điều này làm cho các kết quả được ông Hausfather và các đồng tác giả của ông công bố thêm sắc nét: họ chỉ ra rằng không những hiện tượng nhiệt độ khí hậu nóng lên đã không dừng lại vào năm 1998, mà còn chỉ ra rằng các nhà nghiên cứu của NOAA đã không làm méo mó bất kỳ dữ liệu khoa học nào. Họ chỉ đơn giản sửa chữa một độ chênh của công cụ – một hoạt động thường nhật, mà do sự phân cực hóa về mặt ý thức hệ và chính trị xung quanh vấn đề biến đổi khí hậu, đã bị đẩy lên thành có tầm truyền thông đại chúng quá đáng.

Độ chênh của công cụ

Để hiểu được vấn đề, chúng ta phải biết rằng nhiệt độ trung bình của Trái đất được tính toán không chỉ từ hàng triệu tọa độ tham chiếu trên những vùng đất nhô lên, mà còn từ các nhiệt độ bề mặt nước biển của các đại dương. Những nhiệt độ này chủ yếu được các tàu thuyền thu thập, bằng việc đơn giản lấy một mẫu nước biển. Nhưng vào đầu thế kỷ, dưới sự thôi thúc của UNESCO và Tổ chức Khí tượng Thế giới, một đội tàu nhỏ các phao trôi – được gọi là “Argo” – đã bắt đầu được triển khai để đo đạc, trực tiếp và theo thời gian thực, nhiệt độ của đại dương. Hàng ngàn các phao trôi như vậy ngày nay được rải khắp các vùng biển trên thế giới và cung cấp phần lớn các dữ liệu được các nhà nghiên cứu sử dụng.
Vì vậy, việc đưa vào một kỹ thuật đo đạc mới đã tạo ra một độ chênh có hệ thống của công cụ. Trong thực tế, việc lấy mẫu nước trước khi xem xét đến nhiệt độ sẽ “làm nóng” rất nhẹ các dữ liệu đo đạc. Sự gia tăng dày đặc các phao nổi Argo, vì vậy, đã “làm mát” nhiệt độ trung bình của Trái đất một cách giả tạo... Các nhà nghiên cứu của NOAA đã nhận diện được độ chênh này và đã hiệu chỉnh các dữ liệu của họ. Cách hiệu chỉnh nhẹ này nhưng đủ để sự “khác biệt”, tức hiện tượng khí hậu “tạm dừng nóng lên nổi tiếng, là ít hiển nhiên hơn nhiều.
Zeke Hausfather và các đồng nghiệp của ông đã tiến hành đánh giá lại nhiệt độ của các đại dương chỉ dựa trên những dữ liệu của các thiết bị nổi hoặc trôi giạt, và so sánh kết quả với các dữ liệu thu thập được từ vệ tinh. Trong mọi trường hợp, các đường biểu diễn nhiệt độ khí hậu nóng lên mà họ nhận được gần như khớp hoàn toàn với các đường biểu diễn nhiệt độ khí hậu nóng lên được các nhà nghiên cứu của NOAA công bố vào tháng 6 năm 2015. Kết quả của chúng tôi về cơ bản có nghĩa là họ [các nhà nghiên cứu của NOAA] đúng, họ đã không hề giả mạo các dữ liệu,” theo tuyên bố của ông Hausfather.
Lamar S. Smith (1947-)
Rex W. Tillerson (1952-)
Mức độ chính xác là điều rất hữu ích. Bởi vì, kể từ tháng 7 năm 2015, dân biểu thuộc đảng Cộng hòa Lamar Smith của bang Texas, đồng thời là chủ tịch Ủy ban khoa học, không gian và công nghệ của Hạ viện, đã yêu cầu được tiếp cận các trao đổi thư từ của các nhà khí hậu học của NOAA, cùng tất cả các dữ liệu làm cơ sở cho sự công bố của họ. NOAA phải nói rõ lý do tại sao họ đã thay đổi các dữ liệu để có được những kết quả mà họ cần để bảo vệ chính sách cực đoan của chính quyền [Obama] về biến đổi khí hậu, ông Smith tuyên bố như trên, vào tháng 10 năm 2015, trên tạp chí Nature. NOAA đã cung cấp toàn bộ các dữ liệu, nhưng từ chối yêu cầu của quốc hội cung cấp các trao đổi thư từ nội bộ của các nhà khoa học của họ. Ông Smith đã không tiếp tục trả lời các câu hỏi của báo Le Monde.
Scott Pruitt (1968-)
Cộng đồng các khoa học về khí hậu của Mỹ, lo ngại rằng những tình huống như vậy sẽ xảy ra thường xuyên dưới chính quyền của Trump. Vị trí Bộ trưởng ngoại giao, chẳng hạn, sẽ thuộc về Rex Tillerson, ông chủ của tập đoàn dầu hỏa ExxonMobil – người mà từ lâu là nhà tài trợ chính của phong trào hoài nghi về hiện tượng biến đổi khí hậu. Cơ quan Bảo vệ môi trường – tương đương với Bộ Môi trườngsẽ thuộc về Scott Pruitt, cũng là một người hoài nghi về hiện tượng biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên, trong khoa học về khí hậu, không có điều gì là đơn giản cả. Chưa nói đến hiện tượng nhiệt độ khí hậu “tạm dừng [nóng lên]”, hoặc nhiệt độ khí hậu ngưng nóng lên, chúng ta có thể thấy được một sự suy giảm rất nhẹ trên các đường biểu diễn từ năm 1998 đến năm 2012. Và một số nhà khoa học nổi tiếng về khí hậu, vì tính nghiêm túc của họ, tin rằng sự điều chỉnh của NOAA, mặc dù được ông Hausfather và các đồng tác giả của ông khẳng định, chưa đủ sức để giải trình đầy đủ. Họ viện dẫn đến các nhân tố biến đổi bên trong của hệ thống khí hậu, đặc biệt là giai đoạn đầu của một chu kỳ thời tiết lạnh của Thái Bình Dương...

