16.8.21

Yuval Noah Harari: Những bài học từ một năm Covid


YUVAL NOAH HARARI: NHỮNG BÀI HỌC TỪ MỘT NĂM COVID

Yuval Noah Harari

Trong một năm của những đột phá về khoa học - và những thất bại về chính trị - chúng ta có thể học được gì cho tương lai?

Làm thế nào chúng ta có thể tóm tắt năm Covid từ một viễn cảnh lịch sử rộng lớn? Nhiều người tin rằng con số thương vong khủng khiếp mà vi-rút corona gây ra đã chứng tỏ sự bất lực của nhân loại trước sức mạnh của tự nhiên. Trên thực tế, năm 2020 đã cho thấy rằng nhân loại còn lâu mới bất lực. Các đại dịch không còn là những lực lượng tự nhiên không thể kiểm soát được. Khoa học đã khiến chúng trở thành một thách thức có thể giải quyết.

Vậy thì, tại sao lại có quá nhiều sự chết chóc và đau thương? Bởi vì các quyết định chính trị tồi tệ. 

Yuval Noah Harari (1976-)

Trong những kỷ nguyên trước, khi con người đối mặt với một dịch bệnh như Cái chết Đen, họ không biết điều gì đã gây ra nó hoặc làm thế nào để ngăn chặn nó. Khi dịch cúm năm 1918 bùng phát, các nhà khoa học giỏi nhất thế giới đã không thể nhận dạng được loại vi-rút chết người, nhiều biện pháp đối phó được thực hiện thì vô dụng, và những nỗ lực nhằm phát triển một loại vắc-xin có hiệu quả đã tỏ ra vô ích.

Mọi chuyện đã rất khác với Covid-19. Hồi chuông cảnh báo đầu tiên về một đại dịch tiềm tàng mới đã bắt đầu vang lên vào cuối tháng 12 năm 2019. Đến ngày 10 tháng 1 năm 2020, các nhà khoa học đã không chỉ phân lập được loại vi-rút gây bệnh, mà còn xác định được trình tự bộ gen của nó và đã công bố thông tin trực tuyến. Trong vòng vài tháng tiếp theo điều đã trở nên rõ ràng là có những biện pháp có thể làm chậm và ngăn chặn các chuỗi lây nhiễm. Trong vòng chưa đầy một năm vài loại vắc-xin có hiệu quả đã được đưa vào sản xuất hàng loạt. Trong cuộc chiến giữa con người và các mầm bệnh, chưa bao giờ con người lại mạnh mẽ đến thế.

Dịch chuyển cuộc sống sang trực tuyến

Cùng với những thành tựu chưa từng có của công nghệ sinh học, năm Covid cũng đã làm nổi bật sức mạnh của công nghệ thông tin. Trong những kỷ nguyên trước loài người hiếm khi có thể ngăn chặn các đại dịch bởi vì con người không thể theo sát các chuỗi lây nhiễm theo thời gian thực, và bởi vì chi phí kinh tế của những cuộc phong toả trên diện rộng là rất đắt đỏ. Vào năm 1918 bạn có thể cách ly những người mắc căn bệnh cúm đáng sợ, nhưng bạn không thể truy vết sự di chuyển của những người mang mầm bệnh có triệu chứng từ trước hoặc [những người mang mầm bệnh] không có triệu chứng. Và nếu bạn ra lệnh toàn bộ dân số của một đất nước phải ở nhà trong vài tuần, điều đó sẽ dẫn đến sự tàn phá về kinh tế, sự sụp đổ của xã hội và nạn đói trên quy mô lớn.

Ngược lại, vào năm 2020 cơ chế giám sát kỹ thuật số đã giúp việc theo sát và định vị các trung gian truyền bệnh dễ dàng hơn nhiều, có nghĩa là việc cách ly có thể vừa có tính chọn lọc hơn vừa có hiệu quả hơn. Thậm chí quan trọng hơn, tự động hóa và internet đã làm cho các cuộc phong toả trên diện rộng trở nên khả thi, ít nhất là ở những nước phát triển. Trong khi ở một số khu vực của thế giới đang phát triển trải nghiệm của con người vẫn gợi nhớ về các bệnh dịch trong quá khứ, ở phần lớn thế giới phát triển cuộc cách mạng kỹ thuật số đã làm thay đổi mọi thứ.

