TRƯỜNG KINH TẾ
Pierre Bourdieu
Lưu ý của dịch giả về các chú thích
Dịch giả chỉ dịch các chú thích trong đó Pierre Bourdieu có đưa thêm những nhận xét, bình luận so với văn bản
của bài viết. Còn những chú thích chỉ có tên tác giả, tựa sách, nhà và năm xuất
bản, số trang của các cuốn sách được trích dẫn, dịch giả không dịch mà giữ
nguyên bản
![]() |
Pierre Bourdieu (1930-2002) |
![]() |
Le champ économique - Pierre Bourdieu |
Đây là lý do tại sao đối với tôi, dường như cần phải tạo ra các điều kiện thực nghiệm cho một cuộc khảo sát phê phán thực sự không chỉ về khía cạnh này hay khía cạnh khác của lý thuyết kinh tế (chẳng hạn như lý thuyết hợp đồng, lý thuyết các dự kiến duy lý hoặc lý thuyết về tính duy lý hạn chế) mà về chính các nguyên tắc thiết kế của kinh tế học, chẳng hạn như biểu tượng về tác nhân và hành động, sở thích hoặc nhu cầu, nói tóm lại là mọi thứ cấu thành nên quan điểm nhân học mà hầu hết các nhà kinh tế học thường huy động trong thực tiễn của mình tuy không ý thức đến điều đó.
Nhưng mối quan tâm về sự kín đáo đã khiến tôi từ chối những
tuyên ngôn lý thuyết và sự thận trọng về nhận thức luận đã khiến tôi tránh những
sự khái quát hóa quá sớm chắc chắn đã làm cho những
thành tựu thực nghiệm và những câu hỏi lý thuyết do nghiên cứu này mang lại vẫn
chưa được nhận ra. Vậy nên, không phải lúc nào ta cũng thấy rằng việc mô tả chặt
chẽ mối quan hệ giữa người mua và người bán và viễn cảnh gần như bất biến mà
theo đó việc đàm phán và việc ký kết hợp đồng mua bán diễn ra, chứa đựng sự phủ
nhận triết lý cá nhân chủ nghĩa của kinh tế học vi mô như một lý thuyết của các
lựa chọn riêng lẻ được thực hiện bởi các tác nhân có thể thay thế cho nhau và
không có bất kỳ ràng buộc nào về mặt cấu trúc và có khả năng được diễn giải
theo logic cơ học và tính
thuần tuý của sự tổng gộp[3]. Và cả những ràng buộc về cấu trúc đè nặng lên các tác
nhân kinh tế, cho dù họ là những người tiêu dùng đơn giản hay là những người chịu
trách nhiệm về các đơn vị sản xuất lớn hơn ít nhiều, cũng không thể được tóm gọn
trong những sự cần thiết được ghi nhận, ở một thời điểm nhất định, trong khả
năng kinh tế tức thời hoặc trong sự tương tác tức thời: như vậy ngoài việc dấu ấn
và ảnh hưởng của trường được ghi trong tố chất của các tác nhân, toàn bộ cấu
trúc của trường của những người sản xuất các căn nhà cá nhân đè nặng lên các
quyết định của những người phụ trách, trong việc xác định giá cả hoặc chiến lược
quảng cáo[4]. Nhưng đóng góp chính của nghiên
cứu này, đã tước bỏ đi tất cả bộ máy kỹ thuật của diễn ngôn kinh tế (có lẽ đến
mức bị những người không bao giờ hành động mà không được trang bị với những điều
trừu tượng về kinh tế xem là ngây thơ), chính là nó làm cho tất cả những gì mà
thuyết kinh tế học chính thống xem như là một dữ liệu thuần túy, cung, cầu, thị
trường, xuất hiện như là sản phẩm của một sự kiến tạo xã hội, một loại đồ tạo
tác lịch sử mà chỉ sử học mới có thể giải thích được. Một lý thuyết kinh tế thực
sự chỉ có thể được xây dựng bằng cách đoạn tuyệt với thành kiến chống lại
sự phát sinh để khẳng định mình là một khoa học lịch sử. Điều này đòi hỏi nó phải
thực hiện sự phê phán lịch sử đối với các phạm trù và khái niệm của nó, phần lớn
được vay mượn mà không được kiểm tra từ diễn ngôn thông thường, vốn đã thoát khỏi
một sự phê phán như vậy bởi thành lũy của quá trình hình thức hóa.
Thật vậy, thị trường căn nhà cá nhân (có lẽ cũng như bất
kỳ thị trường nào, ở những cấp độ khác nhau) là kết quả của một sự kiến
tạo xã hội kép, trong đó Nhà nước có một sự đóng góp quyết định: xây dựng cầu,
thông qua việc tạo ra các tố chất cá nhân, và chính xác hơn là các hệ thống sở
thích cá nhân - đặc biệt về mặt quyền sở hữu hay quyền thuê nhà[5] - và cũng thông qua việc phân bổ các
nguồn lực cần thiết, tức là thông qua sự tài trợ của Nhà nước cho việc xây dựng
hoặc cho chỗ ở được quy định bởi luật và các quy định mà sự thành hình cũng có
thể được mô tả[6]; xây dựng cung, thông qua
chính sách của Nhà nước (hoặc các ngân hàng) về tín dụng đối với các nhà sản xuất,
vốn đóng góp, với bản chất của tư liệu sản xuất được sử dụng, vào viêc xác định
các điều kiện tiếp cận thị trường và chính xác hơn là vị trí trong cấu trúc của
trường, cực kỳ phân tán, của các nhà sản xuất nhà ở, tức là các ràng buộc cấu
trúc đè nặng lên sự lựa chọn của mỗi người về mặt sản xuất và quảng cáo[7]. Và nếu chúng ta đi đến cùng trong việc tái
tạo lịch sử quá trình hình thành về mặt cá nhân (ontogenèse) và thể loại
(phylogenèse) những gì mà thuyết kinh tế học chính thống đặt ra, bằng một sự trừu
tượng hoá ghê gớm, dưới cái tên gần như không thể xác định là thị trường, chúng
ta lại phát hiện ra rằng cầu chỉ được định rõ và xác định đầy đủ trong mối quan
hệ với một trạng thái đặc biệt của cung và của cả những điều kiện xã hội, đặc
biệt là pháp lý (các quy định về xây dựng, giấy phép xây dựng, v.v.), cho phép
nó được thỏa mãn[8].
Đối với "chủ thể" của các hành động kinh tế, rất
khó để không thấy, nhất là liên quan đến việc mua một sản phẩm mang ý nghĩa như
một ngôi nhà, rằng nó hoàn toàn không phải là ý thức thuần túy không có quá khứ
của lý thuyết, và rằng quyết định kinh tế không phải là của một tác nhân kinh tế
cô lập, mà là của một tập thể, nhóm, gia đình hoặc công ty, hoạt động như một
trường. Hơn nữa, ngoài việc chúng bắt rễ sâu xa trong quá khứ, dưới hình thức của
các tố chất hoặc thói quen, thông qua lịch sử đã được sáp nhập của các tác nhân
chịu trách nhiệm về chúng, các chiến lược kinh tế thường được tích hợp trong một
hệ thống phức tạp của các chiến lược tái sản xuất, tức là chứa đựng toàn bộ lịch
sử của mọi thứ chúng muốn kéo dài.
Không gì có thể cho phép bỏ qua sự phát sinh của các tố
chất kinh tế của tác nhân kinh tế, và đặc biệt là sở thích, thị hiếu, nhu cầu
hoặc năng khiếu của anh ta (trong việc tính toán, tiết kiệm, v.v.) và cả của sự
phát sinh của chính cái trường kinh tế, tức là lịch sử của quá trình phân hóa
và tự chủ hóa dẫn đến sự cấu thành của trò chơi đặc thù này, trường kinh tế như
một vũ trụ tuân theo các quy luật riêng của nó[9]. Lĩnh
vực các giao dịch thương mại chỉ mới tách biệt dần khỏi các lĩnh vực khác của đời
sống và bộ quy tắc riêng biệt/nomos của nó (“làm ăn là làm
ăn”) cũng chỉ mới được khẳng định dần dần ; các giao dịch kinh tế đã không còn
được thiết kế theo mô hình các trao đổi trong gia đình, tức là bị chi phối bởi
các nghĩa vụ xã hội hoặc gia đình và sự tính toán lợi nhuận cá nhân, tức là lợi
ích kinh tế, đã được áp đặt như nguyên tắc chủ đạo của quan điểm, nếu không muốn
nói là độc quyền (chống lại sự kìm nén tố chất tính toán).
Thị trường như một huyền
thoại thông thái
Như nhiều nhà bình luận đã
nhận thấy, khái niệm thị trường hầu như không bao giờ được định nghĩa, chứ chưa
nói đến việc bị tranh luận. Do đó, Douglas North nhận xét: “có một thực tế đặc biệt
là các tài liệu về kinh tế học (...) lại có quá ít thảo luận về định chế trung
tâm làm nền tảng cho kinh tế học tân cổ điển – thị trường” [1]. Thật vậy, lời
buộc tội thông thường này không có ý nghĩa gì khi, với cuộc cách mạng của học thuyết cận biên, thị trường không còn là một
cái gì đó cụ thể để trở thành một khái niệm trừu tượng không có tham chiếu thực
nghiệm nào, một hư cấu toán học dẫn đến cơ chế trừu tượng hình thành giá cả mà
lý thuyết trao đổi mô tả (với cái giá là tạm thời gạt sang một bên các thể chế
pháp lý và Nhà nước một cách có ý thức và được tuyên bố rõ ràng). Khái niệm này
được thể hiện đầy đủ ở Walras, với các khái niệm về thị trường hoàn hảo,
mà đặc trưng là sự cạnh tranh và thông tin hoàn hảo, và khái niệm về cân bằng chung trong một thế giới các thị trường
được kết nối với nhau. Đây không phải là một định nghĩa không đặt vấn đề, như
người ta có thể thấy khi tham khảo cuốn sách tham chiếu của “các nhà lý thuyết
về tổ chức công nghiệp”: “Khái niệm thị trường không phải là đơn giản. Rõ ràng,
chúng tôi không muốn giới hạn mình trong trường hợp sản phẩm thuần nhất. Nếu
chúng ta cho rằng hai hàng hóa thuộc cùng một thị trường, nếu và chỉ nếu chúng
là sản phẩm thay thế hoàn hảo cho nhau, thì hầu như tất cả các thị trường sẽ được
phục vụ bởi một công ty duy nhất – trong khi các công ty sản xuất hàng hóa đều
ít nhất có sự khác biệt nhỏ (về mặt vật chất hoặc vị trí, sự dễ kiếm, thông tin
người tiêu dùng hoặc một số yếu tố khác). Nhưng hầu hết các công ty thực sự
không hưởng được quyền lực độc quyền thuần túy. Việc tăng giá khiến người tiêu
dùng có xu hướng thay thế bằng một số ít hơn hàng hóa thay thế. Do đó, định
nghĩa về thị trường không nên quá hẹp. Định nghĩa của nó cũng không nên quá rộng.
Bất kỳ hàng hóa nào cũng là một sự thay thế tiềm năng cho một mặt hàng khác,
cho dù rằng theo một cách vô cùng nhỏ. Tuy nhiên, thị trường không phải là toàn
bộ nền kinh tế. Đặc biệt, nó đòi hỏi sự phân tích cân bằng bộ phận. Nó phải cho
phép có được một mô tả đơn nhất về các tương tác chính giữa các công ty. Cũng rất
quan trọng nhận thức rằng định nghĩa 'đúng đắn' về thị trường còn phụ thuộc vào
cách nó được sử dụng” [2]. Quyết định bỏ qua “khó khăn thực nghiệm” trong việc
định nghĩa thị trường, tác giả giả định rằng thị trường “liên quan đến một sản
phẩm thuần nhất hoặc một nhóm các sản phẩm khác biệt là những sản phẩm thay thế
khá tốt (hoặc bổ sung) cho ít nhất một sản phẩm trong nhóm và có tương tác hạn
chế với phần còn lại của nền kinh tế”. Ta thấy bằng cách nào để cứu thị trường
như một cơ chế thuần khiết về nơi gặp gở giữa cung và cầu, chúng ta bị dẫn đến
việc giành sự xây dựng thị trường cho một một quyết định độc đoán đặc biệt (ad
hoc), không có chứng minh lý thuyết và không có xác nhận thực nghiệm (có lẽ
ngoài các độ đo tính co giãn nhằm mục đích cho thấy sự đứt đoạn trong chuỗi các
sản phẩm thay thế). Thật vậy, các điều kiện phải được đáp ứng để bất kỳ trạng
thái cân bằng nào của thị trường cũng trở nên tối
ưu (chất lượng sản phẩm được xác định rõ ràng, thông tin đối xứng, có đủ người
mua và người bán để loại trừ bất kỳ nhóm độc quyền nào) thực tế không bao giờ
được thực thi và các thị trường hiếm hoi tuân theo mô hình này là những đồ tạo
tác xã hội dựa trên những điều kiện hoàn toàn đặc biệt về khả năng tồn tại, chẳng
hạn như mạng lưới điều tiết công hoặc mạng lưới các tổ chức. Do tính mơ hồ hoặc
đa nghĩa của nó, khái niệm thị trường có thể gợi lên một cách luân phiên hoặc đồng
thời ý nghĩa trừu tượng, toán học, với tất cả các tác động khoa học đi cùng, hoặc
ý nghĩa này hoặc ý nghĩa cụ thể khác, ít nhiều gần với trải nghiệm thông thường,
chẳng hạn như nơi diễn ra các cuộc trao đổi – chợ/market place -, thỏa
thuận về các điều khoản của sự giao dịch trong một cuộc trao đổi – kết thúc một
cuộc trao đổi -, các thị trường tiêu thụ của một sản phẩm – chinh phục thị trường
-, toàn bộ các giao dịch được mở ra cho một hàng hóa – thị trường dầu – cơ chế
kinh tế đặc trưng của các "nền kinh tế thị trường". Do đó, khái niệm
thị trường được chuẩn bị để đóng vai trò của một “huyền thoại thông thái”, có sẵn
cho mọi cách sử dụng mang tính ý thức hệ dựa trên sự chuyển động ngữ nghĩa. Do
đó, các thành viên của Trường phái Chicago, và đặc biệt là Milton Friedman [3], đã có những nỗ lực để phục
hồi thị trường (đặc biệt là chống lại giới trí thức được cho là thù địch [4]),
dựa trên việc đồng hóa thị trường và quyền tự do, biến tự do kinh tế trở thành
điều kiện của tự do chính trị.
______________
[1] – D. North, “Markets
and other Allocations Systems” trong “History: The Challenge of Karl Polanyi ”, Journal of European
Economic History, 1977, 6, tr. 703-716; chúng ta có thể nhắc lại hai sự vi phạm,
luôn luôn được trích dẫn, của quy luật im lặng này: Marshall, Principles of Economics, 1890
– với chương "On markets" – và Joan Robinson, bài Market trong Encyclopedia
Britannica – được lấy lại trong Tuyển tập các bài báo kinh tế của bà.
[2] – J. Tirole,
The Theory of Industrial Organization, Cambridge, The MIT Press, 1988,
p. 12.
[3] – M. Friedman, Capitalism and Freedom,
Chicago, Chicago University Press, 1962,
[4] – G. Stigler, The Intellectual and the Marketplace,
Cambridge, Harvard University Press, 1963 (1984), spéet. p. 143-158.
Lịch
sử của các nguồn gốc, nơi mà các tập
tính tư bản chủ nghĩa được tạo ra cùng lúc với việc thiết lập
trường trong đó chúng được triển
khai, và nhất là việc quan sát các tình huống (thường là tình huống thuộc địa)
trong đó các tác nhân, được trang bị với các tố chất phù hợp với một trật tự
tiền tư bản, bị ném một cách tàn bạo vào một thế giới tư bản, cho phép chúng ta
khẳng định rằng các xu hướng kinh tế được trường kinh tế, như nó được chúng ta
biết hiện nay, đòi hỏi không có gì là tự nhiên và phổ quát. Chúng là sản phẩm của
toàn bộ lịch sử tập thể cần được tái tạo liên tục trong từng lịch sử cá nhân.