Bão trong cốc nước

Michael E. Mann (1965-)
Stefan Rahmstorf (1960-)
Về phía các nhà nghiên cứu khác, họ cho rằng vụ việc, trong thực tế, là một cơn bão trong cốc nước. Một mức điều chỉnh nhỏ hơn 0,1°C, dù sao đi nữa, cũng không có tác động lớn và điều đó chắc chắn không liên quan gì đến một khác biệt giả định, theo nhận xét của nhà khí hậu học Stefan Rahmstorf (Viện nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu Potsdam). Chưa hề có một khác biệt nào đáng kể về mặt thống kê, như nhiều nghiên cứu đã chỉ rõ, và điều đó diễn ra bất luận phiên bản dữ liệu nào được sử dụng.Việc có điều chỉnh dữ liệu hay không, thì sự chậm lại [của hiện tượng nhiệt độ khí hậu nóng lên] quan sát được, dù sao đi nữa đã kéo dài trong thời gian quá ngắn để đặt lại vấn đề về xu hướng gia tăng [hiện tượng nhiệt độ khí hậu nóng lên] trên toàn cầu...
Đặc biệt, bất luận những điều chỉnh đối với các dữ liệu về nhiệt độ đo được ở bề mặt của trái đất từ năm 1998 đến năm 2012, thì từ đó đến nay thực tế đã bắt kịp những người hoài nghi về hiện tượng khí hậu. hiện tượng nhiệt độ khí hậu nóng lên đang chậm lại chỉ mang tính tạm thời, như chúng ta đã nghĩ, và điều này đã được xác định một cách rõ ràng, theo lời của Michael Mann, giám đốc Trung tâm Khoa học Hệ thống Trái đất tại Đại học Pennsylvania. Năm 2016 sẽ là năm thứ ba liên tiếp kỷ lục về độ nóng và chúng ta chưa bao giờ thấy ba kỷ lục liên tiếp bị phá v.
Nhà báo của tờ Le Monde
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
Print Friendly and PDF