22.4.22

Các biện pháp trừng phạt kinh tế có thể có những tác động gì?

CÁC BIỆN PHÁP TRỪNG PHẠT KINH TẾ CÓ THỂ CÓ NHỮNG TÁC ĐỘNG GÌ?

Nicolas Delalande

Nicholas Mulder, The Economic Weapon. The Rise of Sanctions as a Tool of Modern War [Vũ khí kinh tế. Sự trỗi dậy của các biện pháp trừng phạt như một công cụ của chiến tranh hiện đại], New Haven, Yale University Press, 2022.

Nước Nga của Vladimir Putin đang hứng chịu các biện pháp trừng phạt ở quy mô chưa từng có. Nhưng chúng ta có thể mong đợi điều gì? Trong cuốn sách vừa mới xuất bản, nhà sử học Nicholas Mulder đã nghiên cứu nguồn gốc và tính không rõ ràng của một công cụ được thiết kế, vào những năm 1920, để đẩy lùi bóng ma của một cuộc chiến tranh mới.

Nicholas Mulder

Thay vì trực tiếp tham gia vào cuộc xung đột, vốn có thể biến thành một cuộc chiến tranh thế giới và chiến tranh hạt nhân mới, người Mỹ và người châu Âu đã chọn cách sử dụng vũ khí trừng phạt kinh tế, để áp đặt chế độ của Vladimir Putin, các nhà tài phiệt ủng hộ Putin, và cuối cùng là người dân Nga phải trả một cái giá ở mức tối đa. Kể từ ngày 24 tháng 2, các biện pháp trừng phạt này đã dấy lên một loạt câu hỏi: Mục tiêu của các biện pháp trừng phạt kinh tế là gì? Liệu chúng có hiệu quả hay không, để ngăn chặn các kế hoạch của Vladimir Putin hoặc làm suy yếu quyền lực của ông ta? Liệu các biện pháp trừng phạt đó có được điều chỉnh tốt chưa, và cái giá mà nền kinh tế toàn cầu và người tiêu dùng ở những nước đã đưa ra các quyết định trừng phạt đó là gì? Chỉ trong vài ngày, quy mô của các biện pháp trừng phạt (đóng băng tài sản ở nước ngoài của giới tài phiệt, loại trừ các ngân hàng lớn của Nga khỏi hệ thống Swift, ngừng nhập khẩu thiết bị công nghệ, phong tỏa dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương Nga ở nước ngoài, đóng cửa không phận, v.v.) đã cho thấy quyết tâm của người Mỹ và người châu Âu trong việc không dừng lại ở “trạng thái làm ăn bình thường” (business as usual”), trước mức độ nghiêm trọng của cuộc tấn công do Nga phát động nhắm vào chủ quyền của Ukraine.

Tuy nhiên, liệu các biện pháp trừng phạt có phải là một “vũ khí” theo đúng nghĩa? Đó là một đường vòng làm suy yếu sức mạnh của Nga, mà không cần phải chính thức tuyên chiến với họ. Công cụ mà người Mỹ đã sử dụng trong nhiều thập kỷ qua để chống lại Cuba, Iraq, Iran hoặc Nga, không phải là điều gì mới. Với quy mô chưa từng có và với sự phối hợp trên bình diện quốc tế (ngay cả khi có nhiều nước châu Á và châu Phi bỏ phiếu trắng trong cuộc bỏ phiếu một nghị quyết của Liên hợp quốc kêu gọi Nga rút quân), các biện pháp trừng phạt hiện tại nhằm mục đích cô lập Nga khỏi nền kinh tế toàn cầu (ngoại trừ, đáng chú ý nhất là Trung Quốc), để buộc nước Nga phải gánh chịu đầy đủ chi phí kinh tế và xã hội của cuộc chiến do họ lựa chọn. Dưới một hình thức vốn không hoàn chỉnh và không thoả nguyện, các biện pháp trừng phạt nhằm tạo ra một kiểu tương đương giữa những đau khổ gây ra cho thường dân Ukraine với những thiệt hại gây ra cho nền kinh tế và người dân Nga.