Như sự phân tích thống kê các biến đổi trong thực tiễn kinh tế về tín dụng, tiết
kiệm hoặc đầu tư tùy theo khối lượng các nguồn lực kinh tế và văn hóa sở hữu chứng
thực, quên rằng có các điều kiện kinh tế và văn hóa trong việc tiếp cận các ứng
xử mà lý thuyết kinh tế coi là duy lý, là thiết lập những tố chất được tạo ra trong những
điều kiện kinh tế và xã hội cụ thể như là thước đo và chuẩn mực phổ quát của mọi
hành vi kinh tế và biến trật tự kinh tế của thị trường thành mục đích
duy nhất/telos của toàn bộ quá trình phát triển lịch sử [10]. Rộng hơn, chỉ biết và xác nhận cái logic
của sự tráo trợn duy lý có nghĩa là từ chối hiểu các hành vi kinh tế cơ bản nhất,
bắt đầu từ chính sự lao động[11].
Trường
kinh tế khác với các lĩnh vực khác ở chỗ, các biện pháp trừng phạt ở đó đặc biệt
tàn bạo và các hành vi ở đó có thể công khai đặt ra mục tiêu là tìm kiếm sự tối
đa hóa lợi nhuận vật chất của cá nhân. Nhưng sự xuất hiện của một vũ trụ như vậy
hoàn toàn không bao hàm sự mở rộng cho tất cả các lĩnh vực của cuộc sống logic
của sự trao đổi hàng hóa vốn, thông qua hiệu ứng thương mại hóa và sự
định giá, đã bị loại trừ một cách cơ bản bởi logic của việc trao đổi quà tặng,
có xu hướng tóm gọn mọi thứ trong trạng thái hàng hóa có thể mua được và phá hủy
mọi giá trị. (Do đó, như Richard Titmus đã cho thấy trong Mối quan hệ
quà tặng/The gift relationship, sự trao đổi máu nhằm mục đích được
truyền lại sẽ hiệu quả hơn khi chúng dựa trên việc hiến tặng hơn là khi chúng
tuân theo một logic thương mại nghiêm ngặt. Việc xem các “sản phẩm” như máu hoặc bộ phận cơ thể
con người như hàng hóa không phải là không có hậu quả về mặt đạo đức và có thể
góp phần làm suy giảm lòng vị tha và tình đoàn kết)[12].
Có nhiều lĩnh vực của cuộc sống của con người, và đặc biệt là các lĩnh vực của
gia đình, của nghệ thuật hoặc văn học, khoa học, và thậm chí, ở một chừng mức
nhất định, của bộ máy quan liêu, ít nhất vẫn còn rất xa lạ với việc tìm kiếm sự
tối đa hóa lợi nhuận vật chất. Và, ngay cả trong trường kinh tế, logic của thị
trường chưa bao giờ thành công trong việc thay thế hoàn toàn các yếu tố phi
kinh tế trong sản xuất hoặc tiêu dùng (ví dụ, trong nền kinh tế của căn nhà,
các khía cạnh biểu tượng, vẫn rất quan trọng, có thể được khai thác về mặt kinh
tế). Các vụ giao dịch không bao giờ bị thu hẹp hoàn toàn trong chiều kích kinh
tế của chúng và, như Durkheim đã nhắc nhở chúng ta, các hợp đồng luôn có các điều
khoản ngoài hợp đồng.
Lợi
ích kinh tế (thường được xem như là sự rút gọn của bất kỳ loại lợi ích nào) chỉ
là hình thái đặc thù của illusio (tiếng Latinh là sai lầm, ảo tưởng – ND), sự
đầu tư vào trò chơi kinh tế khi trường được các tác nhân được trang
bị với các tố chất thích
hợp lĩnh hội, do được
thủ đắc trong và thông qua một kinh nghiệm sớm và kéo dài về những điều cần thiết
của trường (giống như những học sinh của một trường học nhỏ ở Anh, vài năm trước,
đã thành lập một công ty bảo hiểm để chống lại các hình phạt)[13].
Những tố chất kinh
tế cơ bản nhất, nhu cầu, sở thích, khuynh hướng – để làm việc, tiết kiệm, đầu
tư, v.v. - không phải là ngoại sinh, tức là phụ thuộc vào bản chất phổ quát của
con người, mà là nội sinh và phụ thuộc vào lịch sử, lịch sử của
vũ trụ kinh tế nơi chúng được đòi hỏi và khen thưởng. Điều đó có nghĩa là, chống
lại sự phân biệt kinh điển giữa cứu
cánh và
phương tiện, trường kinh tế áp đặt cho tất cả mọi người (ở các mức độ khác nhau
tùy theo khả năng kinh tế của họ) mục đích (làm giàu cá nhân) và phương tiện
"vừa phải /raisonnable"
để đạt được chúng.
Cấu
trúc của trường
Để
đoạn tuyệt với hệ chuẩn thống trị vốn cố gắng trở lại với cái cụ thể thông qua
sự kết hợp của hai sự trừu tượng hoá, lý
thuyết cân bằng chung và lý thuyết tác nhân duy lý, cần phải, bằng cách công nhận
tính lịch sử cấu thành các tác nhân và không gian hoạt động của họ trong một
quan niệm duy lý mở rộng, cố gắng xây dựng một định nghĩa thực tế của tính duy
lý kinh tế như cuộc gặp gỡ giữa các tố
chất được
thiết lập về mặt xã hội (trong quan hệ với một trường) và các cấu trúc, cũng được
thiết lập về mặt xã hội, của trường này.
Các
tác nhân tạo ra không gian, tức là trường kinh tế chỉ tồn tại thông qua các tác
nhân ở trong trường và làm biến dạng không gian xung quanh họ, tạo nên một cấu
trúc nhất định. Nói cách khác, chính trong mối quan hệ giữa các “nguồn gốc khác
nhau của trường”, nghĩa là chính giữa các công ty sản xuất khác nhau, mà trường
và các mối quan hệ quyền lực đặc trưng của trường được tạo ra[14].
Cụ thể hơn, chính các tác nhân, nghĩa là các công ty, được xác định bởi khối lượng
và cấu trúc tư bản đặc
trưng mà chúng sở hữu, sẽ quyết định cấu trúc của trường, và, qua đó, trạng
thái của các lực tác động đến toàn bộ (thường được gọi là "khu vực” hoặc "ngành") các công
ty tham gia vào việc sản xuất các sản
phẩm tương
tự. Các công ty tạo ra các tác động tiềm tàng khác nhau về cường độ, quy luật của
tiến trình giảm dần và hướng của chúng. Các công ty kiểm soát một phần của trường
(thị phần) càng lớn khi tư bản của
chúng càng lớn. Còn đối với người tiêu dùng, hành vi của họ sẽ hoàn toàn bị thu
gọn trong tác động của trường nếu họ không có sự tương tác nhất định với nó
(tùy vào quán tính của họ, rất nhỏ). Trọng lượng gắn với một tác nhân phụ thuộc
vào tất cả các điểm khác và vào mối quan hệ giữa tất cả các điểm, nghĩa là toàn
bộ không gian được hiểu như một chòm sao quan hệ.
Mặc dù chúng ta nhấn mạnh ở đây về các hằng số, nhưng
chúng ta nhận thức được rằng tư
bản, dưới những thể loại
khác nhau, thay đổi tùy theo nét đặc thù của từng tiểu trường, tức là tùy vào lịch
sử của trường này, vào trạng thái phát triển (và đặc biệt mức độ tập trung) của
công nghiệp được đề cập và vào nét đặc thù của sản phẩm[15]. Vào
cuối cuộc nghiên cứu rộng lớn mà ông đã tiến hành về thực tiễn định giá của các ngành công nghiệp
khác nhau của Mỹ[16], Hamilton đã nêu
lên mối liên hệ của tính đặc ứng của các ngành khác nhau (tức là của các trường
khác nhau) với tính đặc biệt của lịch sử xuất hiện của chúng, mỗi ngành có nét
đặc trưng của nó với phương thức hoạt động riêng biệt, các truyền thống đặc biệt,
cách thức đặc biệt để đưa ra những quyết định định giá[17].
Sức mạnh gắn liền với một tác nhân phụ thuộc vào các lợi
thế khác nhau của tác nhân, đôi khi được gọi là tài sản thị trường chiến
lược/strategic market assets, các yếu tố thành công (hoặc thất bại) khác
nhau có thể mang lại cho tác
nhân ấy một lợi thế cạnh
tranh, tức là, chính xác hơn, khối lượng và cấu trúc vốn mà tác nhân sở
hữu, dưới các dạng khác nhau của nó: vốn tài chính, hiện tại hoặc tiềm năng, vốn
văn hóa (không nên nhầm lẫn với "vốn con người"), vốn công nghệ, vốn về mặt pháp lý, vốn tổ chức
(bao gồm vốn thông tin và tri thức về trường), vốn thương mại và vốn biểu tượng.
Vốn tài chính là sự kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua việc tiếp cận
các ngân hàng) các nguồn tài chính là điều kiện chủ yếu (với thời gian) của việc
tích lũy và bảo toàn các loại vốn khác. Vốn công nghệ là danh mục những
nguồn lực khoa học (tiềm năng nghiên cứu) hoặc các kỹ thuật khác biệt (thủ tục,
kỹ năng, thói quen và bí quyết độc đáo và gắn bó chặt chẽ, có khả năng làm giảm
chi tiêu về lao động hoặc về tư
bản hoặc làm tăng hiệu suất) có khả
năng được triễn khai trong sự thiết kế và sự sản xuất sản phẩm. Vốn thương mại
(sức mạnh bán hàng) đến từ việc kiểm soát mạng lưới phân phối (kho bãi và vận
chuyển) và các dịch vụ tiếp thị và hậu bán hàng. Vốn biểu tượng nằm trong việc
làm chủ các nguồn lực biểu tượng dựa trên kiến thức và
sự công nhận như thương hiệu (đầu tư để gây sự tín nhiệm/goodwill investment), sự
trung thành đối với thương hiệu (brand loyalty)[18], v.v.; là một quyền lực hoạt động như một hình
thức tín dụng, nó giả định sự tin tưởng hoặc niềm tin của những người phải chịu
nó vì họ sẵn sàng tín nhiệm nó (đó là quyền lực biểu tượng được Keynes viện dẫn khi ông cho rằng việc bơm tiền sẽ hoạt động nếu các tác nhân
tin rằng điều đó sẽ hoạt động và của các lý thuyết về các bong bóng đầu cơ).
Cấu trúc phân bổ vốn và cấu trúc phân bổ chi phí, mà bản
thân chủ yếu gắn với quy mô và mức độ hợp nhất theo chiều dọc,
quy định cấu trúc của trường, tức là sự tương quan quyền lực giữa các công ty,
sự kiểm soát của một phần rất quan trọng của vốn (của toàn bộ năng lượng) mang
lại quyền lực trên trường, tức là trên các người có ít vốn đầu tư. Nó cũng kiểm
soát quyền tham gia vào trường và sự phân bố các cơ hội thu lợi nhuận. Các loại
vốn khác nhau không chỉ tác động một cách gián tiếp, thông qua giá cả ; chúng
còn tạo ra hiệu ứng cấu trúc vì việc chấp nhận sự ứng dụng một kỹ thuật mới, sự
kiểm soát một thị phần lớn hơn, v.v. thay đổi vị trí tương đối và hiệu
năng của tất cả các loại vốn do các công ty khác nắm giữ.
Đối lập với quan niệm mang tính tương tác, không thừa nhận
bất kỳ hình thức hiệu lực xã hội nào khác ngoài "ảnh hưởng" được thực
hiện trực tiếp bởi một công ty (hoặc một người chịu trách nhiệm đại diện cho
nó) đối với một công ty khác thông qua một số hình thức "can thiệp",
chúng ta phải đề xuất một quan niệm cấu trúc, có tính đến các tác động
của trường, tức là tất cả các sự ràng buộc, thông qua cấu trúc của trường, do sự phân phối bất bình đẳng của tư bản xác định, và
được áp đặt liên lục, bên ngoài bất kỳ sự can thiệp hoặc thao túng trực tiếp
nào, trên toàn bộ các bên tham gia vào trường, và do đó càng hạn chế không gian
của những gì có thể thực hiện được, phạm vi mở ra cho các tác nhân, nhất là khi
chúng càng ở thế bất lợi này. Chính nhờ trong lượng cỉa các công ty trong cấu
trúc này, hơn là nhờ những can thiệp trực tiếp mà chúng cũng có thể tiến hành
(đặc biệt là thông qua mạng lưới tham gia chéo trong các hội đồng
quản trị - các ban giám đốc phối hợp/ interlocking directorates -
là một biểu hiện ít nhiều biến dạng)[19], mà
các công ty thống trị gây áp lực lên các công ty bị chi phối và lên chiến lược
của những công ty này. Chính thông qua vị trí của chúng trong cấu trúc (tức là
cấu trúc) mà các công ty thống trị xác định các hằng số và đôi khi là cả các
quy tắc và giới hạn của trò chơi mà chúng sử đổi: bằng sự tồn tại đơn thuần và
cũng bằng hành động của chúng (chẳng hạn một quyết định đầu tư hay thay đổi giá
cả) chúng thay đổi toàn bộ môi trường của các công ty khác và hệ thống các ràng
buộc đè nặng lên những công ty này hoặc không gian của các khả năng có sẵn cho
chúng, bằng cách giới hạn và phân định không gian của các vận động chiến thuật
và các chiến lược khả thi. Các quyết định (của kẻ thống trị cũng như của kẻ bị
chi phối) chỉ là sự lựa chọn giữa các khả năng được xác định (trong giới hạn của
các khả năng này). Sự tồn tại và hiệu quả của các “can thiệp”, khi xảy ra, là
nhờ vào cấu trúc của các mối quan hệ trong trường giữa những tác nhân can thiệp
và những tác nhân gánh chịu sự cân thiệp này.
Ví dụ điển hình về những tác động cấu trúc này, không thể
quy vào những can thiệp có chủ đích và nhất định của các tác nhân đơn lẻ là trường
vốn tài chính quốc tế chắc có lẽ phải mang hình dạng bề ngoài của định mệnh (ít
nhất là trong một quan niệm nhất định của báo chí về các "thị trường tài chính") là do nó không cần phải can thiệp trực tiếp trên
các chính phủ quốc gia để áp đặt một chính sách, hoặc còn hơn nữa cấm đoán họ
thực hiện nó. Quyền lực cấu trúc mà trường vốn tài chính quốc tế thực hiện được
triển khai thông qua những tác động không nhất thiết được mong muốn mà qua một
sự thay đổi phần bù rủi ro đối với lãi suất quốc gia hoặc tỷ giá hối đoái có thể
tác động lên chi phí của các chính sách của các chính phủ này ; các chi phí này
thay đổi, tùy vào vị trí của các quốc gia liên quan trong cơ cấu phân phối vốn
và trong thứ bậc quyền lực, từ việc hạn chế tín dụng mà các nước nghèo có thể
phải chịu, đến sự "không bị trừng phạt" của các nước giàu có, đặc biệt
là khi đồng tiền của chúng được sử dụng như tiền tệ dự trữ quốc tế, giống như
Hoa Kỳ, có thể thoát khỏi hậu quả của chính sách thâm hụt ngân sách và thương mại.
Cấu trúc của trường và sự phân bổ bất bình đẳng của các lợi
thế (lợi thế theo quy mô, lợi thế công nghệ, v.v.) góp phần đảm bảo sự tái sản
xuất trường, thông qua các "rào cản gia nhập" (thị trường – ND), kết
quả của những bất lợi thường xuyên mà những công ty mới tham gia phải đối mặt
hoặc của những chi phí vận hành mà chúng phải trả. Những khuynh hướng này tồn tại
ngay trong cấu trúc của trường (chẳng hạn như khuynh hướng khiến trường dành ưu
tiên cho những tác nhân có nhiều vốn nhất), và được củng cố bởi hành động của tất
cả các loại "định chế nhằm giảm sự không chắc chắn/ uncertainty-reducing
institutions", theo cách diễn đạt của Jan Kregel [20], hợp đồng tiền lương, hợp đồng nợ, giá quản
lý, thỏa thuận thương mại, hoặc "cơ chế cung cấp thông tin về các hành động
tiềm tàng của các tác nhân kinh tế khác", làm cho trường có được một thời
hạn và một tương lai có thể lường trước và tính toán được. Các diễn biến
đặc trưng được ghi trong cấu trúc của trường và trong các trò chơi
được lặp lại diễn ra trong đó khiến các tác nhân thủ đắc được các công thức, thủ
thuật và tố chất được truyền tải vốn là nền tảng của những dự đoán thực tiễn ít
nhất mang tính cơ sở một cách thô sơ.