Hãy xem xét ngành nông nghiệp. Trong hàng ngàn năm việc sản xuất lương thực đã dựa vào lao động của con người, và khoảng 90% người dân làm nghề nông. Ngày nay ở các nước phát triển điều này không còn xảy ra nữa. Ở Mỹ, chỉ khoảng 1,5% người dân làm việc trong các trang trại, nhưng điều đó không chỉ đủ để nuôi sống tất cả những người ở nhà mà còn đưa Mỹ trở thành một nhà xuất khẩu lương thực hàng đầu. Hầu như tất cả công việc đồng áng đều được thực hiện bởi các máy móc, vốn đã miễn dịch với bệnh truyền nhiễm. Các cuộc phong toả vì vậy chỉ có một tác động nhỏ đến nghề nông.

Hãy tưởng tượng một cánh đồng lúa mì ở đỉnh điểm của Cái chết Đen. Nếu bạn bảo những nông phu ở nhà vào thời gian thu hoạch, bạn sẽ rơi vào nạn đói. Nếu bạn bảo những nông phu ra đồng và thu hoạch [lúa mì], họ có thể lây bệnh cho một người khác. Phải làm gì đây?

Bây giờ hãy tưởng tượng một cánh đồng lúa mì giống như vậy vào năm 2020. Một tổ hợp đơn định hướng bằng GPS có thể thu hoạch toàn bộ cánh đồng với hiệu suất cao hơn nhiều – và với cơ hội lây nhiễm bằng không. Trong khi vào năm 1349 một người nông phu trung bình thu hoạch được khoảng 5 giạ mỗi ngày, vào năm 2014 một tổ hợp đã lập một kỷ lục nhờ vào việc thu hoạch 30.000 giạ trong một ngày. Kết quả là Covid-19 không có tác động đáng kể đến hoạt động sản xuất toàn cầu của các loại cây trồng chủ lực chẳng hạn như lúa mì, ngô và gạo.

Để nuôi sống con người, thu hoạch ngũ cốc là chưa đủ. Bạn cũng cần phải vận chuyển nó, đôi khi trên hàng nghìn ki-lô-mét. Với phần lớn lịch sử, thương mại là một trong những nhân vật phản diện chính trong câu chuyện về các đại dịch. Các mầm bệnh chết người đã di chuyển khắp thế giới trên các tàu buôn và các đoàn lữ hành đường dài. Ví dụ, Cái chết Đen đã quá giang từ đông Á đến Trung Đông dọc theo Con đường Tơ lụa, và chính các tàu buôn của Genova sau đó đã mang nó đến châu Âu. Thương mại đã gây ra một mối đe dọa chết người như vậy bởi vì mỗi toa tàu cần một người điều hành, ngay cả những tàu biển nhỏ cũng yêu cầu hàng tá thủy thủ để vận hành, các con tàu và các nhà trọ chật chội là những điểm nóng của bệnh dịch.

Tự động hóa và Internet đã làm cho việc phong toả trên diện rộng trở nên khả thi, ít nhất là ở các nước phát triển

Vào năm 2020, thương mại toàn cầu có thể tiếp tục vận hành ít nhiều trơn tru bởi vì nó huy động rất ít người. Một con tàu chở hàng phần lớn được tự động hóa ngày nay có thể chở nhiều hơn hàng tấn [hàng hoá] so với đội tàu buôn của toàn bộ một vương quốc hiện đại sơ khai. Vào năm 1582, đội tàu buôn của Anh có tổng sức chở 68.000 tấn và cần khoảng 16.000 thủy thủ. Con tàu chở hàng OOCL Hong Kong, được đặt tên vào năm 2017, có thể chở khoảng 200.000 tấn trong khi yêu cầu thủy thủ đoàn chỉ 22 [người].