Theo nhà sử học Nicholas Mulder, việc sử dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế để ngăn chặn chiến tranh, trừng phạt một nước hoặc tạo ra một sự thay đổi chế độ, bắt nguồn từ nửa đầu thế kỷ 20, khi kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Cuốn sách của Nicholas Mulder, chỉ mới vừa phát hành vài tuần trước, kết quả từ một luận án tiến sĩ được bảo vệ tại Đại học Columbia (New York), đã nhận được sự quan tâm sôi nổi của công chúng và giới truyền thông, bởi những sự kiện bi thảm trong vài ngày qua. Ngoài bối cảnh trước mắt này, đây là một cuốn sách rất hay, minh họa những đổi mới của lịch sử quốc tế, một cách tiếp cận kết hợp sự phân tích các thách thức về địa chính trị, các hình thức toàn cầu hóa kinh tế, sự quản trị người dân, hoặc sự huy động xuyên quốc gia của xã hội dân sự. Trong sự tiếp nối nhiều nghiên cứu được công bố gần đây (của Susan Pedersen, Glenda Sluga, Patricia Clavin, Mark Mazower, Jamie Martin, Daniel Laqua, Natasha Wheatley, v.v.), tác giả đã đánh giá lại tầm quan trọng của Hội Quốc Liên và các cuộc tranh luận, vốn đã diễn ra trong suốt thời kỳ giữa hai cuộc thế chiến, để tìm hiểu các nguyên tắc và cơ chế mà trên đó trật tự quốc tế thời hậu năm 1945 được xây dựng.

Phong tỏa và chiến tranh tổng lực

Lịch sử các biện pháp trừng phạt kinh tế đã khởi đầu từ khá lâu trước thế kỷ 20, trong các cuộc chiến tranh thời Napoléon (với Cuộc phong tỏa lục địa nổi tiếng) và sau đó là sự bành trướng của chủ nghĩa đế quốc châu Âu vào thế kỷ 19. Nhưng chính trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất mà việc hệ thống hoá biện pháp trừng phạt mới diễn ra, dưới tác động của một quá trình động viên toàn bộ các xã hội đang tham chiến (về quân sự, kinh tế, công nghiệp, văn hoá và tư tưởng, v.v.). Đối với Mulder, nguồn gốc các biện pháp trừng phạt nằm ở sự giao nhau giữa sự toàn cầu hóa kinh tế (tạo ra điều kiện cho một quan hệ tương thuộc lớn giữa các nước, đồng thời cũng là cội nguồn tiềm tàng của các biện pháp này) và sự xuất hiện của chiến tranh tổng lực. Các biện pháp phong tỏa của Vương quốc Anh và Pháp, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, đã khiến các cường quốc trung tâm bị bóp nghẹt, bị cắt khỏi các nguồn cung ứng nguyên liệu và nguồn vốn. Chính trong nội bộ các cơ quan cấp bộ chịu trách nhiệm áp dụng lệnh phong tỏa, mà những người bảo vệ nhiệt thành nhất cho việc sử dụng các biện pháp trừng phạt, đã được tuyển dụng, ngay trong những năm đầu thời hậu chiến. Giới chuyên gia, quan chức và chính trị gia này đã nhận thức rõ những tác động đáng kể của việc ngừng buôn bán trên các cường quốc đối phương và trên người dân các nước đó. Đã có từ 300 đến 400.000 người chết vì nạn đói hoặc bệnh tật ở Trung Âu trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, và gần 500.000 người chết ở các tỉnh Trung Đông của Đế chế Ottoman. “Vũ khí kinh tế”, theo cách gọi của người Pháp, “không phải là hổ giấy: Nó làm nghèo, gây ra cảnh chết đói và tàn phá những người dân phải gánh chịu nó, đến mức các hiệp hội bảo vệ xã hội dân sự đã lên tiếng phản đối chống lại việc sử dụng không phân biệt các biện pháp đó, ngay sau khi giao tranh kết thúc.

Léon Bourgeois (1851-1925)
Robert Cecil (1864-1958)

Thế nên, câu hỏi được đặt ra là liệu các biện pháp phong tỏa, được áp dụng trong chiến tranh, có thể tiếp tục được sử dụng trong thời bình hay không, khi biết rằng ranh giới giữa chiến tranh và hòa bình vẫn là điều rất mong manh, đặc biệt ở châu Âu trong những năm 1918-1919, được đánh dấu bởi các hệ quả của cuộc cách mạng Bolshevik, các cuộc nổi dậy có cảm hứng xã hội chủ nghĩa hoặc cộng sản chủ nghĩa, và sự tan rã của các đế chế lục địa. Các kiến trúc sư hòa bình đã gặp nhau ở Paris vào nửa đầu năm 1919, muốn xây dựng một trật tự quốc tế dựa trên các cơ chế ràng buộc. Chính trong số những người theo chủ nghĩa tự do đích thực, mà ý tưởng về Hội Quốc Liên đã hình thành, một tổ chức mới được thành lập bởi Hiệp ước Versailles, với khả năng trừng phạt những nước thành viên nào vi phạm các quy tắc của luật pháp quốc tế. Về phía Anh, huân tước Robert Cecil, một người nhiệt thành bảo vệ tự do thương mại, phụ trách việc phong tỏa trong chiến tranh, đã ủng hộ giải pháp này, cũng như nhà cấp tiến-xã hội chủ nghĩa người Pháp Léon Bourgeois, người sau này được trao giải Nobel Hòa bình năm 1920.