Do đặc trưng của trường kinh tế là cho phép và ưu đãi
quan điểm tính toán và các xu hướng chiến lược đi cùng, ta không phải lựa chọn
giữa quan điểm cấu trúc thuần túy và quan điểm chiến lược: các chiến lược được
xây dựng một cách có ý thức nhất cũng chỉ được triển khai trong các
giới hạn và theo những hướng được ấn định bởi các giới hạn cấu trúc và các định
hướng mà các ràng buộc gán cho chúng và bởi kiến thức,
được phân bổ không đồng đều, về các ràng buộc này (vốn thông tin đảm bảo cho những
người có vị trí thống lĩnh - đặc biệt là thông qua việc tham gia vào các hội đồng
quản trị hoặc, trong trường hợp của các ngân hàng, thông qua dữ liệu do người
xin vay cung cấp - chẳng hạn là một trong những nguồn lực giúp có thể lựa chọn
các chiến lược quản lý vốn tốt nhất). Lý thuyết tân cổ điển, vốn từ chối tính đến
các tác động của cấu trúc và tất nhiên đến các mối quan hệ
khách quan của quyền lực, có thể giải thích những lợi thế dành cho những công
ty giàu nhất về vốn bằng thực tế rằng, nhớ tính đa dạng hơn, có nhiều kinh nghiệm
hơn và tiếng tăm hơn (do đó có thể bị mất mát nhiều hơn), các công ty này cung
cấp các bảo đảm cho phép chúng cung cấp vốn với chi phí thấp hơn và điều này vì
những lý do đơn thuần mang tính tính toán kinh tế. Và điều này có thể sẽ dẫn đến
sự bác bẻ rằng ta xem xét các hoạt động kinh tế một cách chặt chẽ hơn bằng cách
viện dẫn, với một số nhà lý thuyết, vai trò "giữ gìn kỷ luật/giáo huấn"
của thị trường như một cơ quan đảm bảo sự phối hợp tối ưu của các sở thích (các
cá nhân bị ép buộc phải đặt các lựa chọn của họ dưới logic tối đa hóa lợi nhuận,
nếu không thì sẽ bị loại bỏ - giống như những nhà quản lý không bảo vệ tốt lợi
ích của cổ đông trong quá trình tiếp quản công ty) hoặc đơn giản hơn, tác động
của giá cả - liên quan đến việc là khi một nhà sản xuất tăng sản lượng của
mình, hoặc năng lực sản xuất của anh ta, anh ta tạo ra một hiệu ứng giá cả ảnh
hưởng đến những nhà sản xuất khác.
Thật vậy, trái với biểu tượng thông thường, lấy lại các
khái niệm rất mơ hồ được các nhà kinh tế học sử dụng, kết hợp "chủ nghĩa cấu
trúc", được quan niệm như một hình thái của "tổng thể luận", với
sự chấp nhận một tất định luận triệt để[21], việc
tính đến cấu trúc của trường và các tác động của nó hoàn toàn không dẫn đến việc
hủy bỏ quyền tự do chơi của các tác nhân. Ngược lại, xây dựng trường sản xuất
như vậy là khôi phục đầy đủ trách nhiệm định giá (price makers) của
những nhà sản xuất, mà lý thuyết chính thống bằng cách bắt các nhà sản xuất phải
phục tùng vô điều kiện quyền lực có tính quyết định của thị trường, nguyên lý
và động thái của chính hình thái của bản thân thị trường, đã quy giản các nhà sản
xuất, cũng như người tiêu dùng, vào vai trò của những người nhận giá (price
takers)[22].
Từ bỏ khái niệm kinh viện điển hình về
trạng thái cân bằng (của thị trường hoặc của trò chơi) để ủng hộ khái niệm trường
là từ bỏ logic trừu tượng của việc chấp nhận giá cả, tức là sự quy
định giá một cách tự động, máy móc và tức thời trên các thị trường bị chi phối
bởi sự cạnh tranh không bị ràng buộc, để đứng trên quan điểm định giá, tức là
quan điểm về quyền lực bị phân hóa để xác định giá mua (vật liệu,
nhân công, v.v.) và giá bán (tức là của lợi nhuận), một quyền lực mà ở một số
công ty rất lớn được giao cho các chuyên gia được đào tạo đặc biệt cho mục đích
này, những người định giá (price setters). Đó cũng là du nhập lại cấu
trúc các mối tương quan lực lượng cấu thành trường sản xuất, vốn về cơ bản góp
phần xác định giá cả bằng cách xác định các cơ hội khác nhau nhằm tác động vào
sự hình thành giá cả và, nói chung, nhằm chi phối các khuynh hướng nội tại của
các cơ chế của trường, và cùng lúc, không gian tự do còn lại cho các chiến lược
của các tác nhân[23].
Như vậy, lý thuyết trường đối
lập với quan điểm mang tính nguyên tử và cơ học vốn xem một cách sai lầm tác động
của giá cả như là chân lý tuyệt đối, và vị cứu tinh này, giống như trong vật lý
Newton, quy giản các tác nhân (cổ đông, nhà quản lý hoặc công ty) thành các điểm
vật chất có thể hoán đổi cho nhau, mà các sở thích, được ghi nhận trong một hàm
lợi ích ngoại sinh hoặc thậm chí, trong biến thể cực đoan nhất, là bất biến,
xác định các hành động một cách máy móc (khái niệm "tác nhân tiêu biểu",
làm cho tất cả sự khác biệt giữa các tác nhân và sở thích của chúng biến mất,
là một thủ thuật thuận tiện để xây dựng các mô hình có khả năng tạo ra các dự
đoán tương tự với các dự đoán trong các mô hình của cơ học cổ điển). Lý thuyết
trường cũng đối lập, nhưng theo một cách khác, với quan điểm tương tác mà sự mơ
hồ cơ bản về tác nhân tiêu biểu như một nguyên tử tính toán làm cho lý thuyết
này có thể cùng tồn tại với quan điểm cơ học theo đó trật tự kinh tế và xã hội
bị quy thành vô số các cá nhân tương tác với nhau, thường theo phương thức hợp
đồng. Dựa vào một loạt định đề với những hệ quả nghiêm trọng, đặc biệt là định
đề khẳng định rằng các công ty sẽ bị xem như là những đơn vị cô lập đưa ra quyết
định nhằm tối đa hóa lợi nhuận của chúng[24],
lý thuyết hiện đại về tổ chức công nghiệp chuyển mô hình của quyết định cá nhân
(mô hình mà tính phi thực tế được nêu lên tuy không dẫn đến bất kỳ hệ quả nào)
sang cấp độ của một tập thể chẳng hạn như công ty (mà ta sẽ thấy rằng bản thân
nó hoạt động như một trường) như là kết quả của một tính toán có ý thức nhằm mục
đích tối đa hóa lợi nhuận (của công ty). Như vậy, lý thuyết này tự cho phép
mình quy cấu trúc của mối tương quan lực lượng cấu thành trường thành một tập hợp
các tương tác không có bất kỳ tính siêu việt nào đối với các người đã dấn thân
vào trường, ở một thời điểm, và có khả năng được mô tả với ngôn ngữ của lý thuyết trò chơi. Hoàn toàn tương đẳng trong các định đề cơ bản với triết
học mang tính trí thức luận cũng là nền tảng của lý thuyết tân cận biên, lý
thuyết toán học này, mà chúng ta quên mất là nó đã được xây dựng một cách rõ
ràng và chủ yếu để chống lại logic của thực tiễn, - trên cơ sở các định đề
không có bất kỳ nền tảng nhân học nào, chẳng hạn như định đề khẳng định rằng hệ
thống sở thích đã được cấu thành và có tính bắc cầu[25] -,
mặc nhiên thu gọn các tác động của trường kinh tế thành nơi diễn ra các tiên
đoán lẫn nhau của các tác nhân.
Đây là cách mà nhiều nhà xã hội học vốn, như Mark
Granoveter, tin rằng họ thoát khỏi biểu tượng của tác nhân kinh tế như một đơn
tử ích kỷ bị giam cầm trong "mục tiêu theo đuổi lợi ích riêng của
mình" và như một "tác nhân nguyên tử đưa ra quyết định bên ngoài bất
kỳ ràng buộc nào của xã hội", tách khỏi quan điểm của Bentham
và "cá nhân luận" chỉ để rơi vào quan điểm tương tác vốn, bỏ qua sự
ràng buộc về cấu trúc của trường, chỉ muốn (hoặc chỉ có thể) biết rằng tác động
của sự tiên đoán có ý thức và có tính toán của mỗi tác nhân sẽ có ảnh hưởng đối với các tác nhân khác (điều mà
chính một nhà lý thuyết về thuyết tương tác như Anselm Strauss đã gợi lên dưới
cái tên bối cảnh nhận thức/awareness context[26],
do đó làm cho tất cả các tác động của cấu trúc và tất cả các mối tương quan quyền
lực khách quan biến mất đi - như thể chúng ta muốn nghiên cứu chiến lược
răn đe lẫn nhau trong khi quên rằng chúng chỉ có thể được thiết lập giữa
những người sở hữu vũ khí nguyên tử); hoặc tác động, được tư duy như là "ảnh
hưởng" mà các mạng xã hội, các tác nhân khác hoặc các chuẩn mực
xã hội, sẽ có trên anh ta[27].
Do đó, không chắc rằng cái thường được gọi là "truyền
thống Harvard" (tức là kinh tế học công nghiệp do Joe Bain và các cộng sự
của ông thành lập) lại không xứng đáng hơn cái nhìn hơi trịch thượng mà
"các nhà lý thuyết tổ chức công nghiệp" dành cho nó. Có lẽ thực sự tốt
hơn là nên đi đúng hướng với những lý thuyết không chặt chẽ/loose theories, nhấn mạnh vào sự
phân tích thực nghiệm các lĩnh vực công nghiệp, hơn là lao vào con đường không
có lối ra, với tất cả các bề ngoài của sự nghiêm ngặt, nhằm trình bày “một phân
tích tổng quát và tao nhã”. Ở đây tôi muốn nói đến Jean Tirole khi tác giả này
viết: “Làn sóng đầu tiên, gắn liền với tên tuổi của Joe Bain và Edward Mason và
đôi khi được gọi là 'truyền thống Harvard', mang bản chất thực nghiệm. Nó đã
phát triển 'hệ chuẩn cấu trúc-hành vi-hiệu suất' nổi tiếng theo đó cấu trúc thị
trường (số lượng người bán trên thị trường, mức độ khác biệt của sản phẩm, cấu
trúc chi phí, mức độ hợp nhất theo chiều dọc các nhà cung cấp, v.v.) xác định
hành vi (bao gồm giá cả, nghiên cứu và phát triển, đầu tư, quảng cáo, v.v.) và
dẫn đến lợi nhuận thị trường (hiệu quả, tỷ lệ giá trên chi phí cận biên, sự đa
dạng của sản phẩm, tốc độ đổi mới, lợi nhuận và phân phối). Hệ chuẩn này, mặc
dù có vẻ hợp lý, thường dựa trên các lý thuyết lỏng lẻo và nó nhấn mạnh đến các
nghiên cứu thực nghiệm về các ngành công nghiệp[28]”
Edward Mason thực sự có công trong việc thiết lập nền tảng
của một phân tích cấu trúc đích thực (đối lập với phân tích chiến lược hoặc
tương tác) về hoạt động của một trường kinh tế. Trước hết, ông khẳng định rằng
chỉ một sự phân tích có khả năng tính đến cả cấu trúc của công ty, tức là
nguyên tắc của khả năng phản ứng với cấu trúc đặc thù của trường và cả cấu trúc
của từng lĩnh vực (industry/ngành), cả hai lý thuyết này đều bị những người
theo lý thuyết trò chơi bỏ qua (một lý thuyết mà khi lướt qua ông đã có một phê
phán trước: “Xây dựng những phỏng đoán về hành vi có khả năng xảy ra của A dựa
trên giả định rằng B sẽ hành động theo một cách nhất định, dường như đặc biệt
không mang lại kết quả ”), mới có thể giải thích tất cả những khác biệt giữa
các công ty về thực tiễn cạnh tranh, đặc biệt là về chính sách giá cả, sản xuất
và đầu tư của chúng[29]. Sau đó, ông
cố gắng thiết lập cả về mặt lý thuyết và thực nghiệm các yếu tố quyết định sức
mạnh tương đối của công ty trong trường, quy mô tuyệt đối, số lượng công ty, sự
khác biệt của sản phẩm. Cuối cùng, quy cấu trúc của trường về không gian những
trường hợp có thể như không gian này hiện ra đối với các tác nhân, ông muốn vẽ
ra một "hệ thống các loại hình" của các "tình huống" được
xác định bởi tất cả "những cân nhắc mà người bán tính đến khi xác định
chính sách và thực tiễn của mình "("Cấu trúc thị trường của người bán
bao gồm tất cả những
cân nhắc mà anh ta tính đến khi xác định các chính sách và thực tiễn
kinh doanh của mình"[30].
Trường kinh tế như là trường đấu tranh
Trường các lực lực cũng là một trường đấu tranh nhằm duy
trì hoặc biến đổi trường các lực, một trường hành động được kiến tạo về mặt xã
hội, nơi mà các tác nhân được trang bị với các nguồn lực khác nhau xung đột với
nhau. Mục đích của các hành động mà các công ty triển khai và hiệu quả của các
hành động này trong trường các lực, tức là vị trí của các công ty trong cấu
trúc phân phối tư bản dưới mọi hình thức của nó. Hoàn toàn xa lạ với việc đối mặt
với một vũ trụ không có trọng lực hoặc ràng buộc, nơi họ có thể triển khai các
chiến lược của mình một cách thoải mái, các tác nhận phải đối mặt với một không
gian các khả thể phụ thuộc rất chặt chẽ vào vị trí mà họ chiếm giữ trong trường.
Một biên độ tự do được dành cho trò chơi, so với cuộc chơi, theo nghĩa là kết
quả của việc chia bài, tức là một danh mục các lợi thế. Có lẽ biên độ tự do này
lớn hơn là ở các trường khác vì mức độ đặc biệt cao mà, ngay cả bên ngoài lý
thuyết kinh tế, chủ yếu được sử dụng như một công cụ chính đáng hóa, các phương
tiện và mục đích của hành động, và do đó các chiến lược, được trình bày rõ ràng[31], đặc biệt dưới dạng "lý thuyết bản địa"
về hành động chiến lược (management), rõ ràng được sản xuất với mục đích
hỗ trợ các tác nhân, đặc biệt là các nhà lãnh đạo, trong các quyết định
của họ, và được giảng dạy rõ ràng trong các cơ sở đào tạo những nhà lãnh đạo
này, chẳng hạn như các trường kinh doanh (business schools) lớn[32].
Loại chủ nghĩa bất chấp đạo lý được thể chế hóa này, hoàn
toàn trái ngược với sự phủ nhận và thăng hoa được áp đặt trong các vũ trụ sản
xuất biểu tượng, khiến cho ranh giới trong trường hợp này ít rõ ràng hơn giữa
biểu tượng bản địa và sự trình bày khoa học: vậy nên có sách chuyên luận đề cập
đến chiến trường của các sản phẩm trên thị trường /product market
battlefield[33]. Trong một
trường mà giá cả vừa là mục tiêu vừa là vũ khí, cho cả những người sản xuất
chúng và cho những người khác, các chiến lược tự phát có một sự trong
suốt mà nó không bao giờ đạt được trong các vũ trụ như văn học, nghệ
thuật hoặc khoa học, nơi mà các hình phạt vẫn chủ yếu mang tính biểu tượng, tức
là vừa mơ hồ vừa có những biến thể chủ quan. Và thật vậy, như nghiên cứu mà
logic về quà tặng phải triển khai để che giấu cái đôi khi được gọi là "sự
thật của giá cả" (chẳng hạn: nhãn dán trên quà tặng luôn bị bốc đi một
cách cẩn thận) chứng thực, giá bằng tiền có một loại tính khách quan và tính phổ
quát tàn bạo không để lại nhiều chỗ cho sự đánh giá chủ quan (mặc dù ta có thể
nói rằng "nó đắt cho những gì nó là" hoặc rằng "nó đáng cái giá
đó"). Do đó các chiến lược lừa phỉnh, có ý thức hay vô thức, như các chiến
lược của sự tự phụ thuần túy, ít có cơ hội thành công hơn trong các trường kinh
tế, nơi chúng cũng có vị trí của mình, nhưng thường như là chiến lược răn đe
(hoặc hiếm hơn là chiến lược quyến rũ).