Đúng như vậy, những du thuyền với hàng trăm du khách và những chiếc máy bay với đầy hành khách đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát tán Covid-19. Nhưng ngành du lịch và lữ hành thì chẳng thiết yếu cho thương mại. Các du khách có thể ở nhà và những doanh nhân có thể [sử dụng] Zoom, trong lúc đó các con tàu ma tự động và những chuyến tàu hoả gần như không có người giữ cho nền kinh tế toàn cầu vận động. Trong khi ngành du lịch quốc tế đã lao dốc vào năm 2020, khối lượng thương mại hàng hải toàn cầu chỉ suy giảm 4%.

Sự tự động hóa và số hóa còn có một tác động thậm chí sâu sắc hơn đến các dịch vụ. Vào năm 1918, chẳng thể tưởng tượng được rằng các văn phòng, các trường học, các tòa án hay các nhà thờ có thể tiếp tục hoạt động trong tình trạng phong toả. Nếu học sinh và giáo viên ở yên trong nhà của họ, làm thế nào bạn có thể duy trì các lớp học? Hôm nay chúng ta biết được câu trả lời. Chuyển đổi trực tuyến có nhiều nhược điểm, nhất là sự tổn thất tinh thần to lớn. Nó cũng đã tạo ra những vấn đề không thể tưởng tượng trước đây, chẳng hạn như việc các luật sư xuất hiện tại tòa như những con mèo. Nhưng thực tế rằng tất cả những điều đó đều có thể xảy ra thật đáng kinh ngạc.

Vào năm 1918, loài người chỉ sinh sống ở thế giới thực, và khi vi-rút cúm chết người càn quét qua thế giới này, loài người chẳng còn nơi nào để chạy. Ngày nay nhiều người trong chúng ta đang sống trong hai thế giới – thực và ảo. Khi vi-rút corona lan tràn qua thế giới thực, nhiều người đã chuyển phần lớn cuộc sống của họ sang thế giới ảo, nơi vi-rút không thể bám theo được.

Cảnh sát phối hợp ở Hanover, Đức, giải tán một nhóm đang chơi trong công viên © Rafael Heygster/Helena Manhartsberger

Tất nhiên, con người vẫn là những hữu thể thực, và không phải mọi thứ đều có thể được số hóa. Năm Covid đã nêu bật vai trò quan trọng mà nhiều ngành nghề được trả lương thấp nắm giữ trong việc duy trì nền văn minh con người: các y tá, những công nhân vệ sinh, các tài xế xe tải, những người thu ngân, những người giao hàng. Người ta thường nói rằng mỗi nền văn minh chỉ cách tình trạng mọi rợ dăm ba bữa. Vào năm 2020, những người giao hàng là lằn ranh đỏ mỏng manh giữ nền văn minh không bị đứt quãng. Họ trở thành những huyết mạch tối quan trọng của chúng ta với thế giới thực.

Hệ thống internet vẫn đứng vững

Khi nhân loại tự động hóa, số hóa và chuyển đổi các hoạt động sang trực tuyến, điều đó đặt chúng ta vào những mối nguy mới. Một trong những điều đáng chú ý nhất của năm Covid là internet không bị gián đoạn. Nếu chúng ta đột ngột tăng lưu lượng giao thông qua lại trên một cây cầu thực, chúng ta có thể gặp những cảnh tắc đường, và có lẽ thậm chí là sập cầu. Vào năm 2020, các trường học, các văn phòng và các nhà thờ đã chuyển đổi sang trực tuyến gần như chỉ trong một đêm, nhưng internet vẫn đứng vững.

Chúng ta hầu như chẳng dừng lại để suy nghĩ về điều này, nhưng chúng ta nên [như vậy]. Sau năm 2020 chúng ta biết được rằng cuộc sống vẫn có thể tiếp diễn ngay cả khi toàn bộ đất nước trong tình trạng phong toả thực. Bây giờ hãy thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của chúng ta gặp sự cố.