Một vũ khí răn đe

Nhìn chung, những người ủng hộ các biện pháp trừng phạt là những người theo chủ nghĩa quốc tế tự do, những người tin vào khả năng của luật pháp quốc tế trong việc ngăn chặn xung đột, thông qua trọng tài phán xử và áp đặt các chuẩn mực phổ quát. Nhưng họ cũng cho rằng luật pháp quốc tế không thể áp dụng mà không có cơ chế cưỡng chế (enforcement mechanism). Mọi vi phạm luật pháp quốc tế, mọi cuộc tấn công vào nền an ninh tập thể, đều phải trả giá về mặt kinh tế và tài chính. Việc sử dụng các biện pháp trừng phạt hàm ý rằng không thể tiếp tục tự do buôn bán với một Nhà nước đang tiến hành chiến tranh xâm lược. Những “người theo chủ nghĩa trừng phạt, theo như cách gọi của Mulder, không còn tin vào các tôn chỉ vì hòa bình của “thương mại mềm”.

Béla Kun (1886-1938)
Herbert Hoover (1874-1964)

Khi chiến tranh kết thúc, các biện pháp trừng phạt được áp dụng trong các cuộc xung đột vẫn tiếp tục có hiệu lực. Nạn đói đã hoành hành ở Áo-Hungary vào năm 1918-1919, rồi ở Nga vào đầu những năm 1920. Những người ủng hộ việc duy trì các biện pháp hạn chế kinh tế cũng ủng hộ song song việc triển khai các hoạt động nhân đạo ráo riết trong cộng đồng dân thường. Việc sử dụng kết hợp các biện pháp trừng phạt và nhân đạo diễn ra trong bối cảnh địa chính trị cực kỳ căng thẳng. Ở Hungary, những người chiến thắng trong cuộc chiến đã duy trì các biện pháp trừng phạt để làm suy yếu chính quyền cộng sản của Béla Kun, cuối cùng đã bị Romania đánh bại và buộc phải chạy trốn vào mùa hè năm 1919. Herbert Hoover, người phụ trách cơ quan Cứu trợ Hoa Kỳ, đã dần dần xa lánh ý tưởng sử dụng các biện pháp trừng phạt, mà ông nhận thấy những tác động có thể mang tính phản tác dụng, đặc biệt khi người Bolshevik dùng đó để cáo buộc Hoa Kỳ và các đồng minh đã gây ra nạn đói cho người dân Nga. Ở bên kia eo biển Manche, nhà kinh tế học John Maynard Keynes lo ngại về những tác động liên hợp của các khoản bồi thường nặng nề áp đặt lên nước Đức và của giả thuyết sử dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với sự ổn định của trật tự quốc tế mới.

Việc áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế được quy định tại Điều 16 trong Hiệp ước của Hội Quốc Liên, được thông qua vào ngày 28 tháng 6 năm 1919. Nếu nguyên tắc đó được hợp thức hóa, thì mọi thứ đều để ngỏ cho việc thực thi. Người Pháp ủng hộ việc thực thi các biện pháp trừng phạt tự động trong trường hợp có chiến tranh. Quyết định của Thượng viện Hoa Kỳ không phê chuẩn Hiệp ước Versailles, dẫn đến việc Hoa Kỳ rút khỏi Hội Quốc Liên, đã làm suy yếu giả thuyết này. Nhìn chung, những người ủng hộ việc sử dụng vũ khí kinh tế, ban đầu, chỉ nghĩ đến góc độ của một biện pháp răn đe, việc đe dọa sử dụng các biện pháp trừng phạt đủ sức để ngăn chặn một Nhà nước thành viên lao vào một cuộc xung đột vũ trang. Vả lại chính về mặt này mà người ta đã gợi lại các biện pháp trừng phạt được đưa ra trong hai cuộc xung đột vào đầu những năm 1920, lần đầu là để tháo kíp nổ ý tưởng hiếu chiến mới chớm nở của Nam Tư chống lại Albania vào năm 1921, và lần sau là để ngăn chặn cuộc xung đột giữa Hy Lạp và Bulgaria vào năm 1925. Nhưng đó chỉ là các nước “hạng hai”, phải hứng chịu cơn thịnh nộ của các cường quốc mà không đe dọa đến toàn bộ trật tự quốc tế.