Các chiến lược trước hết phụ thuộc vào hình thái cấu trúc
của trường hoặc, nếu người ta muốn, vào cấu hình đặc thù của các quyền lực là
nét đặc trưng của nó, thông qua mức độ tập trung, nghĩa là sự phân bố các thị
phần giữa một số lượng doanh nghiệp ít nhiều lớn, - với hai trường hợp cực đoan
là sự cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền. Theo Alfred D. Chandler, từ năm 1830 đến
năm I960, nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển lớn đã trải qua một
quá trình tập trung (đặc biệt là thông qua một trào lưu áp nhập) khiến vũ trụ
các công ty nhỏ canh tranh với nhau, vũ trụ tham chiếu của các nhà kinh tế học cổ điển, dần dần biến mất. “Báo cáo của Mac Lane và các nguồn
khác cho chúng ta thấy một ngành công nghiệp sản xuất của Mỹ bao gồm một số lượng
lớn các đơn vị sản xuất nhỏ, mỗi đơn vị có ít hơn năm mươi người và dựa vào việc
sử dụng các nguồn năng lượng truyền thống (…). Các quyết định đầu tư dài hạn
cũng như ngắn hạn đều được thực hiện bởi hàng trăm nhà sản xuất nhỏ phản ứng với
các tín hiệu của thị trường, theo mô hình được Adam Smith mô tả[34].” Từ
nay, kết thúc một quá trình phát triển được đánh dấu đặc biệt bởi một chuỗi dài
các vụ sáp nhập và sự thay đổi sâu sắc cấu trúc của các công ty, chúng ta nhận
thấy rằng, trong hầu hết các ngành, cuộc đấu tranh nay giới hạn giữa một số ít
các các công ty lớn cạnh tranh với nhau vốn, thay vì tự điều chỉnh một cách thụ
động theo “tình hình thị trường”, có thể chủ động biến đổi tình hình này.
Các trường này được tổ chức theo một cách tương đối bất
biến xung quanh sự đối lập chính giữa những công ty đôi khi được gọi là những
công ty đầu tiên tạo ra động lực (first movers) hoặc những công ty dẫn đầu
thị trường và những công ty thách thức/challengers[35]. Thường công ty thống trị là công ty khởi
đầu trong việc thay đổi giá, giới thiệu sản phẩm mới, phân phối và quảng bá ;
nó có khả năng áp đặt hình tượng có lợi nhất cho lợi ích của mình về cách chơi
thích hợp và các quy tắc của trò chơi, tức là về việc tham gia vào trò chơi và
tiếp tục trò chơi. Nó tạo thành một điểm tham chiếu bắt buộc đối với các đối thủ
cạnh tranh buộc phải bày tỏ thái độ đối với nó một cách chủ động hay thụ động,
cho dù chúng muốn làm gì đi nữa. Các mối đe dọa liên tục đè nặng lên nó - cho
dù đó là sự xuất hiện của các sản phẩm mới có khả năng thay thế các sản phẩm của
chính nó hay sự gia tăng quá mức các chi phí của nó có thể đe dọa đến lợi nhuận
của nó - buộc nó phải thường xuyên cảnh giác (đặc biệt trong trường hợp của một
sự thống trị được chia sẻ khi mà sự phối hợp để hạn chế sự canh tranh là cần
thiết). Để chống lại những mối đe dọa này, công ty thống trị có thể tiến hành
hai chiến lược rất khác nhau: hoạt động để cải thiện vị trí toàn cầu của trường
bằng cách cố gắng gia tăng tổng cầu hoặc bảo vệ hoặc gia tăng các vị trí có được trong trường
(thị phần của nó).
Các công ty thống trị có liên quan đến tình trạng tổng thể
của trường được xác định bởi cơ hội lợi nhuận trung bình mà nó mang lại và,
cùng với các trường khác, tạo nên sức hút của nó. Các công ty thống trị khi
cùng hoạt động để tăng cầu, điều mang lại cho chúng lợi nhuận đặc biệt đáng kể,
vì tương xứng với thị phần của chúng, bằng cách cố gắng khuyến khích người tiêu
dùng mới, những cách sử dụng mới hoặc cách sử dụng chuyên sâu hơn các sản phẩm
mà chúng cung cấp. (bằng cách tác động lên chính quyền nếu cần). Nhưng trước hết,
chúng phải bảo vệ vị trí của mình trước những kẻ thách thức bằng tiến trình đổi
mới thường xuyên (sản phẩm mới, dịch vụ mới, v.v.) và việc giảm giá. Do tất cả
những lợi thế mà chúng có trong cạnh tranh (chủ yếu là lợi thế về quy mô liên
quan đến kích thước của chúng), chúng có thể giảm chi phí và đồng thời, giá cả
của chúng mà không làm giảm tỷ suất lợi nhuận của chúng, gây khó khăn cho sự xuất
hiện của những công ty mới tham gia thị trường và loại bỏ các đối thủ cạnh
tranh yếu kém nhất. Nói tóm lại, do sự đóng góp quyết định của chúng đối với cấu
trúc của trường (và đối với việc xác định giá cả trong đó cấu trúc này được
thể hiện), một cấu trúc mà tác động thể hiện dưới dạng các rào cản gia nhập hoặc
các ràng buộc kinh tế, những công ty đầu tiên tạo ra động lực (first
movers) có lợi thế quyết định cả đối với các đối thủ cạnh tranh đã có
chổ đứng và đối với những công ty mới tham gia tiềm năng[36].
Các lực của trường hướng những công ty thống trị đến các
chiến lược mà mục đích là củng cố sự thống trị của chúng. Đó chính là cách mà vốn
biểu tượng mà chúng có được nhờ vào sự nổi trội và thâm niên của chúng cho phép
chúng sử dụng thành công các chiến lược nhằm hăm dọa các đối thủ cạnh tranh, chẳng
hạn như phát ra các tín hiệu nhằm ngăn cản các công ty này tấn công (ví dụ: bằng
cách tổ chức rò rỉ thông tin về việc giảm giá hoặc thành lập một nhà máy mới).
Các chiến lược có thể thuần túy là để lừa phỉnh nhưng lại trờ thành đáng tin nhờ
vào vốn biểu tượng của chúng, do đó lại có hiệu quả. Thậm chí có thể xảy ra trường
hợp rằng, tự tin vào sức mạnh của mình và nhận thức được rằng mình có đủ phương
tiện để chống đỡ một cuộc tấn công lâu dài, và do đó thời gian là có lợi cho
phía chúng, chúng chọn cách tránh những hành động đáp trả, và để các đối thủ
lao vào những cuộc tấn công tốn kém và chắc chắn sẽ thất bại. Nói chung, các
công ty bá chủ có khả năng áp đặt nhịp độ chuyển đổi trong các lĩnh vực khác
nhau, sản xuất, tiếp thị, nghiên cứu, v.v. và việc sử dụng thời gian một cách
khác biệt là một trong những kênh chính tạo nên quyền lực của chúng.
Các công ty chiếm hạng thứ yếu trong một trường có thể tấn
công công ty thống trị (và các đối thủ cạnh tranh khác) hoặc tránh xung đột. Những
công ty thách thức có thể thực hiện các cuộc tấn công trực diện, chẳng hạn như
cố gắng giảm chi phí và giá cả của chúng, đặc biệt là thông qua sự đổi mới công
nghệ hoặc các cuộc tấn công bên hông, bằng cách cố gắng lấp đầy các khoảng khuyết
trong hoạt động của công ty thống trị và chiếm lĩnh các ngách dựa vào sự chuyên
môn hóa sản xuất hoặc bằng cách triển khai chính chiến lược của công ty thống
trị để chống lại nó. Có vẻ như vị trí tương đối trong cấu trúc phân phối vốn và
do đó là trong trường đóng một vai trò rất quan trọng: thật vậy, người ta nhận
thấy rằng trong khi các công ty rất lớn có thể thu được lợi nhuận cao nhờ những
tính kinh tế theo quy mô, và các công ty nhỏ cũng có thể thu được lợi nhuận cao
bằng sự chuyên môn hóa cho một phân khúc hạn chế của thị trường, còn các công
ty quy mô vừa thường có lợi nhuận thấp bởi vì, quá lớn để thu được lợi nhuận của
một sự sản xuất có mục tiêu hạn hẹp, chúng lại quá nhỏ để được hưởng lợi từ các
tính kinh tế quy mô lớn của các công ty lớn nhất.
Biết rằng các lực của trường có xu hướng củng cố các vị
trí thống trị, người ta có thể hỏi làm thế nào các biến đổi thực sự của các
tương quan lực lượng trong trường lại có thể xảy ra. Thật ra, vốn công nghệ
đóng một vai trò quyết định và chúng ta có thể dẫn chứng một số trường hợp các
công ty thống trị đã bị các đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn thay thế nhân dịp một sự
biến đổi công nghệ mang lại lợi thế nhờ sự giảm chi phí cho những công ty nhỏ
hơn. Trên thực tế, vốn công nghệ chỉ phát huy hiệu quả nếu nó được kết hợp với
các loại vốn khác. Điều này có lẽ giải thích tại sao những công ty thách thức
chiến thắng rất hiếm khi là các công ty nhỏ mới thành lập và rằng, khi chúng
không phải là kết quả của sự sáp nhập giữa các công ty đã có chỗ đứng, thì
chúng đến từ các quốc gia khác hoặc nhất là từ các tiểu trường khác.
Trên thực tế, các cuộc cách mạng thường là do các công ty lớn thực hiện, những
công ty có thể, bằng cách đa dạng hóa, tận dụng các kỹ năng công nghệ của chúng
để đưa ra một đề nghị cạnh tranh trên các trường mới. Do đó, những thay đổi bên
trong trường thường gắn với những biến đổi trong mối quan hệ với bên ngoài trường.
Cộng với việc vượt ranh giới, lại còn có sự xác định lại ranh giới giữa
các trường: một số trường có thể được phân thành các trường hạn chế hơn, ví dụ,
ngành hàng không được phân chia thành các nhà sản xuất máy bay dân sự, máy bay
chiến đấu và máy bay du lịch ; hoặc ngược lại, những biến đổi công nghệ có thể
làm suy yếu ranh giới giữa các ngành mà cho đến thời điểm đó vẫn còn tách biệt,
ví dụ công nghệ thông tin, viễn thông và tự động hóa văn phòng có xu hướng đồng
nhất ngày càng mạnh, do đó các công ty chỉ có mặt cho đến lúc đó ở một trong ba
các tiểu trường, ngày càng có xu hướng ở trong thế cạnh tranh trong không gian
mới của các quan hệ đang hình thành. Trong trường hợp này, có thể xảy ra trường
hợp một công ty bị đặt vào thế cạnh tranh không chỉ với các công ty khác trong
cùng một trường mà còn với các công ty thuộc nhiều trường khác. Chúng ta thấy rằng,
trong các trường kinh tế cũng như trong bất kỳ trường nào khác, ranh giới của
trường là một đối tượng của một cuộc đấu tranh trong chính trường đó (đặc biệt
là thông qua vấn đề về các sản phẩm thay thế có thể có và sự cạnh tranh mà các
sản phẩm khả dĩ thay thế này đưa vào); và chỉ sự phân tích thực nghiệm mới có
thể xác định được các ranh giới trong từng trường hợp. (Không hiếm có các trường
mà sự tồn tại gần như được thể chế hóa dưới dạng các ngành với các tổ chức nghề
nghiệp vừa hoạt động như câu lạc bộ của các nhà lãnh đạo ngành, các nhóm bảo vệ
các ranh giới hiện hữu, tức là các nguyên tắc loại trừ làm cơ sở cho chúng và
như cơ quan đại diện trước các cơ quan công quyền, công đoàn và các cơ quan
tương tự khác, được trang bị với các bộ phận hành động và biểu đạt thường trực.)
Nhưng trong số tất cả các trao đổi với bên ngoài trường,
quan trọng nhất là những trao đổi được thiết lập với Nhà nước. Sự canh tranh giữa
các công ty thường diễn ra dưới hình thức sự cạnh tranh để giành quyền lực đối
với quyền lực Nhà nước - đặc biệt là quyền lực xác định các quy định và các quyền
sở hữu[37] - và các lợi ích được cung cấp
bởi các biện pháp can thiệp khác nhau của Nhà nước, giá ưu đãi, thuê môn bài,
quy định, tín dụng nghiên cứu và phát triển, đơn đặt hàng công cho thiết bị, hỗ
trợ tạo việc làm, cho đổi mới, cho hiện đại hóa, cho xuất khẩu, cho nhà ở, v.v.
Trong nỗ lực của chúng để thay đổi "luật chơi" hiện hành có lợi cho
chúng và do đó khẳng định rằng một số thuộc tính của chúng có thể hoạt động như
vốn ở trạng thái mới của trường này, các công ty bị thống trị có thể sử dụng vốn
xã hội của mình để gây áp lực lên Nhà nước và yêu cầu Nhà nước thay đổi trò
chơi có lợi cho mình[38]. Như vậy, cái được
gọi là thị trường rốt cuộc chỉ là một kiến tạo xã hội, một cấu trúc của các
quan hệ đặc thù mà các tác nhân khác nhau tham gia vào trường đóng góp ở những
mức độ khác nhau thông qua những biến đổi mà chúng áp đặt thành công lên thị
trường bằng cách sử dụng các quyền lực do Nhà nước nắm mà chúng có thể kiểm
soát và định hướng.
Thật vậy, Nhà nước không chỉ là nhà điều tiết chịu trách
nhiệm duy trì trật tự và lòng tin và điều tiết thị trường, là trọng tài chịu
trách nhiệm "kiểm soát" các công ty và các tương tác mà chúng ta thường
thấy ở trong thị trường[39]. Như chúng tôi
đã chứng minh được trong lĩnh vực sản xuất căn nhà cá nhân, Nhà nước góp phần,
đôi khi một cách thật sự quyết định, vào việc xây dựng cả cung và cầu, cả hai
hình thức can thiệp được triển khai dưới tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của
các bên liên quan trực tiếp nhất (thật vậy, chúng ta đã thấy làm thế nào, đặc
biệt là thông qua hoa hồng, các chủ ngân hàng, các công chức cấp cao, các doanh
nhân công nghiệp và các chính trị gia địa phương có thể có được một thị trường,
thị trường tín dụng cho các cá nhân và các công ty đối với ngân hàng, thị trường
căn nhà đối với các doanh nhân).
Trong các nhân tố bên ngoài khác có khả năng góp phần tạo
ra sự thay đổi cán cân quyền lực trong trường, còn có các thay đổi trong các
nguồn cung cấp (ví dụ như những khám phá lớn về dầu mỏ vào đầu thế kỷ 20) và những
thay đổi về cầu được xác định bởi những thay đổi về dân số (chẳng hạn như sự sụt
giảm tỷ lệ sinh hoặc sự kéo dài tuổi thọ) hoặc trong lối sống (ví dụ, sự gia
tăng mức lao động của phụ nữ dẫn đến sự sụt giảm của một số sản phẩm và tạo ra
những thị trường mới, ví dụ như thực phẩm đông lạnh và lò vi sóng). Thật ra,
các nhân tố bên ngoài này chỉ phát huy tác dụng của chúng đối với tương quan
quyền lực bên trong trường thông qua chính lôgic của sự tương quan quyền lực
này, nghĩa là trong chừng mực mà chúng đảm bảo lợi thế cho các công ty thách thức
bằng cách cho phép chúng được thiết lập trong các thị trường ngách, trong các
thị trường chuyên biệt nơi mà các công ty đầu tiên tạo ra động lực,
tập trung vào sự sản xuất số lượng lớn được tiêu chuẩn hóa, gặp khó khăn trong
việc đáp ứng các yêu cầu rất đặc thù, những yêu cầu của một nhóm người tiêu
dùng hoặc của một thị trường khu vực, và có thể trở thành đầu cầu cho những
phát triển sau này.
