VỀ CÁC THUẬT NGỮ LIÊN QUAN TỚI KHÁI NIỆM TRƯỜNG TRONG TỪ ĐIỂN QUỐC TẾ VỀ BOURDIEU
CHAMP
[TRƯỜNG]
![]() |
Khái niệm trường được mượn từ vật lý lý thuyết: nó nắm bắt các mối quan hệ giữa các yếu tố trong một không gian, được quan niệm như một trường lực, theo nguyên lý (lực) hút – (lực) đẩy. Nguyên lý này được các nhà lý thuyết Gestalt chuyển sang tâm lý học. Kurt Lewin đã thích nghi nguyên lý đó vào tâm lý học xã hội để tư duy về các tương tác giữa cá nhân và môi trường của mình. Cũng theo nghĩa này của từ trường, Pierre Bourdieu đã đưa nguyên lý ấy vào xã hội học để tư duy về các không gian xã hội tương đối tự trị, đồng thời định nghĩa lại nó theo cách trừu tượng hơn: một trường lực (“không gian của các vị trí”), hoạt động cùng lúc như một trường đấu tranh (“không gian của sự chiếm lĩnh các cương vị”), hai cấp độ phân tích cần phải phân biệt, mặc dù cả hai không gian này duy trì các mối quan hệ đồng đẳng về mặt cấu trúc [Sociologie générale 1: 501-503].
Sự hình thành và xây dựng lý thuyết trường
Từ những năm 1970 trở đi, Bourdieu đã phát triển dự án một lý thuyết tổng quát về các trường không được công bố khi ông còn sống (bản thảo của cuốn sách vẫn chưa hoàn thành), nhưng vẫn có nhiều dấu vết, từ các hội thảo, bài giảng và bài nói chuyện mà ông dành cho lý thuyết này [PB 2013a; SG 1], cho đến các nghiên cứu mà bản thân ông, các thành viên trong nhóm của ông và các sinh viên của ông đã thực hiện về một số trường đặc thù: văn học [PB 1975d; Les règles de l'art], tôn giáo, khoa học [PB 1975e; 1976c; Science de la science et réflexivité], chính trị [Propos sur le champ politique], hàn lâm [Homo academicus], triết học [PB 1975j; L’Ontologie politique de Martin Heidegger], nghệ thuật [PB 1987a; Manet], biên tập [PB 1999a] – và cả thời trang cao cấp [Questions de sociologie: 196-206] (về sự hình thành và sự phát triển của lý thuyết này, xem Sapiro [2017]).