Các biện pháp trừng phạt, chiến tranh chinh phục và chính sách tự cung tự cấp

Cuộc Đại suy thoái và sự xoay chuyển theo hướng độc tài đi kèm với nó, ở châu Âu và châu Á, đã đẩy các biện pháp trừng phạt theo một chiều kích mới. Đó không còn là vấn đề đưa một vài nước đang thiếu tài nguyên hoặc lãnh thổ vào kỉ cương, mà là sự phản ứng đối với sự trỗi dậy toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa quân phiệt trong những năm 1930. Khi thương mại và hệ thống tiền tệ quốc tế bị rạn nứt, đặc biệt sau khi kết thúc chế độ bản vị vàng, các cuộc xung đột quân sự đã xuất hiện trên một phạm vi hoàn toàn khác. Cuộc xâm lược Mãn Châu của Nhật Bản, vào năm 1931, là một thử thách đầu tiên. Hội Quốc Liên đã bất lực nhìn Đại Mãn Châu Đế quốc [Manchoukouo] được thành lập dưới sự kiểm soát của Nhật Bản, cho đến khi Nhật Bản rút khỏi Hội Quốc Liên vào năm 1933. Sau rất nhiều do dự, chính quyền Mỹ cũng từ chối việc thực thi các biện pháp trừng phạt, dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Herbert Hoover.

Benito Mussolini (1883-1945)
Haile Selassie (1892-1975)

Lần áp dụng đầu tiên trong thực tế các biện pháp trừng phạt kinh tế đã diễn ra trong cuộc chiến do phát xít Ý tiến hành chống lại Ethiopia của Haile Selassie vào năm 1935. Cả hai nước đều là thành viên của Hội Quốc liên, cuộc chiến tranh thuộc địa do Mussolini phát động đã trực tiếp vi phạm quy định tại điều 16. Hội Quốc Liên đã cố gắng cắt đứt Italia khỏi các nguồn tài trợ bên ngoài bằng cách ngăn chặn xuất khẩu của nước này, nhưng không làm gián đoạn việc nhập khẩu dầu của nước này, một biện pháp mà Hoa Kỳ đã từ chối hỗ trợ (vào thời điểm đó, các công ty dầu mỏ của Mỹ kiểm soát 60% sản lượng dầu thế giới...). Các biện pháp trừng phạt nói trên, mặc dù là thực tế, nhưng không đủ sức để kiềm chế bạo lực xâm lược của phát xít. Ngược lại, nó có tác dụng làm cho nước Ý nhích lại gần hơn với Đức Quốc xã. Việc sử dụng các biện pháp trừng phạt, nếu không thể ngăn chặn được chiến tranh hoặc đám cháy ở châu Âu, đã thúc đẩy các quá trình chuyển đổi kinh tế đang diễn ra kể từ đầu những năm 1930. Để chống lại các biện pháp trừng phạt, chính quyền phát xít đã kêu gọi sự huy động của toàn dân, bằng cách thu mua vàng và nữ trang, tiết chế hành vi tiêu dùng và tìm kiếm các nguồn sản xuất năng lượng khác (nhưng nước Ý của Mussolini vẫn phụ thuộc mạnh vào than và dầu mà nước này phải nhập khẩu). Các chế độ độc tài và toàn trị, đứng đầu là Đức Quốc xã và Nhật Bản, đã đẩy nhanh các dự án tự cung tự cấp về kinh tế, điều khiến họ muốn nắm quyền kiểm soát các vùng lãnh thổ giàu tài nguyên nông nghiệp và khoáng sản. Được coi như là một công cụ ngoại giao, các biện pháp trừng phạt đã tái cấu hình các mối quan hệ kinh tế quốc tế.