Công ty như là trường
Rõ ràng rằng các quyết định về giá cả hoặc trong bất kỳ
lĩnh vực nào khác không phụ thuộc vào một tác nhân duy nhất, một huyền thoại
che giấu các trò chơi và các vấn đề quyền lực trong công ty hoạt động như một
trường hay chính xác hơn là trong trường quyền lực riêng biệt của từng công ty.
Nói cách khác, nếu chúng ta đi vào "hộp đen" cấu thành công ty, thì sẽ
thấy không phải các cá nhân, mà là, một lần nữa, một cấu trúc, cấu trúc của trường
của công ty có quyền tự chủ tương đối đối với các ràng buộc gắn với vị trí
trong trường các công ty. Nếu trường bao trùm tác động đến cấu trúc của công
ty, thì trường bị bao trùm, với tư cách là một mối tương quan lực lượng đặc thù
và không gian chơi và các cuộc đấu tranh, xác định chính các điều khoản và các
thách thức của cuộc đấu tranh, tạo nên một đặc ứng khiến cho chúng thường khó
hiểu, khi thoạt nhìn từ bên ngoài.
Chiến lược của các công ty (đặc biệt trong lĩnh vực giá cả)
không chỉ phụ thuộc vào vị trí mà các công ty chiếm giữ trong cấu trúc của trường.
Chúng cũng phụ thuộc vào cấu trúc của các vị trí quyền lực cấu thành chính quyền
nội bộ của công ty hay chính xác hơn là vào các tố chất (được cấu tạo về mặt xã
hội) của các nhà quản lý hành động dưới sự ràng buộc của trường quyền lực trong
công ty và trường của công ty trong tính toàn thể của nó (có thể được xác định
thông qua các chỉ số như thứ bậc các thành phần cấu thành lực lượng lao động, vốn
học vấn và đặc biệt là vốn khoa học của các cán bộ điều hành, mức độ phân hóa về
mặt quan liêu, trọng lượng của các công đoàn, v.v.). Hệ thống các ràng buộc và
các thỉnh cầu được ghi nhận trong vị trí trong trường và khiến các công ty thống
trị hành động trên trường theo hướng có lợi nhất cho sự tồn tại lâu dài của
chúng không có gì là định mệnh hoặc thậm chí là một loại bản năng không thể sai
lầm sẽ định hướng các công ty và các nhà quản lý của chúng hướng tới những lựa
chọn có lợi nhất để bảo tồn các lợi thế đã có được. Ví dụ thường được viện dẫn
về Henry Ford, người sau khi thành công rực rỡ trong sản xuất và phân phối biến
ông trở thành nhà sản xuất xe rẻ nhất trên thế giới, đã phá hủy năng lực cạnh
tranh của công ty của ông, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, bằng cách khiến gần
như tất cả những nhà quản lý có kinh nghiệm và năng lực nhất bỏ đi, những người
sẽ là nguồn gốc của sự thành công của các đối thủ cạnh tranh.
Tuy nhiên, mặc dù có quyền tự chủ tương đối đối với các lực
của trường, nhưng cấu trúc của trường quyền lực trong công ty cũng có tương
quan chặt chẽ với vị trí của công ty trong trường, đặc biệt thông qua sự tương ứng
giữa một bên là khối lượng (cũng liên quan đến thâm niên của công ty và vị trí
của nó trong vòng đời, do đó, nói một cách đại khái, với quy mô và khả năng
tích hợp của nó) và cấu trúc vốn của công ty (đặc biệt là tỷ trọng tương đối của
vốn tài chính, vốn thương mại và vốn kỹ thuật) và một bên là cấu trúc phân phối
vốn giữa những người quản lý khác nhau của công ty, chủ sở hữu - chủ/owners -
và "viên chức" - người quản lý/managers - và
trong số những người sau, giữa những người nắm giữ các loại vốn văn hóa khác
nhau, thiên về tài chính, kỹ thuật hoặc thương mại, tức là, trong trường hợp của
Pháp, giữa các đoàn thể (corps) Nhà nước quan trọng hoặc các Trường Lớn (ENA, X
hoặc HEC) nơi xuất thân của họ[40].
Nếu không thể phủ nhận rằng
chúng ta có thể nhận ra các xu hướng, về lâu dài, trong sự tiến hóa của tương
quan quyền lực giữa các tác nhân chính trong trường quyền lực trong công ty, đặc
biệt là, lúc ban đầu, sự ưu thế của các doanh nhân có khả năng làm chủ các công
nghệ mới và khả năng tập hợp các nguồn vốn cần thiết để triễn khai chúng, sau
đó là sự can thiệp ngày càng không thể tránh khỏi của các chủ ngân hàng và các
tổ chức tài chính, sau đó là sự trỗi dậy của các nhà quản lý[41], còn cần phải, cũng như ta phải phân tích hình thái đặc
thù mà, trong mỗi công ty, cấu hình của sự phân bổ quyền lực giữa các công ty
có, tương tự như vậy, cũng cần phải phân tích, trong mỗi công ty và ở mỗi thời
điểm, hình thái mà cấu hình các quyền lực có trong trường quyền lực đối với
công ty và nhờ đó có được các phương tiện để hiểu cái logic của các cuộc đấu
tranh trong đó mục đích của công ty được xác định[42].
Thật vậy, rõ ràng rằng những mục tiêu này là những cược của cuộc đấu tranh, rằng
phải thay thế các tính toán hợp lý của một "người quyết định" sáng suốt
bằng cuộc đấu tranh chính trị giữa các tác nhân có xu hướng đồng hóa các lợi
ích đặc thù của họ (liên quan đến vị trí của họ trong công ty) với các lợi ích
của công ty, mà quyền lực chắc chắn được đo bằng khả năng của họ để xác định, tốt
hơn hay xấu hơn (như ví dụ của Henry Ford cho thấy), lợi ích của công ty đối với
lợi ích của họ trong công ty.
Cấu trúc và cạnh tranh
Tính đến cấu trúc của trường có nghĩa là sự cạnh tranh để
tiếp cận trao đổi với khách hàng không thể được hiểu như là một cuộc cạnh tranh
được định hướng bởi sự tham chiếu có ý thức và rõ ràng đến các đối thủ cạnh
tranh trực tiếp hoặc ít nhất là các đối thủ nguy hiểm nhất trong số họ, theo sự
trình bày của Harrison White "Các nhà sản xuất theo dõi lẫn nhau trong một
thị trường"[43]. Hay, thậm chí rõ ràng hơn nữa trong Max Weber "Hai
đối tác tiềm năng định hướng một cách không phân biệt các đề nghị cung của họ
tùy vào hành động tiềm ẩn của nhiều đối thủ thực tế và tưởng tượng khác, chứ không chỉ trên hành động tiềm năng của các đối
tác trong giao dịch” - và đặc biệt,
của hành động mặc cả, "hình thức hành động quan trong nhất của hoạt động
trong thị trường" và "sự thỏa hiệp lợi ích" khép lại cuộc giao dịch.
Max Weber mô tả ở đây một hình thức tính toán hợp lý, nhưng hoàn toàn khác
trong logic của nó với logic của thuyết kinh tế học chính thống: không phải các
tác nhân đưa ra lựa chọn của họ từ thông tin được cung cấp bởi giá cả (giả định
là cân bằng), mà các tác nhân có tính đến các hành động và phản ứng của các đối
thủ cạnh tranh và “định hướng bản thân trong mối quan hệ với họ”, tức là có được
thông tin về các đối thủ này và có khả năng hành động chống lại hoặc hành động cùng với họ. Nhưng, nếu ông có công thay thế mối quan hệ với
tất cả những người sản xuất cho một giao dịch duy nhất với khách hàng,
ông đã tóm gọn nó trong mối quan hệ tương tác có ý thức và có
suy nghĩ giữa các đối thủ cạnh tranh đầu tư vào cùng một đối tượng. Và điều
tương tự cũng xảy ra với Harrison White vốn, khi xem thị trường như một "cấu
trúc xã hội tự tái tạo/ self-reproducing social structure", lại tìm kiếm
nguyên tắc của chiến lược của các nhà sản xuất không phải ở những ràng buộc gắn
với vị trí cấu trúc của họ, mà trong sự quan sát và giải mã các tín hiệu được
phát ra từ hành vi của những người sản xuất khác. “Thị trường là cấu trúc tự
tái tạo giữa các nhóm đặc thù các công ty và các tác nhân khác, những người suy
ra vai trò từ sự quan sát hành vi của nhau[44]”.
Các nhà sản xuất, được trang bị kiến thức về
chi phí sản xuất, cố gắng tối đa hóa doanh thu của họ bằng cách xác định khối
lượng sản xuất phù hợp "trên cơ sở của những vị trí được quan sát của tất
cả các nhà sản xuất" và tìm kiếm một ngách trên thị trường.
Sự tranh đua giữa một số ít tác nhân tương tác với nhau về
mặt chiến lược để tiếp cận (đối với một bộ phận các tác nhân) nhằm sự trao đổi
với một nhóm khách hàng đặc biệt, cần phải được thay thế bởi cuộc gặp gỡ giữa
những người sản xuất có vị trí khác nhau trong cấu trúc vốn đặc thù (dưới nhiều
hình thức khác nhau) và những khách hàng đang chiếm giữ các vị trí trong không
gian xã hội tương đồng với những vị trí mà các nhà sản xuất này có trong trường.
Những gì thường được gọi là ngạch không gì khác là phân khúc của khách hàng mà
sự tương hợp cấu trúc phân định cho các công ty khác nhau và đặc biệt là cho
các công ty thứ cấp: như chúng tôi đã cho thấy liên quan đến các sản phẩm văn
hóa, cả trên bình diện sản xuất cũng như tiêu dùng, các sản phẩm này được phân phối trong một không gian có hai chiều được
xác định bởi vốn kinh tế và vốn văn hóa, ta cũng có thể quan sát, trong mỗi trường,
sự tương đồng giữa không gian của người sản xuất (và các sản phẩm) và không
gian của khách hàng được phân phối theo các nguyên tắc phân biệt thích đáng. Điều
này nói lên rằng những ràng buộc, đôi khi gây tử vong, mà các nhà sản xuất thống
trị áp đặt lên các đối thủ cạnh tranh hiện tại hoặc tiềm năng chỉ được thực hiện
thông qua trung gian của trường: khiến cho sự cạnh tranh cũng chỉ là sự
"xung đột gián tiếp" (theo nghĩa của Simmel) không hướng đến đối thủ
cạnh tranh. Trong trường kinh tế cũng như ở những nơi khác, cuộc đấu tranh
không cần thiết phải lấy cảm hứng từ ý định hủy diệt để tạo ra những tác động
tàn khốc.
Tập tính kinh tế
Con Người Kinh Tế như thuyết kinh tế học chính thống quan niệm (ngầm
hoặc rõ ràng) là một loại quái vật nhân học. Người thực hành này với cái đầu của
một nhà lý thuyết là hiện thân hoàn hảo của sự nguỵ biện học thuật/scholastic
fallacy, một sai lầm của chủ nghĩa duy trí thức hoặc lấy tri thức làm trung
tâm, rất phổ biến trong khoa học xã hội (đặc biệt là trong ngôn ngữ học và dân
tộc học), thông qua đó học giả đặt vào tâm trí của các tác nhân mà ông nghiên cứu,
các bà nội trợ hoặc các hộ gia đình, các doanh nghiệp hoặc doanh nhân, v.v., những
suy nghĩ và những cấu trúc lý thuyết mà ông đã phải xây dựng để thuật lại các
thực tiễn của họ[45].
Gary Becker, tác giả của những nỗ lực táo bạo nhất để xuất khẩu sang
tất cả các ngành khoa học xã hội mô hình thị trường và công nghệ được cho là mạnh
mẽ và hiệu quả hơn của công ty tân kinh điển, đã có công tuyên bố rõ ràng những
gì đôi khi bị che giấu trong những giả định ngầm của thói quen khoa học: “Cách
tiếp cận kinh tế (...) hiện nay giả định rằng các cá nhân tối đa hóa lợi ích của
họ từ những sở thích cơ bản không thay đổi nhanh chóng theo thời gian và hành
vi của các cá nhân khác nhau được điều phối bởi thị trường rõ ràng hoặc ngầm
(...). Cách tiếp cận kinh tế không chỉ giới hạn trong của cải vật chất và nhu cầu
hoặc các thị trường có giao dịch tiền tệ, và về mặt khái niệm không
phân biệt giữa các quyết định lớn hay nhỏ hoặc giữa các quyết định 'cảm tính'
và các quyết định khác. Thật vậy (...) cách tiếp cận kinh tế cung cấp một khuôn
khổ áp dụng cho mọi hành vi của con người - cho tất cả các loại quyết định và
cho mọi người ở tất cả các giai đoạn của cuộc đời”[46].
Không có gì thoát khỏi sự giải thích bởi tác nhân tìm kiếm sự tối đa hóa, cả cơ
cấu tổ chức, công ty và hợp đồng (với Oliver Williamson), cả quốc hội và hội đồng thành phố, cả hôn nhân (được
xem như là sự trao đổi kinh tế các dịch vụ sản xuất và tái sản xuất), cả gia
đình, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái (với James Coleman) hoặc Nhà nước.
Phương thức giải thích phổ quát này dựa trên một nguyên lý giải thích cũng mang
tính phổ quát (sở thích cá nhân là ngoại sinh, có thứ tự và ổn định, do đó
không có sự phát sinh hoặc sự phát triển ngẫu nhiên), không còn biết
bất kỳ giới hạn nào. Gary Becker thậm chí còn không nhìn nhận những giới hạn
mà Pareto buộc phải đặt ra, trong văn bản sáng lập trong đó Pareto đồng
hóa tính duy lý của hành vi kinh tế với tính duy lý thuần túy, bằng
cách phân biệt hành vi thực sự kinh tế là kết quả của những "suy luận
logic" dựa trên kinh nghiệm, và các hành vi "được xác định bởi việc sử
dụng", chẳng hạn như việc dỡ mũ khi bước vào phòng khách[47].
Khái niệm tập tính có chức năng đầu tiên là đoạn tuyệt với
quan điểm triết học của Descartes về ý thức, đồng thời lôi kéo ý thức khỏi thế
phải lựa chọn tai hại giữa thuyết cơ giới và thuyết hình thức, tức là giữa sự quy định bởi nguyên nhân và sự quy định bởi lý do ; hoặc
giữa cái được gọi là thuyết quyết định cá nhân và cái mà đôi khi được gọi là tổng
thể luận (trong số “những người cá nhân chủ nghĩa”), một sự đối lập bán thông
thái chỉ là hình thức được làm dịu đi của sự lựa chọn, có lẽ là mạnh nhất của lĩnh
vực chính trị, giữa chủ nghĩa cá nhân hay chủ nghĩa tự do coi cá nhân là đơn vị
cơ bản tự trị cuối cùng và chủ nghĩa tập thể hay chủ nghĩa xã hội, được cho là
dành ưu tiên cho tập thể.
Tác nhân xã hội, nhờ được trang bị với một tập tính, là một
cá nhân tập thể hoặc một tập thể được cá nhân hóa thông qua tiến trình sáp nhập.