Công nghệ thông tin đã khiến chúng ta kiên cường hơn khi đối mặt với các loại vi-rút hữu cơ, nhưng nó cũng khiến chúng ta dễ bị tổn thương hơn trước phần mềm độc hại và chiến tranh mạng. Mọi người thường hỏi: “Covid tiếp theo là gì?” Một cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của chúng ta là ứng cử viên hàng đầu. Phải mất vài tháng để vi-rút corona phát tán khắp thế giới và lây nhiễm cho hàng triệu người. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của chúng ta có thể sụp đổ chỉ trong một ngày duy nhất. Và trong khi các trường học và các văn phòng có thể nhanh chóng chuyển đổi sang trực tuyến, bạn nghĩ sẽ mất bao lâu để chuyển từ thư điện tử |email| sang thư viết tay |snail-mail|?

Những điều gì là quan trọng?

Năm Covid đã cho thấy một hạn chế thậm chí còn quan trọng hơn về năng lực khoa học và công nghệ của chúng ta. Khoa học không thể thay thế chính trị. Khi chúng ta đi đến quyết định về chính sách, chúng ta phải tính đến nhiều lợi ích và giá trị, và vì không có phương thức khoa học nào để xác định đâu là những lợi ích và những giá trị quan trọng hơn, chẳng có phương thức khoa học nào để quyết định những gì chúng ta nên làm.

Ví dụ, khi quyết định liệu có áp đặt một cuộc phong toả hay không, thật là không đầy đủ nếu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ mắc bệnh vì Covid-19 nếu chúng ta không áp đặt cuộc phong toả?”. Chúng ta cũng nên đặt câu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ trải qua trầm cảm nếu chúng ta áp đặt một cuộc phong toả? Bao nhiêu người sẽ chịu đựng tình trạng dinh dưỡng tồi tệ? Bao nhiêu người sẽ thất học hoặc mất việc làm? Bao nhiêu người sẽ bị đánh đập hoặc bị sát hại bởi người bạn đời của họ?”

Ngay cả khi tất cả dữ liệu của chúng ta là chính xác và đáng tin cậy, chúng ta lúc nào cũng nên hỏi: “Chúng ta coi điều gì là quan trọng? Ai quyết định chuyện này? Làm thế nào để chúng ta đánh giá những con số đối nghịch nhau?” Đây là một nhiệm vụ chính trị hơn là nhiệm vụ khoa học. Chính các chính trị gia phải cân bằng giữa các cân nhắc về y tế, kinh tế, xã hội và đi đến một chính sách toàn diện.

Tương tự như vậy, các kỹ sư đang tạo ra các nền tảng kỹ thuật số mới giúp chúng ta vận hành trong tình trạng phong toả và các công cụ giám sát mới giúp chúng ta phá vỡ các chuỗi lây nhiễm. Nhưng việc số hóa và việc giám sát đe doạ đến quyền riêng tư của chúng ta và mở đường cho sự nổi lên của các chế độ toàn trị chưa từng có. Vào năm 2020, việc giám sát hàng loạt đã trở nên hợp pháp hơn và phổ biến hơn. Chiến đấu với đại dịch là quan trọng, nhưng điều đó có đáng để phá hủy sự tự do trong tiến trình của chúng ta hay không? Đó là công việc của các chính trị gia chứ không phải của các kỹ sư nhằm tìm ra sự cân bằng đúng đắn giữa cơ chế giám sát hữu ích và những cơn ác mộng điêu tàn.

Ba quy tắc cơ bản có thể đi một chặng đường dài trong việc bảo vệ chúng ta khỏi các chế độ độc tài kỹ thuật số, ngay cả trong thời kỳ bệnh dịch. Đầu tiên, bất cứ khi nào bạn thu thập dữ liệu về con người - đặc biệt là về những gì đang xảy ra bên trong chính cơ thể của họ - dữ liệu này nên được sử dụng để giúp đỡ những người này hơn là để thao túng, kiểm soát hoặc làm hại họ. Bác sĩ cá nhân của tôi biết nhiều điều cực kỳ riêng tư về tôi. Tôi đồng ý điều đó, bởi vì tôi tin tưởng bác sĩ của tôi sử dụng dữ liệu này vì lợi ích của tôi. Bác sĩ của tôi không được bán dữ liệu này cho bất kỳ tập đoàn hay đảng phái chính trị nào. Nó nên giống với bất kỳ loại “cơ quan giám sát đại dịch” nào mà chúng ta có thể thiết lập.