John M. Keynes (1883-1946)

Trong chương cuối, cuốn sách đề cập đến một khía cạnh khác của các biện pháp trừng phạt, đó là viện trợ kinh tế và tài chính dành cho các nước là nạn nhân một cuộc xâm lược. Phần “tích cực” của các biện pháp trừng phạt này, vốn được John Maynard Keynes đặc biệt ủng hộ, được cụ thể hóa trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thông qua chương trình vay-cho thuê (Lend-Lease) do Hoa Kỳ thiết lập vào năm 1941. Cùng với các biện pháp trừng phạt áp đặt lên các cường quốc của phe Trục, là các khoản tín dụng được cấp cho những nước muốn mua thiết bị và đạn dược của Hoa Kỳ. Như Mulder đã chỉ ra, lịch sử các biện pháp trừng phạt không thể tách rời lịch sử các chính sách viện trợ và phát triển, vốn đã trở thành một sự được mất của cuộc tranh chấp toàn cầu trong Chiến tranh Lạnh.

Không đủ sức, không hiệu quả, nhưng cần thiết?

Rốt cuộc thì các biện pháp trừng phạt kinh tế nhắm đến mục đích gì? Đó có phải là vũ khí của kẻ yếu, thứ vũ khí duy nhất mà những nước từ bỏ chiến tranh có thể chống lại bạo lực của bom đạn và súng ống? Liệu các biện pháp trừng phạt có thể thực sự gây ra cái giá đủ mạnh lên các chế độ mà họ nhắm làm mục tiêu, để hy vọng làm cho các chế độ đó tỉnh ngộ hoặc làm lung lay nền tảng của họ? Cuộc điều tra của Nicholas Mulder có lợi thế là làm sáng tỏ nhiều mục tiêu mà các biện pháp trừng phạt có thể đã được đầu tư trong thế kỷ 20. Vào đầu những năm 1920, những người ủng hộ các biện pháp trừng phạt đã bảo vệ quan điểm của họ nhiều hơn với hy vọng không phải áp dụng các biện pháp đó: theo họ, việc đe dọa sử dụng các biện pháp trừng phạt là đủ sức để đẩy lùi bóng ma chiến tranh. Một số người khác, những người theo chủ nghĩa tối đa (như Woodrow Wilson vào cuối cuộc Thế chiến lần thứ nhất), muốn xem các biện pháp trừng phạt như là một phương tiện để thay đổi chế độ hoặc dân chủ hóa thể chế các nước độc tài. Từ quan điểm này, các ví dụ lịch sử gần đây hầu như không có sức thuyết phục: Fidel Castro, Saddam Hussein, hoặc các lãnh tụ tinh thần của Iran, Taliban, cũng như Hugo Chávez hoặc Nicolas Máduro, không có ai bị lật đổ bởi các biện pháp trừng phạt do Hoa Kỳ áp đặt, đôi khi kéo dài hàng chục năm. Đó là vì cơ chế các chế độ độc tài không tuân theo logic thuần túy của tính duy lý kinh tế. Kịch bản mà theo đó các biện pháp trừng phạt được áp đặt lên Nga, về lâu dài, có thể dẫn đến một cuộc cách mạng cung đình, được tiến hành bởi một số nhà tài phiệt và giới quân sự đoạn tuyệt với nhóm lãnh đạo, hoặc một cuộc nổi dậy của xã hội dân sự, trong tình hình hiện nay chỉ có tính lí thuyết, nếu xét đến mức độ ảnh hưởng chính quyền Nga đối với công chúng và giới truyền thông.

Nhưng điều đó không có nghĩa là các biện pháp trừng phạt là vô ích hoặc không có tác động, mà hoàn toàn ngược lại. Trước hết, như Nicholas Mulder đã nhấn mạnh nhiều lần, các biện pháp trừng phạt có tác dụng chính trị hóa nền kinh tế và vạch trần những dối trá núp dưới bóng các thái độ trung lập. Tiếp theo, điều quan trọng là cần phân biệt giữa tác động thực sự với tính hiệu quả của các biện pháp trừng phạt, vốn phụ thuộc vào các mục tiêu được đặt ra. Một khi được triển khai, các biện pháp trừng phạt thương mại và tài chính sẽ tạo ra những tác động to lớn: đó là trường hợp trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, và cũng sẽ là trường hợp của các biện pháp trừng phạt hiện tại, được thiết lập để tăng dần (với khả năng ngừng nhập khẩu dầu và khí của Nga, một khi đã tìm được các phương án thay thế nhiên liệu Nga) khi quân đội Nga càng tăng cường chiến tranh xâm lược chống lại người dân Ukraine. Cuối cùng, mọi tín hiệu cho thấy các biện pháp trừng phạt nằm trong một khung thời gian, vượt ra ngoài cuộc chiến ở Ukraine: thách thức thực sự là làm suy yếu lâu dài chế độ của Vladimir Putin, người mà những ý định hiếu chiến từ nay đã được phơi bày một cách rõ rệt, ngay trước mắt của những ai, mà trong một thời gian dài, đã tìm cách để nghi ngờ hoặc giảm thiểu ý định hiếu chiến đó.