Cái cá nhân, cái chủ quan mang tính xã hội, tính tập thể. Tập tính là thực thể
chủ quan được xã hội hóa, một thực thể siêu việt lịch sử mà các phạm trù nhận
thức và đánh giá (hệ thống sở thích) là sản phẩm của lịch sử tập thể và cá
nhân. Lý trí (hay tính duy lý) bị bounded, giới hạn, không chỉ, như Herbert Simon tin, bởi vì trí tuệ con người bị giới hạn về mặt
sinh học (đây không phải là một sự khám phá), mà bởi vì nó được cấu trúc về mặt
xã hội và do đó, bị hạn chế[48]. Những giới
hạn này là những giới hạn vốn có trong bất kỳ giai đoạn của cuộc đời/walk
of life nào, như Becker nói, vì nó gắn liền với một vị trí trong không
gian xã hội. Nếu đó là một thuộc tính phổ quát, thì đó là do các tác nhân không
mang tính phổ quát vì thuộc tính của họ, đặc biệt là sở thích và thị hiếu của họ,
là sản phẩm của vị trí và sự dịch chuyển của họ trong không gian xã hội, tức là
của lịch sử tập thể và cá nhân.
Tuy vậy, tập tính hoàn toàn không phải là một nguyên tắc
hoạt động cơ học hay chính xác hơn không phải là phản ứng (giống như một cung
phản xạ). Nó là sự tự phát có điều kiện và hạn chế. Nó là nguyên tắc độc lập
khiến cho hành động không chỉ đơn giản là một phản ứng tức thời trước một thực
tại thô sơ mà là một sự đáp trả “thông minh” đối với một khía cạnh được lựa chọn
một cách chủ động của thực tại gắn với một lịch sử mang nặng một tương lai có
thể xảy ra, nó là sự quán tính, dấu vết của hành trình đã qua của các tác nhân,
mà họ đối lập với các lực trực tiếp của trường khiến cho các chiến lược của họ
không thể được suy luận trực tiếp từ vị trí hoặc tình huống hiện tại. Nó tạo ra
một sự đáp trả mà nguyên tắc không được ghi nhận trong sự kích thích, một sự
đáp trả tuy hoàn toàn không bất
ngờ, nhưng cũng không thể dự
đoán được chỉ từ kiến thức về tình huống: đó là phản ứng đối với một khía cạnh
của thực tế được nhận thức bởi sự lĩnh hội có chọn lọc, một phần và thiên vị
(tuy không phải là "chủ quan, theo nghĩa hẹp) vài kích thích nhất định, bởi
sự quan tâm đối với một khía cạnh riêng biệt của sự vật mà ta thường cho là “gợi
lên sự quan tâm" hay được sự hứng thú khơi dậy ; một hành động mà ta có thể
xem, một cách không mâu thuẫn, là vừa được xác định vừa tự phát, vì nó được xác định bởi
các kích thích có điều kiện và quy ước vốn chỉ tồn tại như vậy
đối với một tác nhân sẵn sàng và có thể nhận thức được chúng.
Bức màn mà
tập tính đưa vào giữa sự kích thích và phản ứng là màn thời gian, trong chừng mực
mà, bắt nguồn từ một lịch sử, nó tương đối ổn định và lâu bền, và do đó tương
đối độc lập với lịch sử. Là sản phẩm của những kinh nghiệm trong quá
khứ và của cả một sự tích lũy tập thể và cá nhân, nó chỉ có thể được hiểu bằng
một phân tích truy cứu nguồn gốc được áp dụng cho cả lịch sử tập thể - ví dụ
như lịch sử các thị hiếu, mà Sidney Mintz đã đưa ra một ví dụ bằng cách chỉ ra
rằng sở thích vị của đường, thoạt tiên là một sản phẩm xa xỉ kỳ lạ dành riêng
cho các tầng lớp được ưu đãi, đã trở thành một phần không thể thiếu trong chế độ
ăn bình thường của các tầng lớp lao động[49] -
và cả lịch sử cá nhân - với sự phân tích các điều kiện kinh tế và xã hội về nguồn
gốc của thị hiếu cá nhân trong các lĩnh vực ẩm thực, trang trí, quần áo và cả
các bài hát, sân khấu, âm nhạc hoặc điện ảnh, v.v.[50].
Khái
niệm tập tính cũng giúp thoát khỏi sự lựa chọn giữa mục đích luận - xác định
hành động bởi sự tham chiếu có ý thức đến một mục đích được suy nghĩ cân nhắc
và do đó quan niệm tất cả hành vi như là sản phẩm của một phép tính công cụ thuần
túy, nếu không muốn nói là bất chấp đạo lý - và thuyết cơ học - theo đó hành động
được tóm gọn trong một phản ứng thuần túy đối với các nguyên nhân không bị phân
biệt. Các nhà kinh tế học chính thống và các nhà triết học bảo vệ thuyết hành động
hợp lý do dự giữa hai lý thuyết hành động này không tương thích về mặt logic: một
mặt là thuyết quyết định luận dựa trên mục đích theo đó tác nhân là ý thức lý
trí thuần túy hành động với kiến thức
đầy đủ về các sự kiện, nguyên tắc hành động là một lý do hợp lý hay một quyết định
hợp lý được xác định bằng một sự đánh giá hợp lý tỷ lệ thành công ; mặt khác, một
chủ nghĩa vật lý biến hành động thành một hạt không có quán tính được điều khiển
một cách cơ học bởi lực của các nguyên nhân (cũng được nhà khoa học biết) và phản
ứng tức thời với một tổ hợp của các lực. Nhưng họ (nhà kinh tế học và nhà triết
học) lại càng ít gặp khó khăn hơn trong việc dung hòa điều không thể hòa giải
vì hai nhánh của sự đối chọn cũng chỉ là một: trong cả hai trường hợp, phục
tùng thuyết ngụy biện học thuật/scholastic fallacy, họ phóng đại chủ
thể bác học, có được một kiến thức
hoàn hảo về các nguyên nhân và các cơ hội, trên tác nhân hành động , được xem
như là có khuynh hướng hợp lý để đề ra như là mục tiêu những cơ may mà các
nguyên nhân gán cho (sự phục tùng hoàn toàn có ý thức của các nhà kinh tế học đối
với sự ngộ biện này nhân danh "quyền trừu tượng", là không đủ để hủy
bỏ tác dụng của sự ngộ biện – có cần phải nói lên điều này không ?)
Tập tính là một nguyên tắc hành động rất tiết kiệm, đảm bảo
sự tiết kiệm đáng kể trong tính toán (đặc biệt là trong tính toán chi phí nghiên
cứu và đo lường) và cả về thời gian, một nguồn lực đặc biệt khan hiếm trong hoạt
động. Do đó, nó đặc biệt phù hợp với những hoàn cảnh bình thường của cuộc sống
vốn, hoặc vì cấp bách hoặc vì thiếu kiến thức
cần thiết, để lại rất ít chỗ cho việc đánh giá có ý thức và có tính toán các cơ
hội thu lợi. Trực tiếp bắt nguồn từ thực tiễn và được liên kết, trong cấu trúc
của nó cũng như trong hoạt động của nó, với thực tiễn, cái cảm thức thực tiễn
này không thể được đo lường bên ngoài các điều kiện triễn khai nó. Điều đó có
nghĩa là các thử thách mà “sự truy cứu quyết định”[51] đặt
lên các chủ thể hoàn toàn không thích đáng vì chúng cố gắng đo lường trong một
tình huống giả tạo khả năng đánh giá có ý thức và có tính toán về các cơ hội mà
sự triễn khai cũng đòi hỏi sự đoạn tuyệt với những ý hướng của cảm thức thực tiễn
(thật vậy, người ta quên rằng phép tính xác suất đã được xây dựng chống lại các
khuynh hướng tự phát của trực giác sơ cấp/ban đầu)…
NHÂN HỌC TƯỞNG TƯỢNG CỦA
LÝ THUYẾT HÀNH ĐỘNG HỢP LÝ
Các thiết kế lý thuyết đa
dạng, có nền tảng về mặt xã hôi tốt hơn là về mặt khoa học, được đặt dưới tên
Lý thuyết Hành động Hợp lý hoặc Phương Pháp Luận Cá Thể, dựa trên cái được gọi là
“kinh tế học tân cổ điển”, một nhãn hiệu chiến đấu và mục tiêu của các cuộc đấu
tranh để thôn tính và khai trừ [1], tự cho phép mình xây dựng một lý thuyết
nhân học được ứng dụng một cách tổng quát; những lý thuyết này, nói cho cùng,
được đặt trên một triết học theo thuyết của Descartes về khoa học, về tác nhân
(với tư cách là chủ thể) và về thế giới xã hội.
Trước hết, đó là một khoa
học luận theo thuyết suy luận, đồng nhất tính chặt chẽ với sự hình thức hóa
toán học, muốn suy ra những “định luật” hoặc “định lý” có ý nghĩa từ những tiên
đề cơ bản, chặt chẽ nhưng lại im tiếng về các chức năng thực của kinh tế học. Chúng ta có thể trích dẫn
Durkheim ở đây: “Kinh tế học là một môn khoa học trừu tượng và suy diễn, không
quan tâm nhiều đến việc quan sát thực tế bằng quan tâm đến việc xây dựng một lý tưởng ít nhiều được ao ước;
bởi vì con người mà các nhà kinh tế học đề cập, một con người triệt để theo chủ
nghĩa vị kỷ, chỉ là một con người có lý trí giả tạo. Con người mà chúng ta biết,
con người thực, phức tạp hơn nhiều: anh ta thuộc về một thời đại và một quốc
gia, anh ta sống ở đâu đó, anh ta có gia đình, đất nước, niềm tin tôn giáo và
những ý tưởng chính trị [2]”.
Thứ hai, đó là một triết học
duy trí thức quan niệm các tác nhân là những ý thức thuần khiết không có
lịch sử có khả năng đặt ra những mục đích một cách tự do và tức thời và hành động
với một ý thức toàn diện (hoặc trong một biến thể cùng tồn tại mà không mâu thuẫn
với biến thể trước đó, giống như các nguyên tử biệt lập, không có quyền tự chủ
hoặc quán tính và do nguyên nhân xác định một cách máy móc). Chúng ta có thể viện
dẫn Veblen ở đây khi ông cho thấy triết học theo chủ nghĩa hoan lạc vốn tạo cơ
sở cho lý thuyết kinh tế dẫn đến việc gắn cho các tác nhân, những nguyên tử
không có quán tính và “những người tính toán chớp nhoáng” “một bản chất thụ động,
về thực chất là bất động và bất biến: “Quan niệm của chủ nghĩa
hoan lạc về con người là quan niệm con người tính toán nhanh như chớp về thú
vui và sự đau khổ, dao động như một giọt nhu cầu thuần nhất của sự khát khao hạnh phúc dưới sự
thúc đẩy của các kích thích khiến anh ta dịch chuyển trong khu vực, nhưng vẫn để
anh ta nguyên vẹn. Anh ta không có tiền sử hay không để lại hậu quả. Anh ta là
một cá thể cô lập, một dữ liệu dứt khoát mang tính con người, ở trạng thái cân
bằng ổn định ngoại trừ những sự vùi dập của các lực tác động làm anh ta chuyển
động theo hướng này hay hướng khác. Có tư thế thăng bằng trong không gian
nguyên tố, anh ta xoay tròn một cách đối xứng xung quanh trục tâm linh của
chính mình, cho đến khi hình bình hành của các lực đè anh ta xuống, từ đó anh
ta đi theo đường của lực tổng hợp. Khi sức mạnh của sự tác động đã tàn lụi, anh
ta lại nghỉ ngơi, như là một giọt nhu cầu của sự khát khao như trước “[3].
Cuối cùng và nhất là đây
là một quan niệm hoàn toàn mang tính nguyên tử và không liên tục (hoặc tức
thời) về thế giới xã hội, làm nền tảng cho mô hình cạnh tranh hoàn hảo hoặc thị trường hoàn hảo, một mô tả được lý tưởng
hóa về cơ chế trừu tượng được cho là đảm bảo sự điều chỉnh tức thời của giá cả,
trong trường hợp tới hạn của một thế giới không có ma sát, tức là trạng thái cân bằng thị trường được cho là
phối hợp các hành động cá nhân thông qua các biến động của giá cả [4].
Thậm chí, hơn cả triết học
về ý thức của thuyết kinh tế học chính thống vốn xác định nguyên tắc hành động
trong các ý định hoặc lý do rõ ràng (hoặc nói rộng hơn, theo Friedrich Hayek, trong tâm lý học), chính triết lý của nó về trật
tự kinh tế gợi lên rất trực tiếp vũ trụ vật chất như được René Descartes mô tả,
tức là hoàn toàn không có bất kỳ lực nội tại nào, do đó phải chịu sự không liên
tục triệt để của các hành động của đấng sáng tạo. Triết học nguyên tử và cơ học
này đơn giản loại bỏ hoàn toàn lịch sử. Trước tiên, nó loại trừ lịch sử khỏi
các tác nhân mà các sở thích, không có quan hệ gì với các trải nghiệm trong quá
khứ, không thể được những biến động của lịch sử tiếp cận: hàm lợi ích cá nhân được quy định là
bất biến hoặc tệ hơn, không thích đáng để phân tích [5]. Một cách nghịch lý, nó
làm biến mất bất kỳ câu hỏi nào về các điều kiện kinh tế của hoạt động kinh tế,
do đó tự mình ngăn cản khám phá ra rằng có một sự phái sinh cá nhân và
tập thể của hoạt động kinh tế được công nhận về mặt xã hội là hợp lý trong
một số vùng của một số xã hội ở một thời kỳ nhất định và, đồng thời, của mọi thứ
được chỉ định bởi các khái niệm, dường như không điều kiện, mà nó đặt ở nền tảng
của nó, nhu cầu, tính toán hoặc sở thích.
_______________
[1] Khó khăn của mọi nỗ lực
để tự do suy nghĩ lại nền tảng của kinh tế học xuất phát từ thực tế rằng
ngày nay thuyết kinh tế học chính thống là một trong những diễn ngôn có sức mạnh
xã hội mạnh nhất về thế giới xã hội, đặc biệt là vì sự hình thức hoá toán học mang lại cho nó vẻ ngoài phô trương của sự
chặt chẽ và tính trung lập. Mặc dù lý thuyết kinh tế còn lâu mới được thống nhất
và chúng ta có thể phân biệt một lõi cứng/hard core thống trị về
mặt xã hội, được tổ chức xung quanh cá nhân biệt lập và một thị trường trừu tượng,
các lý thuyết bổ sung hoặc điều chỉnh (lý thuyết trò chơi, lý thuyết thể chế,
lý thuyết tiến hóa) và các lý thuyết đối kháng, nó (thuyết kinh tế học chính thống)
được tổ chức về mặt xã hội theo mô hình của chuỗi vĩ đại của sự tồn tại/great
chain of being, mà Arthur Lovejoy rất ưa thích, với, ở một đầu là các nhà
toán học thuần túy và hoàn hảo của lý thuyết cân bằng chung và ở đầu kia là các
tác giả của các mô hình nhỏ của kinh tế học ứng dụng, nhóm đầu tiên cung cấp sự
bảo lãnh cho nhóm thứ hai, trong khi nhóm này lại cung cấp cho nhóm đầu tiên những
vẻ bề ngoài của một sự nắm bắt được các thực tế của thế giới như nó là.
[2] E. Durkheim, “Cours de sciences sociales”, in La science sociale et l’action, Paris,
PUF, 1970 (!ere edition 1888, p. 85
[3]
Th. Veblen, “Why is Economics not an evolutionary science?”,
The Quaterly Journal of Economics, July 1898, p. 373-397.
[4]
Có thể tìm thấy một sự phê bình đối với sự lý tưởng
hóa mạo xưng này trong A. Hirschman,
“Rival interpretations of Market
society: Civilizing or Feeble?”, Journal of Economic Literature, 20
(4), 1982, p. 1463-1484 .
[5]
G.J. Stigler, G.S Becker, “De Gustibus non est disputandum”, American
Economic Review, 67, March 1977, p. 76-90.