Các nhà nghiên cứu tại Viện vi sinh vật học Bundeswehr của Munich, một cơ sở nghiên cứu quân sự đã chẩn đoán ca bệnh Covid-19 đầu tiên của Đức © Rafael Heygster/Helena Manhartsberger

Thứ hai, việc giám sát phải luôn luôn tuân theo cả hai chiều Nếu việc giám sát chỉ đi từ trên xuống dưới, thì đây là con đường dẫn đến chế độ độc tài. Vì vậy bất cứ khi nào bạn tăng cường việc giám sát các cá nhân, bạn cũng nên đồng thời tăng cường việc giám sát chính phủ và các tập đoàn lớn. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng hiện nay các chính phủ đang phân phối những lượng tiền khổng lồ. Quy trình phân bổ các quỹ nên được minh bạch hơn. Là một công dân, tôi muốn dễ dàng xem ai nhận được cái gì, và ai đã quyết định tiền sẽ đi đến đâu. Tôi muốn đảm bảo rằng tiền được chuyển đến các doanh nghiệp thực sự cần nó hơn là vào một tập đoàn lớn mà các chủ sở hữu của nó là những người bạn của một bộ trưởng. Nếu chính phủ nói rằng quá phức tạp để thiết lập một hệ thống giám sát như vậy giữa đại dịch, đừng tin vào điều đó. Nếu không quá phức tạp để bắt đầu giám sát những gì bạn làm - thì cũng không quá phức tạp để bắt đầu giám sát những gì chính phủ làm.

Thứ ba, đừng bao giờ cho phép tập trung quá nhiều dữ liệu ở bất cứ nơi nào. Không chỉ trong đại dịch, và ngay cả khi nó qua đi. Sự độc quyền dữ liệu là một bí quyết cho chế độ độc tài. Vì vậy nếu chúng ta thu thập dữ liệu sinh trắc học về con người để ngăn chặn đại dịch, điều này nên được thực hiện bởi một cơ quan y tế độc lập hơn là bởi cảnh sát. Và dữ liệu kết quả nên được giữ tách biệt với các kho dữ liệu khác của các bộ trong chính phủ và [với các kho dữ liệu của] các tập đoàn lớn. Chắc hẳn, nó sẽ tạo ra những sự dư thừa và kém hiệu quả. Nhưng sự kém hiệu quả là một tính năng, chứ chẳng phải là một thiếu sót. Bạn muốn ngăn chặn sự gia tăng của chế độ độc tài kỹ thuật số? Ít nhất là giữ mọi thứ có một chút không hiệu quả.

Chuyển đến các chính trị gia

Những thành công chưa từng có về khoa học và công nghệ của năm 2020 đã không giải quyết được cuộc khủng hoảng Covid-19. Chúng đã biến dịch bệnh từ một thiên tai thành một tình thế tiến thoái lưỡng nan về chính trị. Khi Cái chết Đen giết chết hàng triệu người, chẳng ai kỳ vọng nhiều từ các vị vua và các hoàng đế. Khoảng một phần ba dân số của nước Anh đã chết trong làn sóng đầu tiên của Cái chết Đen, nhưng điều này không khiến Vua Edward III của Anh mất đi ngai vàng. Rõ ràng là việc ngăn chặn dịch bệnh vượt quá sức mạnh của các nhà cai trị, vì vậy chẳng ai đổ lỗi cho họ về sự thất bại.

Nhưng ngày nay loài người có các công cụ khoa học để ngăn chặn Covid-19. Một vài nước, từ Việt Nam đến Úc, đã chứng minh rằng ngay cả khi không có vắc-xin, các công cụ sẵn có vẫn có thể ngăn chặn dịch bệnh. Tuy nhiên, những công cụ này có giá cao về mặt kinh tế và xã hội. Chúng ta có thể đánh bại vi-rút - nhưng chúng ta không chắc mình có sẵn sàng trả giá cho chiến thắng. Đó là lý do mà các thành tựu khoa học đã đặt lên vai các chính trị gia một trách nhiệm vô cùng to lớn.