Phạm vi các biện pháp trừng phạt càng lớn hơn khi các Nhà nước không phải là những tác nhân duy nhất áp dụng chúng. Nicholas Mulder nhắc lại, một cách chính đáng, rằng đối với các Nhà nước các biện pháp trừng phạt cũng giống như các biện pháp tẩy chay đối với xã hội dân sự, kể từ cuối thế kỷ 18 (thuật ngữ “tẩy chay” đã được phát triển ở Ireland vào những năm 1880, nhưng thực tiễn áp dụng đã có từ trước, chẳng hạn như việc những người theo chủ nghĩa bãi nô tẩy chay các sản phẩm được sản xuất từ nền kinh tế sử dụng nô lệ). Cũng có thể kết hợp các biện pháp tẩy chay để nhân rộng các tác động của các biện pháp trừng phạt. Thế nên, cuốn sách quan tâm đến diễn tiến các lập trường của nhiều hiệp hội nữ quyền khác nhau, đang dao động giữa sự chỉ trích tính chất không phân biệt của tình trạng thiếu thốn của người dân thường, và sự chất vấn các thế lực công quyền trước nhu cầu đạo đức hóa các mối quan hệ quốc tế. Các tác nhân kinh tế (công ty, ngân hàng, nghiệp đoàn, tổ chức kinh tế quốc tế, v.v.) được đề cập ít hơn một chút trong cuốn sách, vốn tập trung vào đấu trường ngoại giao. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại, chúng ta có thể thấy rõ mức độ phối hợp của nhiều tác nhân có liên quan trong các biện pháp trừng phạt, đòi hỏi phải dung hòa các lợi ích trái ngược nhau, dù đó là lợi ích của nhà đầu tư, của người lao động hay của người tiêu dùng.

Các biện pháp trừng phạt kinh tế sẽ không cứu được Ukraine, cũng như không xoa dịu được nỗi đau của nước này. Nhưng nó cho thấy thương mại và kinh tế không phải là những lĩnh vực trung lập, bị ngắt kết nối khỏi các thách thức quyền lực và xung đột về giá trị và hệ tư tưởng. Nó buộc chúng ta phải chính trị hóa, theo cách thậm chí còn kịch tính hơn những gì chúng ta lo ngại và dưới tiếng nổ của bom đạn, vấn đề phương thức tiêu thụ và lựa chọn năng lượng của chúng ta, cũng như khả năng tương thích của chúng với tầm nhìn của chúng ta về trật tự quốc tế.

Về tác giả

Nicolas Delalande (1980-)

Nicolas Delalande

Nicolas Delalande là giáo sư tại Trung tâm Lịch sử thuộc Đại học Sciences Po.

Các nghiên cứu của ông tập trung vào lịch sử của Nhà nước, sự bất bình đẳng và đoàn kết ở châu Âu trong thế kỷ 19 và 20. Năm nay, ông đã xuất bản cuốn La Lutte et l'Entraide. L’âge des solidarités ouvrières [Đấu tranh và Tương trợ. Thời đại đoàn kết của công nhân] (Paris, Seuil, 2019), một cuộc điều tra về cội nguồn của chủ nghĩa quốc tế công nhân, từ góc độ lịch sử xã hội, chính trị và xuyên quốc gia.

Trước đây, ông đã nghiên cứu lịch sử về sự đồng thuận và phản đối thuế khóa (Les Batailles de l’impôt. Consentement et résistances de 1789 à nos jours [Cuộc đấu tranh chống thuế khóa. Sự đồng thuận và phản đối từ năm 1789 đến ngày nay], Paris, Seuil, xuất bản năm 2011 và tái bản năm 2014). Ông là một trong những điều phối viên, cùng với Florian Mazel, Yann Potin và Pierre Singaravélou, trong cuốn Histoire mondiale de la France [Lịch sử thế giới của nước Pháp], nhà xuất bản Seuil dưới sự chỉ đạo của Patrick Boucheron (Seuil, 2017; ấn bản Points Seuil và ấn bản bằng hình, 2019).

Ông là tổng biên tập trang La Vie des Idées.

Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch

Nguồn: Que peuvent les sanctions économiques?, La Vie des Idées, ngày 16/03/2022.

----

Bài có liên quan:

Print Friendly and PDF