Gần
như tối nghĩa, bởi vì nằm ở bên ngoài nhị nguyên luận của chủ thể và khách thể, của tính chủ động và thụ
động, cứu cánh và phương tiện, quyết đinh luận và sự tự do, mối
quan hệ của tập tính với trường, trong đó tập tính được xác định bằng cách xác
định những gì quyết định nó, là một phép tính mà không cần máy tính, một hành động
có chủ tâm mà không có chủ đích mà chúng ta có nhiều chứng thực thực nghiệm[52]. Khi tập tính là sản phẩm của những điều
kiện khách quan tương tự với những điều kiện trong đó nó hoạt động, nó tạo ra
hành vi thích nghi hoàn hảo với những điều kiện này mà không phải là sản phẩm của
quá trình tìm kiếm sự thích ứng một cách có chủ đích và có ý thức (chính theo
nghĩa này mà chúng ta phải cẩn thận không được coi những "dự kiến thích nghi", theo nghĩa của Keynes, như những
"dự kiến duy lý", ngay khi tác nhân có tập tính được điều chỉnh tốt
có vẽ là bản sao của tác nhân sản xuất ra những dự kiến duy lý). Trong trường hợp
này, ảnh hưởng của tập tính gần như là vô hình và lối giải thích bởi tập tính
có vẻ thừa so với lối giải thích bởi tình huống (thậm chí người ta có thể có cảm
tưởng rằng đó là một lối giải thích phù hợp/ad hoc, theo logic của
tính năng ru ngủ). Nhưng hiệu quả riêng biệt của tập tính được quan sát thấy rõ
ràng trong tất cả tình huống mà nó không phải là sản phẩm của các điều kiện cập nhật hoá nó (ngày càng thường xuyên cùng
với sự phân biệt ngày càng sâu của các xã hội): đây là trường hợp khi các tác
nhân được đào tạo trong một nền kinh tế tiền tư bản phải đối đầu với những đòi
hỏi của một vũ trụ tư bản chủ nghĩa, mà không được trang bị với bất kỳ vũ khí
nào[53] ; hoặc khi người cao tuổi tiếp
tục duy trì, theo cách của Don Quixote, các tố chất không còn thích đáng nữa, hoặc khi các tố
chất của một tác nhân đang thăng tiến hoặc đang lúc suy trong
cấu trúc xã hội không hài hòa với vị trí mà anh ta chiếm giữ. Những tác động
như vậy của hiện tượng trễ (hysteresis), tức của sự chậm trễ và lệch pha trong việc thích ứng, được
giải thích bởi đặc tính tương đối lâu bền, nhưng không có nghĩa là bất biến, của
tập tính, một sự bền vững cũng nằm trong nguyên tắc của sự ổn định tương đối của
các mức độ tiêu dùng theo thời gian.
Tương
ứng với tính không đổi (tương đối)
của các tố chất là tính không đổi (tương đối) của các trò chơi
xã hội trong đó chúng được cấu thành: giống như tất cả các trò chơi xã hội, các
trò chơi kinh tế không phải là trò chơi may rủi ; chúng cho thấy một sự đều đặn
và sự lặp lại của các cấu hình tương tự với một số lượng hữu hạn tạo ra cho
chúng một sự đơn điệu nhất định. Kết quả là tập tính tạo ra những dự đoán phải chăng /raisonnable (chứ
không phải là duy lý) vốn, vì là sản phẩm của những tố chất phát sinh từ sự sáp nhập
không được cảm thấy của trải nghiệm về các tình huống ổn định hoặc được lặp lại,
ngay lập tức thích ứng với các tình huống mới nhưng không hoàn toàn bất ngờ. Như một tố chất để hành động, kết quả của
những trải nghiệm trước đây về các tình huống tương tự, tập tính đảm bảo khả
năng làm chủ thực tế các tình huống bất trắc và xác lập mối quan hệ với tương
lai không phải là tương lai của dự án, tức là ý đồ tìm kiếm các khả năng cũng
có thể xảy ra hoặc không thể xảy ra, mà là tương lai của dự đoán thực tiễn khi
khám phá ngay trong tính khách quan của thế giới, điều hiện ra như là điều duy
nhất cần được làm, và nắm bắt cái "sẽ đến" như một cái gần như là hiện
tại (chứ không phải như một tương lai ngẫu nhiên. Sự dự đoán thực tiễn là hoàn
toàn xa lạ với logic mang tính tư biện thuần túy của một phép tính rủi ro, có
khả năng phân bổ các giá trị cho các khả năng khác nhau đang có. Nhưng tập
tính, như chúng ta đã thấy, cũng là một nguyên tắc phân biệt và chọn lọc, có xu
hướng bảo tồn những gì xác nhận nó, do đó tự khẳng định như là một tiềm năng có
xu hướng đảm bảo các điều kiện của sự hiện thực hóa chính nó.
Cũng giống như quan niệm duy tri thức của thuyết kinh tế
học chính thống tóm gọn khả năng làm chủ thực tiễn các tình huống bất trắc bằng
một phép tính duy lý các rủi ro*, tương tự, dựa trên lý thuyết trò chơi, quan
niệm này cũng xây dựng sự dự đoán hành vi của người khác như một kiểu phép tính
các ý định của đối thủ, được xây dựng trên giả thuyết rằng chúng là những ý định
đánh lừa, đặc biệt là về ý đồ của anh ta. Thật ra, vấn đề mà thuyết kinh tế học
chính thống giải quyết bằng giả thuyết siêu duy trí thức về hiểu biết
chúng/common knowledge (tôi biết rằng bạn biết rằng tôi biết), được giải
quyết, trong thực tiễn, bằng sự phối hợp các tập tính cho
phép, do chính sự tương đẳng của chúng, dự đoán được hành vi của người khác. Những
nghịch lý của hành động tập thể tìm ra giải pháp trong các thực tiễn có cơ sở
trên định đề ngầm rằng những người khác sẽ hành động một cách có trách nhiệm và
với tính thường kỳ hoặc lòng trung thành với chính mình, vốn được khắc sâu
trong tính cách lâu bền của tập tính.
Một ảo tưởng có cơ sở
Do đó, lý thuyết về tập tính có thể giải thích sự
thật bề ngoài của lý thuyết mà nó phủ nhận. Nếu một giả thuyết phi thực tế
như giả thuyết tạo ra cơ sở cho lý thuyết về hành động hoặc dự đoán hợp lý có
thể được xác nhận bởi các sự kiện, thì đó là bởi vì, do sự tương ứng giữa các tố
chất và các vị trí, các tác nhân, trong phần lớn các trường hợp (các trường hợp
ngoại lệ rõ ràng nhất là thành phần vô sản lớp dưới, những người bị giáng loại
và những kẻ đào ngũ, mà mô hình cũng có thể giải thích được), đưa ra những kỳ vọng
phải chăng, nghĩa là được điều chỉnh theo các cơ hội khách quan - và hầu như
luôn luôn được kiểm soát và củng cố bởi các tác động trực tiếp của các biện
pháp kiểm soát tập thể chẳng hạn do gia đình tạo nên. Và lý thuyết về tập tính
thậm chí còn cho phép chúng ta hiểu rằng một lý thuyết mang tính hư cấu và miễn
cưỡng như lý thuyết về "cá nhân tiêu biểu", dựa trên giả thuyết rằng
tập hợp các lựa chọn của tất cả các tác nhân khác nhau thuộc cùng một loại, chẳng
hạn người tiêu dùng, đều hành xử, bất chấp sự không đồng nhất cực độ của họ,
như là sự lựa chọn của một "cá nhân tiêu biêu" tiêu chuẩn sẽ tối đa
hóa lợi ích của mình và dù thế nào đi nữa cũng được xem là một tác nhân tiêu biểu,
một giả thuyết như vậy lại không bị các sự kiện phủ nhận hoàn toàn. Do đó, sau
khi chứng minh rằng sự hư cấu này đòi hỏi những giả thuyết rất cưỡng bức và rất
đặc biệt, rằng không có gì cho phép chúng ta khẳng định rằng sự tối đa hóa cá
nhân tạo ra tối đa hóa tập thể và rằng, ngược lại, việc tập thể thể hiện một mức
độ duy lý nhất đinh không dẫn đến việc tất cả các tác nhân đều hành động một
cách duy lý, Alan Kirman gợi ý rằng người ta có thể đặt hàm tổng cầu không phải
dựa trên tính đồng nhất, mà dựa trên tính không đồng nhất của các tác nhân, một
hành vi về cầu cá nhân rất phân tán có thể dẫn đến một hành vi của cầu tổng gộp
rất thống nhất và ổn định[54]. Thế mà, một
giả thuyết như vậy tìm thấy một nền tảng thực tế trong lý thuyết về tập tính và
trong việc biểu trưng người tiêu dùng như một tập những tác nhân không đồng nhất
và có lợi ích khác nhau (chẳng hạn như các điều kiện tồn tại của họ) nhưng lại
được điều chỉnh, trong mỗi trường hợp, với các điều kiện tồn tại kéo theo những
cơ may khác nhau và, do đó, bị tác động bởi những sự ràng buộc được ghi trong cấu
trúc của trường, trong cấu trúc của trường kinh tế trong tính tổng thể của nó,
và đối với các chủ công ty, cấu trúc của trường của công ty. Hầu như không có
chổ đứng nào trong trường kinh tế, cho những “sự điên rồ” và những người đi
theo hướng này sẽ sớm muộn phải trả giá bằng sự biến mất của họ vì sự thách thức
của họ đối với các quy tắc và các quy định nội tại của trật tự kinh tế.
Bằng cách đưa ra một hình thái rõ ràng và có hệ thống cho triết lý về tác nhân và hành động mà chính thuyết kinh tế học chính thống thường chấp nhận một cách ngầm (đặc biệt là bởi vì, với những ý niệm như sở thích hoặc sự lựa chọn duy lý, nó chỉ duy lý hóa các biểu tượng của lẽ thường), những người tán thành Lý thuyết Hành động Duy lý (bao gồm một số nhà kinh tế học, như Gary Becker) và Phương Pháp luận Cá Thể (như James Coleman, Jon Elster và những người môn đồ của họ ở Pháp) làm sáng tỏ những điều phi lý của một quan niệm kinh viện điển hình về thân phận của con người: thuyết siêu duy lý theo chủ nghĩa duy tri thức hạn hẹp (hay lấy tri thức làm tâm điểm) của họ mâu thuẫn, bởi chính sự thái quá và sự thờ ơ của nó đối với kinh nghiệm, với những thành tựu vững chắc nhất của các khoa học lịch sử về các thực tiễn của con người. Nếu ta cần phải chứng tỏ rằng nhiều thành tựu của khoa học kinh tế, một loại người khổng lồ với chân bằng đất sét, hoàn toàn tương hợp với một triết lý về tác nhân, về hành động, về thời gian và về thực tế thế giới xã hội hoàn toàn khác với triết lý thông thường được đa số các nhà kinh tế học sản xuất hay chấp nhận, đó không phải là để thỏa mãn một thứ thể diện của triết học, mà là để cố gắng thống nhất các khoa học xã hội bằng cách làm cho kinh tế học được trở về với cái chân lý của nó là một khoa học lịch sử.
Nguồn: “Le champ économique”, Actes de la Recherche en Sciences Sociales, Année 1997, vol. 119, pp. 48-66
Chú thích:
[1] P. Bourdieu et al, "L'économie de la maison", Actes de la recherche en sciences
sociales, 81-82, mars 1990, p. 1-96.
[2] Chúng
ta có thể có được một ý niệm về sự phân biệt các lĩnh vực kinh tế bằng cách đọc,
trong số này, bài báo của Frédéric Lebaron chỉ dành riêng cho lĩnh vực viết bằng tiếng Pháp.
[3] P.
Bourdieu, avec S. Bouhedja et C. Givry, "Un contrat sous contrainte", loc. cit., p. 34-51.
[4] P.
Bourdieu, avec S. Bouhedja, R. Christin et C. Givry, "Un placement de père de famille. La maison
individuelle, spécificité du produit et logique du champ de production", loc. cit., p. 6-33
[5] P.
Bourdieu et M. de Saint-Martin, "Le sens de la propriété. La genèse sociale
des systèmes de préférence", loc. cit., p. 52-64.
[6] P.
Bourdieu et R. Christin, “La construction du marché. Le champ
administratif et la production de la "politique du logement", loc. cit., p. 65-85.
[7] P.
Bourdieu, avec S. Bouhedja, R. Christin et C. Givry, loc cit.
[8] P.
Bourdieu, "Droit et passe-droit. Le champ des
pouvoirs territoriaux et la mise en œuvre des règlements", loc. cit., p. 86-96.
[9] Nếu
tôi phải nhắc lại, ở đây, những điều đã được nói ở nơi khác, đó là vì văn bản
này, do đối tượng của nó, có thể khiến độc giả không quen với các phân tích của
tôi, không phải lúc nào cũng thấy rằng chúng được áp dụng, và theo một cách rất
đặc biệt, cho đối tượng của kinh tế học.
[10] Về
những điều kiện kinh tế của việc tiếp cận tính toán kinh tế, xem P.
Bourdieu, Travail et travailleurs en Algérie, Paris-La Haye,
Mouton, 1963 (với A. Darbel, J.P. Rivet, C. Seibel) và Algeria 60.
Structures économiques et structures temporelles, Paris, Ed. De Minuit,
1977 và về điều kiện văn hóa, chúng ta có thể đọc sự mô tả về sự xuất hiện dần
của văn hóa thị trường/market culture, một lý thuyết xã
hội tự phát mô tả các mối quan hệ xã hội "chỉ về mặt hàng hóa và trao đổi,
trong khi chúng bao hàm nhiều thứ hơn” trong W. Reddy, The
Rise of Market Culture, The Textile Trades and French Society, 1750-1900,
Cambridge, Cambridge University Press, 1984..
[11] Về sự thật kép của lao động, xem P. Bourdieu, Méditations
pascaliennes, Paris, Ed. Du Seuil, 1997, tr. 241-244.
[12] R.M.
Titmus, The Gift Relationship. From Human Blood to Social Policy,
New York, Pantheon, 1971.
[13] Một
số người ủng hộ lý thuyết những dự kiến duy lý cho rằng việc sử dụng tốt nhất thông
tin sẵn có, khi biết rằng mục đích là sự tối đa hóa, sẽ đạt được dần thông qua
việc học từ những thử nghiệm và những sai lầm. Lý thuyết về các tố chất (của tập
tính) cho phép thiết lập sự tồn tại của các kỳ vọng phải chăng ngay cả khi không có bất
kỳ tính toán hợp lý nào.
[14] Trong khi chờ đợi một sự hình thức hóa tuân thủ những nguyên tắc này, chúng ta có thể đòi hỏi sự phân tich các sự tương ứng mà các nền tảng lý thuyết rất giống nhau, đưa ra một biểu tượng về trường (cf P. Bourdieu et M. de Saint Martin. “Le Patronat”, Actes de la recherche en sciences sociales, 20-21, Mars-Avril 1978, p, 3-82, Introduction).
[15] Lĩnh
vực kinh tế được tạo thành từ một tập hợp các tiểu trường, tương ứng với những
gì thường được gọi là "khu vực" hoặc "ngành" công nghiệp.
[16] W.H.
Hamilton, Price and Price Policies, New York, Mac-Graw Hill, 1938.
[17] M.R.
Tool, “Contributions to an Institutional Theory of Price Determination",
in CM. Hodgson, E. Screpanti, Rethinking Economics, Markets, Technology
and Economic Evolution, European Association for Evolutionary Political Economy,
1991, p. 29-30.
[18] Vốn
tài chính, vốn kỹ thuật và vốn thương mại tồn tại cả ở dạng khách thể hóa (thiết
bị, dụng cụ, v.v.) và ở dạng được sáp nhập (kỹ năng, sở trường, v.v.). Chúng ta
có thể thấy sự tiên đoán về sự khác biệt giữa hai trạng thái vốn, khách quan và
sáp nhập, ở Veblen, người chỉ trích lý thuyết chính thống về tiw bản, đã đánh
giá quá cao tài sản hữu hình gây thiệt thòi cho tài sản vô hình (Th.
Veblen, The Instinct of Workmanship, New York, Augustus Kelley,
1964).
[19] B.
Minth, M. Schwartz, The Power Structure of American Business,
Chicago, The University of Chicago Press, 1985.
[20] J.A.
Kregel, "Economic
Methodology in the Face of Uncertainty", Economie Journal,
86, 1976, p. 209-225.
[21] Bất
chấp "nguyên tắc của chủ nghĩa quyết định phân tầng", do Paul Weiss đề
xuất, người khẳng định "khả năng xác định – determinacy – trong
tổng thể - in the gross - bất chấp một sự không thể xác định –
indeterminacy – có thể được chứng minh ở cấp độ nhỏ – in the
small" (P.A. Weiss, “The living system: determinism stratified", in
A. Koestler, J.R. Smythies (eds), Beyond Reductionism New Perspectives in
the Life Sciences, London, Hutchinson, 1969, p. 3-42).