Đó là công việc của các chính trị gia thay vì các kỹ sư để tìm ra sự cân bằng đúng đắn giữa cơ chế giám sát hữu ích và những cơn ác mộng điêu tàn

Thật không may, quá nhiều chính trị gia đã thất bại trong việc hoàn thành trách nhiệm này. Ví dụ, các tổng thống theo chủ nghĩa dân túy của Mỹ và Brazil đã hạ thấp nguy cơ, bác bỏ lưu ý của các chuyên gia và thay vào đó là truyền bá các thuyết âm mưu. Họ đã không đề xuất được một kế hoạch hành động đúng đắn của liên bang và phá hoại những nỗ lực của các nhà chức trách ở tiểu bang và thành phố trong việc ngăn chặn dịch bệnh. Sự cẩu thả và thiếu trách nhiệm của các chính quyền Trump và Bolsonaro đã dẫn đến hàng trăm nghìn cái chết mà vốn dĩ đã có thể tránh được.

Ở Anh, ban đầu chính phủ dường như bận tâm đến Brexit nhiều hơn là Covid-19. Đối với tất cả các chính sách biệt lập của mình, chính quyền Johnson đã thất bại trong việc biệt lập nước Anh khỏi một thứ thực sự quan trọng: vi-rút. Đất nước Israel quê hương tôi cũng đã chịu sự quản lý yếu kém về chính trị. Giống như Đài Loan, New Zealand và Síp, Israel trên thực tế là một “quốc đảo”, với những đường biên giới khép kín và chỉ có duy nhất một cửa khẩu chính - Sân bay Ben Gurion. Tuy nhiên, tại đỉnh điểm của đại dịch, chính phủ của Netanyahu đã cho phép các khách lữ hành đi qua sân bay mà không hề có cách ly hoặc thậm chí là soi chiếu phù hợp và đã bỏ qua việc thực thi các chính sách phong toả của chính mình.

Các nhà nghiên cứu tại trạm thử nghiệm Covid-19 trong khoang lái |drive-in| ở trung tâm triển lãm Saarbrücken © Rafael Heygster/Helena Manhartsberger

Cả Israel và Anh sau đó đều đi đầu trong việc tung ra các vắc-xin, nhưng những đánh giá sai lầm ban đầu của họ đã khiến họ phải trả giá đắt. Ở Anh, dịch bệnh đã cướp đi sinh mạng của 120.000 người, đứng thứ sáu trên thế giới về tỷ lệ tử vong trung bình. Trong khi đó, Israel có tỷ lệ trường hợp được xác nhận [là mắc bệnh] trung bình cao thứ bảy, và để chống lại thảm họa [họ] đành phải dùng đến một thỏa thuận vắc-xin thay cho dữ liệu với tập đoàn Pfizer của Mỹ. Pfizer đã đồng ý cung cấp cho Israel đủ vắc-xin cho toàn bộ dân số, để đổi lấy những lượng dữ liệu khổng lồ có giá trị, [điều này] đang làm dấy lên những lo ngại về sự riêng tư và việc độc quyền dữ liệu, và đang chứng minh rằng dữ liệu của công dân hiện là một trong những tài sản có giá trị nhất của nhà nước.

Trong khi một số nước đã thực hiện tốt hơn nhiều, nhân loại nhìn chung cho đến nay đã thất bại trong việc ngăn chặn đại dịch, hay trong việc đề ra một kế hoạch toàn cầu để đánh bại vi rút. Những tháng đầu năm 2020 cứ y như xem một vụ tai nạn bằng chế độ “slow motion” (quay chậm). Truyền thông hiện đại giúp mọi người trên toàn thế giới có thể trông thấy theo thời gian thực những hình ảnh, đầu tiên là từ Vũ Hán, sau đó là từ Ý, sau đó là từ càng ngày càng nhiều nước khác nữa - nhưng không hề có một vị lãnh đạo toàn cầu nào đứng lên ngăn chặn thảm họa nhấn chìm thế giới. Các công cụ luôn có sẵn ở đó, nhưng sự sáng suốt về chính trị lại rất hay vắng mặt.