[22] Như R.H. Coase đã cho thấy rõ ràng, giả thuyết mà lý thuyết chính thống đã thực hiện ngầm về chi phí giao dịch bằng số không (zero transaction costs) là điều giúp tức thì hóa các hành động giao dịch: “một hậu quả khác của việc công nhận chi phí giao dịch bằng số không, thường không được chú ý, là khi không có chi phí giao dịch bằng số không, thì không tốn kém gì để đẩy mạnh chúng, do đó có thể trải nghiệm tính vĩnh cửu trong chốc lát” (R.H. Coase, The Firm, the Market and the Law, Chicago, The Chicago University Press, 1988, p.15.
[23] Lấy
trường đế thay thế cho thị trường là trở lại cấu trúc xã hội đặc thù (hoàn toàn
đối lập với khái niêm phi lịch sử của thị trường), trong đó các lựa chọn cá
nhân được phối hợp và tổng gộp trong thực tiễn.
[24] J.
Tirole, sđd, p. 4
[25] Những công trình kinh điển của Amos Tversky và Daniel Kahneman đã làm sáng tỏ những khuyết điểm và những sai lầm mà các tác nhân phạm phải về mặt lý thuyết sắc xuất và thống kê (A. Tversky và D. Kahneman, “Availability, a Heuristic for judging frequency and probability”, Cognitive Psychology, 2, 1973, p. 207-232, và cả S. Sutherland, Irrationality. The Ennemy within, London, Constable, 1972. Giả định duy tri thức làm cơ sở cho những công trình này có nguy cơ dẫn đến việc không biết rằng cái logic của những tố chất khiến cho những tác nhân có khả năng đáp ứng trên thực tế những tình huống đặt ra những vấn đề về sự tiên đoán những cơ may mà họ không thể giải quyết về mặt lý thuyết (xem P. Bourdieu, Le Sens Pratique, Paris, Ed. De Minuit, 1980).
[26] A.
Strauss, Continual Permutations of Action, New York, Aldine de
Gruyter, 1993.
[27] Xem M. Granovetter, “Economic institutions
as social constructions A framework for analysis”, Acta Sociologica,
1992, 35, tr. 3-11- Chúng ta sẽ tìm thấy trong bài viết này một dạng biến đổi của
thế phải lựa chọn giữa "cá nhân luận"
và "tổng thể luận"
đang hoành hành trong thuyết kinh tế học chính thống (và xã hội học) dưới hình
thức của sự đối lập, mượn từ Dennis Wrong (D. Wrong, “The
Oversocialized Conception of Man in Modern Sociology", American
Sociological Review, 26, 1961, p. 183-196), giữa quan điểm xã hội
hóa thấp/undersocialized view quen thuộc của thuyết kinh tế học chính
thống và quan điểm xã hội hóa cao/oversocialized view vốn cho
rằng các tác nhân quá "nhạy cảm với ý kiến của
những người khác đến mức họ tự động tuân theo các chuẩn mực hành vi thường được
chấp nhận" hoặc họ đã nội tâm hóa các chuẩn mực hoặc ràng buộc sâu sắc đến
mức họ không còn bị ảnh hưởng bởi các mối quan hệ hiện tại (đây chính là cách
mà khái niêm tập tính đôi khi bị hiểu một cách sai lầm). Do đó, người ta tự cho
phép mình kết luận rằng cuối cùng quan niệm về sự xã hội hóa thấp hay cao được
kết hợp lại với nhau để xem các tác nhân là các đơn tử khép kín với "ảnh
hưởng" của các hệ thống quan hệ xã hội hiện hành và các mạng xã hội/concrete
ongoing systems of social relations and social networks. Vậy nên “chủ
nghĩa tình huống/situationnalisme” hay thuyết tương tác biểu tượng chỉ là sự vượt
qua giả của thế đối ngã, cũng là giả, giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tổng
thể.
[28] J.
Tirole . Tiếp theo, tác giả có đưa ra những chỉ dẫn về chi phí và lợi nhuận gắn
với những loại sản phẩm (đặc biệt về lý thuyết và thực nghiệm) trên thị trường
của kinh tế học giúp chúng ta hiểu được vận mệnh so sánh của “truyền thống của
Harvard” và “lý thuyết mới về tổ chức công nghiệp” mà ông tán thành: “Cho đến
những năm 1970, các lý thuyết gia kinh tế học (với rất ít trường hợp ngoại lệ)
thường không biết đến tổ chức công nghiệp không dẫn đến một sự phân tích tổng
quát và tao nhã, điều mà lý thuyết về sự canh tranh trong cân bằng
chung đã làm. Nhưng từ đó có một số lý thuyết gia hàng đầu
đã quan tâm đến tổ chức công nghiệp”.
[29] E.S.
Mason, “Price and production policies of Large-scale Enterprise”, The
Economic American Review, XXIX. Supplement 1, March 1939, p, 61-74
(notamment p. 64).
[30] E.S.
Mason, sđd., p. 68 (chính tôi nhấn mạnh để đánh dấu sự dao động giữa ngôn ngữ của
cấu trúc, của sự ràng buộc cấu trúc và ngôn ngữ của ý thức và của sự lựa chọn
có chủ đích).
[31] Max
Weber nhận xét rằng trao đổi hàng hóa rất đặc biệt ở chỗ nó là hình thái hành động
mang tính công cụ và tính toán nhất trong tất cả các hình thái hành động,
“nguyên mẫu của hành động hợp lý” này tạo thành “sự ghê tởm đối với bất kỳ hệ
thống đạo đức huynh đệ nào” (M. Weber, Économie et Société, Paris,
Plon, 1971, trang 633).
[32] Lý
thuyết về quản lý, kinh văn của trường kinh doanh cho trường
kinh doanh, đảm nhiệm một chức năng hoàn toàn tương tự với các văn bản của
các nhà luật học vào thế kỷ XVI và XVII, góp phần xây dựng Nhà nước dưới hình
thức mô tả nó: được thiết kế để được các nhà quản lý, hiện tại hoặc tiềm năng,
sử dụng, nó liên tục dao động giữa cái thực chứng và cái chuẩn tắc và về cơ bản dựa trên việc đánh
giá quá cao phần dành cho các chiến lược có ý thức – so với các ràng
buộc mang tính cấu trúc và các tố chất của các nhà lãnh đạo.
[33] Ph.
Kotler, Marketing Management, Analysis, Planning,
Implementation, and Control, Englewood Cliffs, Prentice Hall, 1988 (1967),
p. 239.
[34] A.D.
Chandler, La main visible des managers, trad. F. Langer, Paris,
Economica, 1988, p. 70-72.
[35] Mặc
dù quan điểm này đôi khi bị thách thức từ một vài năm qua với lý do, kể từ cuộc
khủng hoảng, hệ thống thứ bậc liên tục bị xáo trộn và việc sáp nhập và mua lại
cho phép những công ty nhỏ mua lại những công ty lớn hoặc cạnh tranh
hiệu quả với chúng, chúng ta nhận thấy sự ổn định khá lớn của 200
công ty lớn nhất trên thế giới.
[36] A.D.
Chandler, Scale and Scope, The Dynamics of Industrial Capitalism,
Cambridge, Harvard University Press, 1990, p. 598-599.
[37] Cf
J. Campbell, L. Lindberg, "Property
Rights and the Organization of Economic Action by the State", American
Sociological Review, 55, 1990, p. 634-647.
[38] Neil
Fligstein đã chỉ ra rằng người ta không thể hiểu được sự chuyển đổi của việc điều
hành các công ty nếu không mổ xẻ, về lâu dài, trạng thái của các mối quan hệ mà
chúng dệt nên với Nhà nước, và điều này trong trường hợp thuận lợi nhất cho lý
thuyết tự do, Hoa Kỳ, nơi Nhà nước chứng tỏ là một tác nhân quyết định trong việc
cấu trúc hóa các ngành công nghiệp và thị trường (Cf N. Fligstein, The
Transformation of Corporate Control, Cambridge, Harvard
University Press, 1990).
[39] Nhà
nước không phải là cơ chế duy nhất để điều phối cung và cầu. Nếu vai trò của
Nhà nước là rõ ràng trong trường hợp của ngôi nhà, các tổ chức khác hoặc các
tác nhân khác cũng có thể can thiệp, chẳng hạn như các mạng quen biết lẫn nhau
để bán ma tuý (Ph. Bourgois, Searching for Respect: Selling Crack in
El Barrio, Cambridge, Cambridge University Press, 1996), các “cộng đồng” do
các người quen thuộc các cuộc đấu giá tạo thành (C. Smith, Auctions,
Berkeley, University California Press, 1990) hoặc các tác nhân chịu trách nhiệm
được định rõ về việc thiết lập mối quan hệ giữa cung và cầu (giống như người đứng
ra tổ chức cuộc đấu trong nền kinh tế quyền anh) (L. Wacquant, “A Flesh Peddler
at Work Power, Pain, and Profit in the Prizefighting Economy”, Theory
and Society, 27, sắp được xuất bản).
[40] Trong
trường hợp của giới các
ông chủ lớn ở Pháp, chúng ta đã có thể thiết lập sự tương đồng chặt chẽ giữa
không gian của các công ty và không gian của những người quản lý chúng, mà đặc
trưng là khối lượng và cấu trúc vốn của họ (xem P. Bourdieu và M. . de Saint
Martin, “Le patronat”, op. cit).
[41] Xem
N. Fligstein, The Transformation of Corporate Control, sđd , mô tả
cách thức mà sự lãnh đạo của công ty đã lần lượt chuyển từ tay của những người
đứng đầu bộ phận sản xuất, sang bộ phận tiếp thị, rồi bộ phận tài chính, và N.
Fligstein và L. Markowitz, “The Finance Conception of the Corporation and the
Causes of the Reorganization of Large American Corporations, 1979-1988”, trong
WJ. Wilson (ed.), Sociology and Social Policy, Beverly Hills,
Sage, 1993, và N. Fligstein và K. Dauber, "Structural
Change in Corporate Organization", Annual Review ò Sociology,
15, 1989, tr. 73-96; hoặc “The Intraorganizational Power Struggle The Rise of
Finance Presidents in Large Corporations”, American Sociological Review,
52, 1987, tr. 44-58.
[42] Chúng
ta có thể quan sát sự tương quan quyền lực giữa những người nắm giữ các kỹ năng
khác nhau gắn với các hệ đào tạo khác nhau (ENA, X, HEC) và đồng thời giữa các
chức năng hành chính, kỹ thuật, thương mại tương ứng, và sự cạnh tranh hoặc sự
tranh đua đối lập họ trong trường quyền lực đối với công ty, có thể xác định
các quyết định quan trọng nhất của công ty.
[43] H.
White, "Where do markets come from?", American Journal of
Sociology, 87(3), 1981, p. 517-547.
[44] n.t.
[45] P.
Bourdieu, Méditations pascaliennes, op. cit.
[46] G.
S. Becker, A Treatise on the Family, Cambridge, Harvard University
Press, 1981, p. ix; et aussi The Economie Approach to Human Behavior, Chicago,
The University of Chicago Press, 1976.
[47] V.
Pareto, Manuel d'économie politique (Sách giáo khoa kinh tế chính trị),
Geneva, Droz, 1964, tr.41. Chúng ta thấy rằng, không giống như phương pháp luận
cá thể chỉ muốn biết sự đối
chọn giữa lựa chọn có ý thức và có
chủ ý, đáp ứng các điều kiện nhất định về hiệu quả và tính liên kết, và
"chuẩn mực xã hội", mà hiệu quả cũng liên quan đến một sự lựa chọn,
ít nhất Pareto đã thừa nhận có một nguyên tắc hành động khác là phong tục, truyền
thống hoặc thói quen.
[48] Ngoài
Veblen, người đã bảo vệ ý tưởng rằng tác nhân kinh tế không phải là "một
bó ước ao" (a bundle of desires), mà là "một cấu trúc chặt
chẽ của các khuynh hướng và thói quen" (a coherent structure of
propensities and habits) (Th. Veblen, “Why is Economies not an Evolutionary
Science?”, The
Quarterly Journal of Economies, July 1898, p. 390), James S. Duesenberry
cũng nhận thấy rằng nguyên tắc ra quyết định tiêu dùng không nên được tìm về
phía một kế hoạch hợp lý mà về phía quá trình rèn luyện và hình thành thói quen
và ông đã xác lập rằng tiêu dùng phụ thuộc vào thu nhập quá khứ cũng như thu nhập
hiện tại (J.S. Duesenberry, Income, Saving and the Theory of Consumer
Behavior, Cambridge, Harvard University Press, 1949).
[49] S.
Mintz, Sweetness and Power, The Sugar in Modem History, New York,
Viking Penguin, 1985.
[50] P.
Bourdieu, La Distinction, Critique sociale du jugement de goût,
sđd., và L. Levine, The Emergence of Cultural Hierarchy in America,
Cambridge, Harvard University Press, 1988. Như đã thấy trong trường hợp của sự
phân tích các yếu tố quyết định kinh tế và xã hội của những sở thích mua hoặc
thuê một ngôi nhà, việc từ bỏ định nghĩa phản lịch sử về sở thích hoàn toàn
không dẫn đến một chủ nghĩa tương đối, có khả năng ngăn cấm mọi tri thức thuần
lý, về thị hiếu hoàn toàn tùy thuộc vào sự độc đoán xã hội thuần túy và đơn giản
(như công thức cũ, được viện dẫn bởi Gary Becker, de gustibus non est
disputandum/Ta không thể bàn về thị hiếu và màu sắc). Ngược lại, chúng ta
được dẫn đến việc xác lập một cách thực nghiệm các tương quan thống kê cần thiết
được thiết lập giữa các thị hiếu trong các lĩnh vực thực tiễn khác nhau và các
điều kiện kinh tế và xã hội của sự hình thành chúng, nghĩa là vị trí hiện tại
và quá khứ (hành trình) của các tác nhân trong cấu trúc phân bố vốn kinh tế, vốn
văn hóa (hoặc, nếu bạn thích, hiện trạng tại một thời điểm nhất định và sự phát
triển theo thời gian của khối lượng và cấu trúc vốn của họ).
[51] Cf.
A. Tversky, D. Kahneman, sđd.
[52] Chúng
ta có thể dựa vào những thành tựu của truyền thống của thuyết hành vi, đặc biệt
được Herbert Simon đại diện, nhưng không chấp nhận triết lý hành động của nó:
Herbert Simon nhấn mạnh đến trọng lượng của sự bất trắc và sự kém cỏi của tri thức ảnh hưởng
đến quá trình ra quyết định và khả năng hạn chế của bộ não con người; ông bác bỏ giả thuyết tổng quát về sự tối đa hóa nhưng vẫn giữ
quan điểm về một tính duy lý hạn chế/bounded rationality:
các tác nhân có thể không có khả năng thu thập và xử lý được tất cả các thông
tin cần thiết để đưa ra các quyết định tổng quát về sự tối đa hóa, nhưng họ có
thể đưa ra một lựa chọn duy lý trong một số khả năng hạn chế. Các công ty và
người tiêu dùng không tối đa hóa mà tìm cách đạt được mức tối thiểu có thể chấp
nhận được (cái mà ông gọi là thoả đáng/satisficing) do không thể
thu thập và xử lý tất cả thông tin cần thiết để đạt mức tối đa (H. Simon, Reason
in Human Affairs, Stanford, Stanford University Press, 1984).
[53] Xem
P. Bourdieu, Algérie 60, sđd.
* Xem bài “Một kỉ niệm kép: 100 năm xuất bản “Treatise on
Probability” của John Maynard Keynes và “Risk, Uncertainty and Profit” của
Frank Knight” (ND).
[54] Cf.
A. P. Kirman, “L'hypothèse de l'individu "représentatif" une analyse
critique", Problèmes économiqaues, 2325, 13 mai 1993, p.
5-14. [bản dịch của bản gốc tiếng
Anh “Whom or What Does the Representative Individual
Represent?”, Journal
of Economic Perpsectives, vol.6, n02,Spring 1992, 117-136 - ND]