Những người xa lạ với sự cứu nguy

Một lý do giải thích cho khoảng cách giữa thành công khoa học và thất bại chính trị là các nhà khoa học đã hợp tác trên toàn cầu, trong khi các chính trị gia lại có xu hướng thù địch nhau. Làm việc dưới sự căng thẳng và sự không chắc chắn cao, các nhà khoa học trên thế giới đã thoải mái chia sẻ thông tin và cậy vào những phát hiện và sự thấu hiểu lẫn nhau. Nhiều dự án nghiên cứu quan trọng đã được thực hiện bởi các nhóm quốc tế. Ví dụ, một nghiên cứu trọng điểm chứng minh tính hiệu quả của các biện pháp phong toả đã được đồng thực hiện bởi các nhà nghiên cứu từ chín tổ chức - một ở Anh, ba ở Trung Quốc, và năm ở Mỹ.

Ngược lại, các chính trị gia đã gặp thất bại trong việc thành lập một liên minh quốc tế chống lại vi-rút và trong việc đồng thuận về một kế hoạch toàn cầu. Hai siêu cường hàng đầu thế giới, Mỹ và Trung Quốc, đã cáo buộc lẫn nhau về việc giấu giếm thông tin trọng yếu, về việc phổ biến thông tin sai lệch và các thuyết âm mưu, và thậm chí về việc cố tình phát tán vi-rút. Nhiều nước khác rõ ràng đã làm sai lệch hoặc giấu giếm dữ liệu về diễn biến của dịch bệnh.

Một trong khoảng 400 trung tâm tiêm chủng được thành lập ở Festhalle của Frankfurt, nơi thường là một địa điểm tổ chức buổi hòa nhạc © Rafael Heygster

Sự thiếu hợp tác toàn cầu tự nó thể hiện rõ ràng không chỉ trong các cuộc chiến thông tin này, mà thậm chí còn nhiều hơn thế nữa trong các cuộc xung đột về khan hiếm thiết bị y tế. Trong khi đã có nhiều ví dụ về sự cộng tác và lòng hào hiệp, chẳng có nỗ lực nghiêm túc nào được thực hiện nhằm chia sẻ tất cả các nguồn lực sẵn có, sắp xếp hợp lý quá trình sản xuất toàn cầu và đảm bảo sự phân phối bình đẳng các nguồn cung. Cụ thể, cách tiếp cận ưu tiên vắc xin cho quốc gia tạo ra một loại bất bình đẳng toàn cầu mới giữa các nước có thể tiêm chủng cho dân chúng của họ và các nước không thể.

Thật đáng buồn khi nhiều người không hề hiểu được một sự thật đơn giản về đại dịch này: chừng nào vi-rút vẫn tiếp tục lây lan ở bất kỳ nơi đâu, không đất nước nào có thể cảm thấy thực sự an toàn. Giả sử Israel hoặc Vương quốc Anh thành công trong việc diệt trừ vi-rút trong biên giới của mình, nhưng vi-rút vẫn tiếp tục lây lan trong hàng trăm triệu người ở Ấn Độ, Brazil hoặc Nam Phi. Một đột biến mới ở một thị trấn xa xôi nào đó của Brazil có thể khiến vắc-xin mất tác dụng, và dẫn đến một làn sóng lây nhiễm mới.

Trong trường hợp khẩn cấp hiện nay, những lời kêu gọi vị tha chủ nghĩa thuần tuý có lẽ sẽ không lấn át được những lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp hiện nay, sự hợp tác toàn cầu chẳng phải là chủ nghĩa vị tha. Nó là thiết yếu cho việc đảm bảo lợi ích quốc gia.

Chống vi-rút vì thế giới

Các tranh luận về những gì đã xảy ra vào năm 2020 sẽ lặp lại trong nhiều năm. Nhưng những người thuộc tất cả các phe cánh chính trị nên đồng thuận với nhau về ít nhất ba bài học chính.

Thứ nhất, chúng ta cần bảo vệ cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của mình. Nó là sự cứu rỗi của chúng ta trong đại dịch này, nhưng nó có thể sớm trở thành nguồn gốc của một thảm họa thậm chí còn tồi tệ hơn.

Thứ hai, mỗi nước nên đầu tư nhiều hơn vào hệ thống y tế công cộng của mình. Điều này có vẻ hiển nhiên, nhưng các chính trị gia và các cử tri đôi khi đã thành công trong việc lờ đi bài học rõ ràng nhất.

Thứ ba, chúng ta nên thiết lập một hệ thống toàn cầu mạnh mẽ để theo sát và ngăn chặn các đại dịch. Trong cuộc chiến lâu đời giữa con người và các mầm bệnh, tuyến đầu nằm ngay trong cơ thể của từng và mỗi thực thể con người. Nếu tuyến này bị phá vỡ ở bất kỳ đâu trên hành tinh, nó sẽ khiến tất cả chúng ta gặp nguy hiểm. Ngay cả những người giàu nhất ở các nước phát triển nhất cũng có lợi ích cá nhân để bảo vệ những người nghèo nhất ở các nước kém phát triển nhất. Nếu một loại vi-rút mới nhảy từ dơi sang người tại một ngôi làng nghèo trong một khu rừng hẻo lánh nào đó, thì trong vài ngày tới vi-rút đó có thể đi xuống Phố Wall.

Các phòng thí nghiệm của Bioscientia, nơi các cuộc thử nghiệm vi-rút corona được phân tích, đánh giá và lưu trữ © Rafael Heygster

Bộ khung của một hệ thống chống bệnh dịch toàn cầu như vậy đã tồn tại dưới hình dạng của Tổ chức Y tế Thế giới và một số tổ chức khác. Nhưng những nguồn ngân sách hỗ trợ hệ thống này rất ít ỏi, và nó hầu như không có trọng lượng chính trị. Chúng ta cần cung cấp cho hệ thống này một ít ảnh hưởng chính trị và nhiều tiền hơn nữa, để nó không hoàn toàn phụ thuộc vào những ý thích bất chợt của các chính trị gia ích kỉ. Như đã lưu ý trước đó, tôi không tin rằng các chuyên gia phi dân cử nên được giao nhiệm vụ đưa ra các quyết định chính sách quan trọng. Vẫn nên duy trì lãnh địa của các chính trị gia. Nhưng một số loại cơ quan y tế toàn cầu độc lập sẽ là nền tảng lý tưởng để tổng hợp dữ liệu y tế, theo dõi các mối nguy tiềm ẩn, nâng cao các cảnh báo và chỉ đạo nghiên cứu và triển khai.

Nhiều người lo sợ rằng Covid-19 đánh dấu sự khởi đầu của một làn sóng đại dịch mới. Nhưng nếu các bài học trên được áp dụng, cú sốc Covid-19 có thể thực sự đưa đến kết quả là đại dịch trở nên ít phổ biến hơn. Loài người không thể ngăn chặn sự xuất hiện của các mầm bệnh mới. Đây là một quá trình tiến hóa tự nhiên đã diễn ra hàng tỷ năm và cũng sẽ tiếp tục trong tương lai. Nhưng ngày nay loài người có kiến ​​thức và công cụ cần thiết để ngăn chặn một mầm bệnh mới lây lan và trở thành một đại dịch.

Tuy vậy, nếu Covid-19 tiếp tục lây lan vào năm 2021 và giết chết hàng triệu người, hoặc nếu một đại dịch thậm chí còn chết chóc hơn nữa tấn công nhân loại vào năm 2030, thì đây sẽ không phải là một thảm họa tự nhiên không thể kiểm soát và cũng chẳng phải là sự trừng phạt từ Chúa. Đó sẽ là một thất bại của con người và - chính xác hơn - là một thất bại của chính trị.

Yuval Noah Harari là tác giả của “Sapiens: Lược sử loài người”, “Homo Deus: Lược sử tương lai”, “21 bài học cho thế kỷ 21“ và “Sapiens: Lược sử loài người bằng tranh.

Nguyễn Thị Thanh Trúc dịch

Nguồn:Yuval Noah Harari: Lessons from a year of Covid“, Financial Times, ngày 26 tháng 2 năm 2021

----

Bài có liên quan:

Print Friendly and PDF